Cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng đất nước, đưa giang sơn về một mối của dân tộc ta, trải qua muôn vàn hy sinh gian khổ, nhưng cuối cùng đã giành thắng lợi. Non sông bờ cõi từ Lũng Cú (Hà Giang) đến mũi Cà Mau đã liền một dải. Dưới bầu trời tự do, người dân khắp ba miền đã, đang ngày đêm hăng say lao động, đồng lòng xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
Trong những năm tháng chiến đấu trường kỳ gian khổ ấy, có biết bao người con anh dũng đã không tiếc máu xương mình vì nền độc lập tự do của dân tộc. Họ là những thanh niên gái trai trực tiếp cầm súng chiến đấu, cũng là những ông già, bà cả trên miền Bắc, hay má Năm, chú Bảy, cô Chín… Ở những vùng quê Nam Bộ, những người thường ngày vẫn mưu sinh bằng các công việc như chạy ghe, làm vườn, coi đìa, buôn bán tảo tần… nhưng khi cách mạng cần, sẵn sàng gánh vác nhiệm vụ mà không sợ hy sinh gian khổ, không sợ liên lụy, cũng không một đòi hỏi toan tính dù nhỏ. Họ chính là những người lính không biên chế của đội quân chiến tranh nhân dân đã làm nên bao kỳ tích trong cuộc chiến đấu một mất một còn vì sự trường tồn của Tổ quốc Việt Nam.
Đóng góp của họ thật vô cùng lớn lao, nhưng không phải ai ai cũng được ghi tên vào bảng vàng danh dự, hoặc được một lần nhắc tới. Tất nhiên, ý nghĩa sâu xa của việc cống hiến của tất cả mọi người không phải để được lưu danh, đãi ngộ; nhưng chính sự hy sinh thầm lặng này đã làm cho tầm vóc những con người ấy trở nên lớn lao. Những con người ấy là những “nốt lặng” trong bản nhạc hùng tráng, nói cách khác, họ là những cây lim, cây táu đang sống khuất lấp giữa đại ngàn khi bão tố đã lặng yên.
Bài viết này chỉ đề cập đến một góc nhỏ - rất nhỏ của hiện thực những năm chiến tranh ở vùng sông nước Nam Bộ. Đó là chiến công thầm lặng của những người ba, người má, cô, dì, chú, bác… những con người đã làm phong phú thêm Học thuyết chiến tranh nhân dân đầy sáng tạo của cách mạng Việt Nam.
Sau Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, địch tung quân bình định, đánh phá ác liệt khắp miền Nam, đẩy cách mạng miền Nam vào thế khó khăn tứ bề. Riêng vùng căn cứ U Minh kéo sang các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, chúng lập hàng loạt đồn bốt, chi khu nối dài một dải biên giới tới tận Hà Tiên, Châu Đốc, với ý đồ cắt đứt tuyến hành lang vận chuyển hàng hóa, vũ khí từ miền Bắc cho chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ qua nẻo Cam-pu-chia và đường biển. Cùng với chiến thuật “tràn ngập lãnh thổ”, địch đã gây cho ta không ít khó khăn. Khu 8 và Khu 9 là hai địa bàn từng ngày từng giờ phải đối mặt với sự thiếu thốn lương thực, vũ khí đạn dược, thuốc chữa bệnh. Có những lúc địch gần như làm chủ chiến trường. Chúng mở những cuộc hành quân vây ráp tìm diệt các cơ sở, kho tàng hậu cần của ta, đẩy lực lượng chủ lực ta về bên kia biên giới.
Để chiếm lại địa bàn, đứng chân được ở vùng đồng bằng, con đường duy nhất là phải dựa vào dân, huy động sức mạnh từ nhân dân. Dù khó khăn đến mấy, được nhân dân ủng hộ chúng ta cũng sẽ vượt qua. Địch chặn đêm ta đi ngày, địch bủa lưới giăng bẫy hoạt động bí mật, ta tìm cách qua mặt chúng dưới hình thức công khai. Điều đó chỉ có người dân mới làm được, bằng sự mưu trí, “biết địch biết ta”, nhân dân sẽ làm thất bại âm mưu của chúng. Với tầm nhìn ấy, Trung ương chỉ thị phải lấy lại thế chủ động, giành đất, bám dân, sức mạnh là ở lòng dân, có dân là có tất cả, đẩy đối phương vào thế bị động đối phó, mở những trận đánh, những đợt tấn công nhỏ, lớn trên diện rộng khắp các địa phương Đồng bằng sông Cửu Long. Thực hiện tinh thần đó, giữa năm 1969, Quân khu 9 đã thành lập Tiểu đoàn vận tải sông nước công khai gọi tắt là CK, còn có tên là Đội CK, hoạt động hợp pháp, nhưng thực tế là bất hợp pháp, luồn sâu, kế hiểm, do người dân đảm nhiệm, phương tiện tác chiến là những chiếc ghe một đáy, hai đáy.
Nhiệm vụ của Đội CK là vận chuyển vũ khí, đạn dược từ các điểm tập kết dọc biên giới Cam-pu-chia đến tận các mặt trận, những vùng nóng đang “đói” súng đạn ở bất cứ nơi nào trên địa bàn Quân khu. Đây là những nơi địch bố phòng, tăng cường lục soát 24 trên 24 giờ, tạo thành lá chắn, lực lượng vận tải vũ trang hoặc bán vũ trang không thể “xuyên” thủng được, đành phải “nhường” trận địa lại cho lực lượng đặc biệt CK. Ông Bảy Hộ, một người chuyên chạy ghe hai đáy chở đạn - “người lính” không có trong biên chế, đã mấp mé tuổi 80, song vóc vạc vẫn quắc thước, nước da đồng hun cả cười khi nhắc lại chuyện cũ. Nhớ tới những năm tháng xuôi ngược trên sông nước với con thuyền chuyển tải vũ khí đạn dược cho bộ đội, ông như quên tuổi già, trở lại thời trai trẻ đáng tự hào của mình. Ký ức hào hùng như vỉa quặng tàng ẩn trong ông, có dịp là lật lên hết lớp này tới lớp nọ, chỗ nào cũng lấp lánh, chỗ nào cũng lóe sáng. Vâng, ông Bảy chỉ là một trong hàng chục, hàng trăm “chiến binh” của đội quân không sao gạch, số lính, không cả biên chế, nhưng lại luôn gieo nỗi kinh hoàng cho đối phương, mà chúng có trăm mưu ngàn kế cũng phải chấp nhận thất bại.
Ông Bảy kể: “Là người dân, nhưng tụi tôi sẵn sàng nhận nhiệm vụ bất cứ lúc nào, có lệnh là đi, bất kể đêm tối hay ban ngày. Đường đi lối lại trên sông thuộc như lòng bàn tay, thuyền khi chở súng đạn, lúc chở cán bộ đi công tác, quen nhẵn bọn lính, nhưng nhiều phen cũng toát mồ hôi. Xác định là bất cứ tình huống nào cũng phải an toàn, giữ bí mật cho những chuyến hàng. Có lần ghe tui đang ngon trớn thì giang thuyền tụi lính đuổi theo đòi khám xét. Lúc đó bên dưới năm chục buồng chuối và trăm quả dừa ngụy trang, dưới hầm chở gần trăm quả đạn cối 60 và một đồng chí cán bộ về Khu họp. Đã bị nhiều lần nên tui biết tụi nầy đòi ăn, lục túi được mấy chục ngàn, thôi, còn bây nhiêu, mấy cậu xài tạm, lần sau còn gặp nữa mà. Thằng chỉ huy nhăn mặt, nhớ lần sau phải gấp ba chỗ nầy đó nghen. Tui ừ đại rồi phóng ghe đi”.
Trong tình hình địch phong tỏa khắp mọi con đường, nhất là trên bộ, đưa được một viên đạn, một khẩu súng đến với các chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu là cực kỳ khó khăn, không chỉ mồ hôi, nhiều khi phải trả bằng máu. Nhưng nhờ có dân, và chỉ có người dân mới “bịt” được mắt địch để đưa “hàng” tới đích. Người xưa nói quả không sai, dễ mà không có dân cũng chịu, nhưng khó nghìn lần dân lo liệu cũng xong2. Trên các con sông giang thuyền chúng tuần tra suốt ngày đêm, đóng chốt khắp nơi, nay chỗ này, mai lại phục chỗ khác, không biết đâu mà tránh. Hễ tình nghi là chúng chặn lại lục soát, dù bất cứ đó là thuyền chở hàng khô hay hàng tươi. Phương thức vận chuyển bí mật (bất hợp pháp) lúc đầu thuận lợi, nhưng sau nảy sinh yếu điểm, dễ bị nghi ngờ, mất nhiều thời gian, nên cấp trên quyết định dùng hình thức công khai (viết là CK). Tuy mạo hiểm, nhưng cách làm này mang lại hiệu quả lớn, ngoài vấn đề kịp thời là số lượng hàng vận chuyển. Đội quân vận chuyển hàng công khai phải được lựa chọn những người can đảm, tháo vát, khéo ăn nói, cỡ như ông Bảy Hộ - Đó là những chú Sáu, dì Ba, ông Tám, bà Mười… những cơ sở cách mạng, hoặc có cảm tình với cách mạng. Dù biết đấy là công việc nguy hiểm đến tính mạng, liên lụy tới gia đình, nhưng không một ai từ chối, trái lại thấy vinh dự khi được giao việc. Không ai khác, họ vẫn là những người hàng ngày đi khắp nơi mưu sinh, làm ăn buôn bán, có thể nói, bọn địch đã “nhẵn mặt”, nhưng bây giờ dưới hầm ghe là súng đạn, thuốc chữa bệnh, hay cán bộ đi công tác từ vùng này qua vùng kia… những buồng chuối, dừa, những trái khóm, mãng cầu, sầu riêng, chôm chôm giờ trở thành vật ngụy trang.
2. Ý lời dạy của Bác: “Dễ muôn lần không dân cũng chịu/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Nhưng để “đội quân” này dễ qua mặt địch, Quân khu chủ trương làm thẻ căn cước cho họ. Việc làm căn cước không hề đơn giản, phải làm sao giả mà y như thật, nếu lộ không chỉ người mang thẻ bị bắt mà chúng sẽ “khui” ra cả đường dây vận chuyển. Đầu tiên là khắc dấu, giả mạo chữ ký của cảnh sát trưởng, luyện đến bao giờ thành thục mới thực hiện. Địch thường cài cắm tay chân, trà trộn người của chúng vào cơ sở của ta nên phải hết sức thận trọng. Công việc phải tiến hành ở nơi xa dân cư, phần lớn làm vào ban đêm, ít người để ý, khi lăn tay, chụp ảnh bà con phải giả dạng đi công chuyện, lẻ tẻ từng người một. Tất cả những người trong Đội CK đều được trang bị căn cước giả, và suốt nhiều năm không ai bị phát hiện, bắt bớ. Địch, tiếng là quản lý chặt, nhưng yếu huyệt của chúng là tệ nạn tham nhũng, từ cấp trung ương xuống phường, ấp, nơi nào cũng có, trên cao ăn to, trung gian vừa vừa, cơ sở như đám lính, nhiều khi chỉ cần dăm bao thuốc lá Ru bi, con gà, thậm chí mấy nải chuối chín cũng xong.
Với một chiến trường sông rạch chằng chịt, nối liền các tỉnh thành, huyện lỵ, ghe thuyền đi lại ngày đêm như mắc cửi như Đồng bằng sông Cửu Long, bọn địch có mười đầu sáu tay cũng không kiểm soát nổi. Về phía ta, dựa vào yếu tố “địa lợi”, các thành viên trong Đội CK hoạt động khá hiệu quả, ăn ý. Súng, đạn được đưa tới tận nơi theo yêu cầu, bất kể giờ giấc, thời tiết, bất kể địch tăng cường kiểm soát chốt giữ thế nào. Bởi thế những trận đánh lớn, nhỏ nổ ra khắp nơi và không mấy khi thiếu đạn. Từ thực tế đi công khai này mà phương thức đóng ghe hai đáy ra đời như đã nói ở trên. Nghe nói ngày ấy, tại một điểm sâu trong rừng U Minh Thượng, có một xưởng mộc với hơn chục tay thợ, do một người có tên Sáu Hậu phụ trách với nhiệm vụ đóng thuyền. Công việc từ A đến Z, tìm gỗ, xẻ ván, lên khung, uốn ép và cho ra đời những chiếc ghe một đáy, hai đáy, theo khuôn mẫu kiểu dáng của các tỉnh trong vùng rồi kẻ biển, đánh số theo các tỉnh như Vĩnh Long, Cà Mau, Sóc Trăng, Đồng Tháp, v.v.. để đi lại cho thuận tiện mà kẻ địch cũng khó lòng kiểm soát. Hoàn thiện xong tới đâu, giao cho Đội CK tới đó để lấy phương tiện hoạt động. Hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn, trên trời máy bay trinh sát địch rà qua rà lại thường xuyên, dưới đất biệt kích, thám báo lùng sục, rồi thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là muỗi mòng, rắn độc… ốm đau bệnh tật. Muỗi rừng U Minh quơ tay có thể bắt được cả nắm, còn trăn rắn, đêm ngủ nó trườn qua mình, thấy lành lạnh cứ phải nằm im như chết, động cựa là nó “xơi” ngay… Thế nhưng vượt lên tất cả, họ làm việc hầu như không có ngày nghỉ. Suốt nhiều năm, những người thợ đã cho ra đời hàng chục phương tiện, góp phần làm nên những trận bão lửa dội xuống căn cứ, sào huyệt giặc, gây cho chúng bao nỗi kinh hoàng.
Thời gian và sự xâm hại của cây cối đã xóa đi tất cả, không ai còn có thể nhận ra nơi nào những người thợ năm xưa đã dựng xưởng, nơi nào họ làm lán trại trú thân qua những mùa mưa gió. Ông Sáu Hậu giờ ở đâu, và hơn chục con người ấy bây giờ tản mát nơi đâu, ai còn ai mất? Dấu tích một thời cùng những chiến công thầm lặng ấy, lịch sử không ghi, lòng người, cả người trong cuộc, hầu như cũng chẳng ai nhớ nữa. Cuộc sống mưu sinh, mối lo cơm áo hàng ngày ngẫm ra còn quan trọng cấp thiết hơn nhiều lần danh vọng.
Lần ấy, sau Hiệp định Pa-ri, địch xua 27 tiểu đoàn quân lấn chiếm vùng giải phóng Long Mỹ - Vị Thanh. Để đánh bật địch ra khỏi vùng đất ta đang chiếm giữ, phải có một cơ số đạn khá lớn, Tư lệnh Quân khu lệnh cho Tiểu đoàn vận tải 804 (Đội CK), trong vòng hai ngày phải chuyển 150 quả đạn cối 120 ly từ Năm Căn về Long Mỹ. Quãng đường đi khá dài, thời gian gấp gáp, đấy là chưa kể tới phải qua hàng chục trạm gác và các giang thuyền tuần tra như mắc cửi trên sông. Một bài toán, một câu hỏi khó trả lời. Ai là người có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ nặng nề này. Bàn đi tính lại, cuối cùng lãnh đạo chỉ huy Đội CK giao cho bà Ba Nhứt. Không phải đảng viên, nhưng bà có cảm tình với cách mạng. Gia đình bà ở Vàm Cái Lớn, gần chục người già, trẻ đều tham gia Đội CK. Với một người quen thuộc sông nước, bà Ba Nhứt tính toán đường đi, căn cứ chiều xuôi, ngược của dòng chảy, những chỗ địch đặt trạm, rồi cho người đi mua 1.200 trái khóm (dứa gai), chất đầy trên sàn ghe, ngụy trang cho số đạn cối phía dưới. Ngay chiều hôm ấy bà cho thuyền xuất phát, và số đạn đó đã đến nơi quy định trước thời gian, kịp giờ nổ súng.
Hoạt động ở một địa bàn sông nước rộng lớn như vậy, Tiểu đoàn vận tải 804 (Đội CK) có trên 20 chiếc tàu hai đáy, loại chở được từ 10 đến 20 tấn, và hàng chục chiếc vỏ lãi, vừa một đáy vừa hai đáy, một số ghe nhỏ có sức cơ động lớn, thuận tiện cho việc đi lại, luồn lách trong những kênh rạch nhỏ, làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón cán bộ Quân khu đi công tác xuống địa phương, hay từ tỉnh lên Quân khu họp. Thiết kế một ghe hai đáy như làm hầm bí mật, phải căn mép ván sao cho thật khớp, không có khe hở đề phòng trường hợp nghi ngờ địch kiểm tra bốc dỡ hết hàng phía trên thì cũng không phát hiện được vũ khí dưới đáy thứ hai. Nhưng với loại đạn cối cồng kềnh như H12, đế cối 120 ly, hoặc ĐKZ 75... không lọt cửa hầm, bắt buộc phải dùng ghe một đáy, gọi là chở xá. Phương thức chở xá có ưu điểm là chở được loại hàng cồng kềnh, nhưng lại rất nguy hiểm vì dễ lộ, do vậy phải chọn người tháo vát, bản lĩnh, linh hoạt phòng khi bị địch kiểm tra nhanh trí đối phó với chúng. Việc dùng ghe hai đáy, vỏ lãi hay chở xá hoạt động ở vùng chiến trường sông nước như Đồng bằng sông Cửu Long là một sáng tạo có tính đột phá. Ví dụ chuyển 100 quả đạn cối 120 ly nếu dùng lực lượng Thanh niên xung phong, hoặc bộ đội phải cần 100 người, nhưng dùng ghe, thuyền thì chỉ cần một phụ nữ, hay ông già. Sự ra đời phương thức vận chuyển này xuất phát từ thực tế chiến trường và nó đã phát huy hiệu quả rất tốt. Không ai không biết “cha đẻ” của nó chính là những người nông dân mà cuộc đời gắn bó với sông nước miền Tây, trong đó phải kể tới vợ chồng ông Chín Lụa.
Ông bà Chín quê Sóc Trăng. Hồi đó cả hai đều đang ở độ tuổi 60. Đi lại dọc ngang trên sông như cơm bữa, những chuyến hàng lên miệt Cần Thơ khi dừa, trái khóm, lúc sầu riêng, chôm chôm. Không ai biết dưới bụng ghe kia có súng ống, đạn dược. Nhưng lần ấy, sau khi vượt nhiều chốt chặn, qua mặt bọn giang thuyền, chiếc ghe chở khẳm đạn cối của ông bà bỗng nhiên bị ách lại. Chúng tuyên bố neo ghe chờ trời sáng sẽ đưa về Vùng 4 chiến thuật khám xét. Một tình huống bất ngờ vô cùng nguy hiểm, không lo cho tính mạng mình mà ông bà sợ bại lộ phương thức vận chuyển. Điều đó sẽ ảnh hưởng tới sức chiến đấu của cả chiến trường vì địch sẽ tìm ra cách đối phó, ngăn chặn, nguồn tiếp tế súng đạn từ biên giới sẽ không tới được mặt trận. Suy nghĩ rất nhiều, phải bằng mọi cách giữ được sự sống cho con đường và cách thức vận chuyển, và thật bất ngờ, hai ông bà đưa ra quyết định, một hành động dũng cảm phi thường. Đêm tối, giữa lòng sông Hậu, họ đã tự đánh đắm chiếc ghe, tự nguyện hy sinh cùng con thuyền. Hai vợ chồng người nông dân ấy đã mang theo bí mật của con thuyền và phương thức vận chuyển vũ khí đi vào lòng sông Hậu sâu hút mênh mông, giá lạnh.
Nói về phương thức chở xá, không thể không nhắc tới trường hợp hy sinh của chú Mười Út. Chú Mười quê Hồng Ngự (Đồng Tháp), nhà nghèo nhưng tấm lòng đối với cách mạng của vợ chồng chú thì không nói sao cho hết. Lần đó nhận lệnh chở gấp 30 quả đạn ĐKB để đêm pháo kích vào sân bay Trà Nóc (Cần Thơ). Những quả đạn dài nặng nằm xếp dọc một lượt như những đứa trẻ bốn, năm tuổi theo thân thuyền, phía trên chú xếp bốn chục buồng dừa mới hái trong vườn. Chú Mười ngồi sau cầm lái, còn thím ngồi đầu mũi quan sát. Đi được chừng hai phần ba chặng đường, vượt qua nhiều trạm gác. Trời chiều, tàu thuyền đi lại ngược xuôi trên sông càng nhộn nhịp, đang ngon trớn, chợt, một chiếc ghe ba lá chạy ngược chiều, ông già ngồi lái giơ ngón tay ra hiệu cho vợ chồng chú Mười phía trước địch đang khám xét. Biết nguy hiểm, nhưng trạm xét đã hiện ra trước mặt. Quay trở lại chẳng khác nào “thưa ông tôi ở bụi này”, nhìn đám giang thuyền giăng hàng đang lục soát ghe hàng của bà con, chú Mười bảo vợ bám vững thành ghe rồi tăng hết tốc lực cho chiếc ghe lách vào giữa khoảng trống vút qua, một vệt khói vương lại mặt sông. Bọn lính bất ngờ nổ súng đuổi theo, nhưng chiếc ghe lạng lách theo hình chữ chi chạy mất hút, để lại cho đám bảo an một nỗi thất vọng, căm tức. Bọn địch cho giang thuyền đuổi theo. Đạn vãi sau ghe, bị thương vào cánh tay nhưng chú Mười vẫn không chịu dừng. Cuộc rượt đuổi trên sông giữa ban ngày làm thuyền lớn, thuyền nhỏ dạt hết sang bên. Chiếc ghe lớn của bọn lính ngày càng đuổi gần ghe chú Mười. Một loạt đạn từ phía sau bay tới phá thủng bụng ghe chú Mười. Chỉ trong vòng mười lăm phút, ghe chở nặng, nước ào vào, kéo chiếc ghe và những quả đạn ĐKB, cùng hai vợ chồng người nông dân Mười Út chìm xuống đáy sông. Dù có những lúc ngàn cân treo sợi tóc như vậy, nhưng phương thức chở xá và ghe hai đáy vẫn là một ẩn số với địch.
Lần ấy trên bến Năm Căn trong khi chờ ghe đi Đất Mũi, tôi ghé cái quán nhỏ bán đồ lặt vặt cho người đi đường. Bà chủ quán chừng ngoài bảy mươi, tấm lưng hơi còng, đôi mắt không còn tinh anh, hậu quả của tháng năm lăn lộn kiếm sống vất vả. Gian lều tạm chỉ chừng sáu mét vuông, đấy cũng là nơi ở của bà. Giữa trưa nắng, gió từ khắp nơi như đổ dồn về đây, những tấm lá lợp mái nảy phần phật. Tôi gọi một cốc trà đá rồi gợi chuyện, ban đầu bà chỉ ậm ừ không muốn tiếp, sau có lẽ thấy khách “lì” quá nên bà cũng vui chuyện. Hóa ra quê bà ở Bạc Liêu, hồi chiến tranh, đêm đó có người lính giải phóng bị một tốp lính “quốc gia” truy đuổi rát, bí quá, anh lao vào nhà bà cầu xin ẩn nấp. Nhìn người lính trẻ nói giọng Bắc, thương quá, bà dẫn anh giấu vào bụi bình bát sau vườn. Tụi lính “quốc gia” ập vào nhà sục tìm khắp mọi xó xỉnh, chúng truy hỏi nhưng bà một mực nói rằng không có ai chạy vào đây. Không tin, chúng nhất định chờ cho tới khi trời sáng để khui hầm bí mật. Phải bằng cách nào đó đuổi bọn lính đi, có thế mới giữ an toàn được cho anh chiến sĩ giải phóng kia, và bản thân bà cũng không bị chúng làm khó. Một quyết định táo bạo và bất ngờ, bà cầm mồi lửa châm lên mái tranh nói lớn: “Các ông nhìn coi, có thấy Việt cộng không”. Ngọn lửa bén nhanh, bốc cao, hắt sáng lên nền trời, dân làng hò nhau chạy tới, người mang chậu, người cầm xẻng, câu liêm… chữa cháy. Đám lính vội lẩn vào bóng tối lủi mất. Cứu thoát được người lính, nhưng không còn chỗ nương thân, bà đi lang thang rồi cuối cùng “đóng chốt” tại bến đò Năm Căn này. Và đã nhiều năm bà sống nhờ vào những đồng tiền của khách thập phương, không quan tâm đến quá khứ, cũng chẳng phàn nàn về lý do đưa đẩy mình tới hoàn cảnh ấy, bà cứ lặng lẽ sống, bình thản sống trước cuộc đời đầy bon chen, ngang trái.
Lại nhớ hôm ở bến xe Cà Mau, tôi cũng bắt gặp một trường hợp có thể nói khá đặc biệt. Người phụ nữ bán hàng rong ấy trạc ngoài sáu mươi, dáng người gầy gò nhỏ thó, trong cái rổ nhựa của chị là những túi nước mía, ổi xá lỵ, khóm… Thấy ở chị ta có cái đó gì hơi khác người, tôi mua một hộp sầu riêng để kiếm cớ hỏi chuyện, và quả tôi đã không nhầm. Đấy là một thanh niên xung phong thời đất nước chiến tranh. Đơn vị Út Nhỏ (tên người phụ nữ) làm công tác vận tải ở chiến trường miền Đông. Nghe tới đó tôi như gặp lại người thân vì B2 (miền Đông Nam Bộ) với tôi không có gì xa lạ. Út Nhỏ bị thương mất cánh tay phải trong một trận đánh nhau với biệt kích Mỹ ở khu vực lộ đá đỏ gần cầu Bà Chiêm. Một buổi chiều mùa mưa tháng 9 năm 1969, sau mấy ngày ai nấy khóc sưng mắt khi nghe tin Bác Hồ mất, đại đội hạ quyết tâm biến đau thương thành hành động, gồng mình chuyển những thùng đạn B-40 cho một đơn vị bộ đội thì bị địch tấn công. Nhào vội cả người và xe đạp vào bên đường, mọi người cầm súng đánh trả. Những tên lính Mỹ to cao lừng lững tìm cách bắt sống các cô gái chân yếu tay mềm. Lúc đầu chúng tưởng có thể “ăn sống nuốt tươi” được các cô gái, nhưng không ngờ bị họ quật cho tơi bời, nhiều đợt xung phong của chúng thiệt hại nặng. Bị tổn thất, chúng gọi pháo Cần Lê, Suối Đá bắn như mưa về phía đơn vị Thanh niên xung phong. Trên đường rút, Út Nhỏ bị một mảnh đạn chém đứt cánh tay. Thấy mình không còn đủ sức phục vụ, Út Nhỏ xin ra quân. Và cho đến khi tôi gặp, chị vẫn đơn thân ở với người mẹ già ngoài tám mươi, không chế độ, hàng ngày kiếm sống bằng công việc bán dạo ở bến xe đò. Thật không dễ để Út Nhỏ kể lại những tháng năm lăn lộn nắng mưa bom đạn của đời mình, không phải chị tự ty, cũng chẳng phải hờn giận tổ chức, mà chị coi đấy là nghĩa vụ của một công dân khi đất nước cần. Trên đất nước này đâu chỉ có một Út Nhỏ, một bà bán nước ở bến thuyền Năm Căn, hay ông Bảy, chú Năm, cô Ba, dì Tư, v.v.. mà còn biết bao con người như thế, họ đang hiện diện khắp thôn làng, phố thị trên đất nước ta. Và chính họ là chất liệu sống thôi thúc tôi viết bài bút ký này.
Dòng sông Hậu mùa này nước đầy. Dòng nước trôi xiết như mang đi bèo bọt, rác rưởi, để lại xanh trong cho những rặng dừa, vườn sầu riêng, măng cụt, cây cối đôi bờ soi bóng. Cuộc sống như vận hành hết tốc độ, sự đi lại trên sông cũng nhộn nhịp, hối hả hơn. Những chiếc ghe lớn, ghe nhỏ, và cả ghe tam bản hôm nay lòng chất đầy hàng hóa phục vụ nhu cầu dân sinh, vẫn là những sản phẩm miệt vườn, đã và sẽ có mặt ở khắp mọi nơi, không chỉ vùng Đồng bằng sông Cửu Long mà còn vươn tới tận Thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Vũng Tàu, v.v.. Những dè lục bình như cũng trôi gấp gáp hơn. Những xoáy nước cuộn tròn như những dấu hỏi lớn. Có phải dòng sông một thời là tuyến vận tải huyết mạch phục vụ chiến đấu, đang cất giấu trong lòng bao chiến công và tấm gương hy sinh thầm lặng của những con người bình dị, khiêm nhường như ông bà Chín Lụa, như chú Mười Út, ông Sáu Hậu, bà Ba Nhứt… đang cất tiếng hỏi chúng ta. Vâng, một câu hỏi về trách nhiệm thiêng liêng của những người đang sống về sự vẹn toàn bờ cõi và sự hưng thịnh của đất nước hôm nay.
Ngoài việc vận chuyển vũ khí, đạn dược, phương thức này còn được áp dụng cho công tác giao liên, đưa, đón cán bộ trung, cao cấp từ địa bàn này sang địa bàn khác. Đi công khai, bắt buộc đều phải có căn cước, nhưng chỉ căn cước cũng không dễ qua được sự kiểm soát của địch mà nhiều khi còn phải đấu trí, đấu lý với chúng. Đây là “việc” của người dân, một khi cán bộ dù cấp tỉnh hay Quân khu đã bước xuống ghe của họ thì nhất cử nhất động do họ chỉ đạo. Không ai hết, người dân họ biết chỗ yếu kém, lơi lỏng của địch để mà tấn công vào đấy, trăm trận trăm thắng. Tuy địch có trăm phương ngàn kế cũng đều thất bại trước sự mưu trí của người dân.
Lần ấy, Phó Chính ủy Quân khu Bùi Thanh Khiết (Hai Thanh) đi công tác miền Tây. Công việc đưa đón được giao cho chị Tư Rạng. Họ đóng vai hai vợ chồng đi công chuyện khá ăn ý trên phần lớn đoạn đường, qua không ít trạm kiểm soát. Nhưng khi về tới đồn Xáng Cụt, cùng với hàng chục ghe khác, chiếc ba lá của họ bị ách lại. Số là đêm trước Xáng Cụt bị du kích tiến công bằng đạn pháo cối, để tránh một trận tiếp theo, chúng bắt bà con làm con tin. Suốt đêm đó chị Tư Rạng và anh Hai Thanh không sao chợp được mắt. Lo lắng, ngộ nhỡ đồn bị tiến công, chúng sẽ xả súng vào những chiếc ghe của dân để trả thù, điều đó nếu xảy ra, sẽ ảnh hưởng lớn đến chuyến công tác triển khai kế hoạch của Quân khu cho các tỉnh, thành. Và như vậy không đảm bảo an toàn tính mạng cho đồng chí Hai Thanh, chị Tư Rạng tất nhiên không hoàn thành nhiệm vụ. Lợi dụng đêm tối, chị Tư lội xuống sông cắt dây neo cho con thuyền trôi tự do theo dòng nước ra khỏi vùng nguy hiểm, rồi chị tiếp tục cho ghe đi theo hành trình đã định. Tờ mờ sáng hôm sau, chị Tư đã đưa đồng chí Phó Chính ủy Quân khu về tới nơi an toàn trước niềm vui của đơn vị.
Không phải bây giờ mà từ những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã thấy có hàng trăm, hàng ngàn anh hùng vô danh. Họ là những người lính không mang áo lính, những nông dân của các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã xung phong đi dân công xẻ núi làm đường, hay vận chuyển lương thực phục vụ chiến trường. Những đôi chân trần tứa máu đã vượt hàng trăm cây số qua núi cao, vực sâu, đội mưa bom bão đạn, đưa từng cân gạo, hạt muối đến tận chiến hào, tiếp thêm sức mạnh để chiến sĩ chiến đấu. Rất nhiều người nằm lại dọc đường, không được chứng kiến ngày kết thúc chiến tranh.
Hòa bình lập lại, những người còn sống lại trở về với thửa ruộng mảnh vườn, sống cuộc đời của những người nông dân thuần phác. Không bằng vàng danh dự, cũng chẳng đòi hỏi ghi công đãi ngộ, lặng thầm cống hiến và lặng thầm hy sinh, họ thật sự là những anh hùng vô danh đã làm sáng ngời thêm chân lý không có gì quý hơn độc lập tự do.
Trở lại miền sông nước Tây Nam Bộ hôm nay, ta không thể nhận ra dấu vết cuộc chiến tranh nghìn ngày khốc liệt. Những miệt vườn cây trái xum xuê. Những cánh đồng lúa trải dài tít tận chân trời, những xóm nhà bình yên dưới bóng cây xanh. Và những dòng sông, kênh rạch ghe thuyền ngược xuôi hối hả. Một phiên chợ nổi Cái Răng người mua kẻ bán nhộn nhịp từ sáng sớm tới trưa cho ta hiểu sức sống và sự trù phú của miền đất này. Nếu ai đó có ý định đi tìm lại quá khứ hào hùng một thời của vùng đất và con người nơi đây chắc là khó. Những con người hôm qua mang trên mình chiến công là thế, nhưng hôm nay họ không còn là những ông Út Đồng Hồ, chị Tư Rạng, bà Ba Nhứt, chú Sáu Hậu, chị Út Nhỏ, v.v.. của những năm tháng khói lửa, mà trở về cuộc sống người dân bình thường.
Nhưng, những con người tưởng như vô danh ấy lại là chứng nhân, những người góp phần làm nên lịch sử của một giai đoạn lịch sử của dân tộc ta. Và chính họ chứ không phải ai khác, sẽ làm sáng tỏ một câu hỏi làm đau đầu các nhà hoạch định chiến lược chiến tranh Hoa Kỳ rằng: “Tại sao Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh mười ngàn ngày không cân sức ấy?”.