• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Anh hùng không vinh danh
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 18
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 18
  • Sau

KHI QUẢ ĐẠN BAY KHỎI NÒNG

Vừa chân ướt chân ráo vào chiến trường, chúng tôi đã chạm trán với một đơn vị thuộc hàng “tên tuổi” của quân đội Mỹ trong trận càn Gian-xơn Xi-ty, mùa khô 1966-1967, sư đoàn bộ binh 25 “Tia chớp nhiệt đới”. Cuộc đọ sức diễn ra chóng vánh và không cân sức, nhưng đã làm thất bại một phần âm mưu của địch. Với riêng tôi, đây là trận đầu tiên. Một trận đánh gây nhiều cảm xúc. Sau hơn năm mươi năm kể lại, tôi vẫn như còn nguyên cảm xúc ngày ấy. Với bài viết này, tôi muốn dành tình cảm cho người thủ trưởng đáng kính - Đại đội trưởng Lê Văn Điển, bây giờ không biết ông ở đâu, cùng với những chiến sĩ Tiểu đoàn 49 Anh hùng trên đất miền Đông năm xưa.

Tôi đắp thêm đất cho bờ công sự phía trước dày hơn, phòng có thể chống cản được đạn thẳng. Màu đất trắng mới nguyên phủ một lớp lá rừng ngụy trang. Đường xạ kích thông thoáng, đằng sau không có vật chắn. Từ đây đến chỗ mục tiêu sẽ xuất hiện chỉ chừng mươi mét, trong khi tình hình vẫn yên ắng, tôi luồn dưới đám cây le ra chỗ trống quan sát. Con đường be (đường khai thác gỗ), từ lộ đá đỏ chạy thẳng về phía những khu rừng giáp biên giới Cam-pu-chia, lâu ngày không dùng cây non đã phủ kín. Không phải đến lúc này, mà từ hôm qua Đại đội trưởng Lê Văn Điển - một người nổi tiếng nghiêm khắc và tư duy chiến thuật rất tốt đã chọn khúc cua này đặt trận địa. Dưới sự chỉ huy của ông, những lính mới lần đầu tham chiến như chúng tôi rất yên tâm và tin tưởng. Tổ chiến đấu có ba tay súng, một B-40 và hai tiểu liên AK được bố trí cách nhau chừng sáu mét, tất cả đều đã sẵn sàng. Hiểu đây là thử thách đầu tiên của tôi, lại là trận đánh quan trọng góp phần làm thất bại âm mưu của địch, đại đội trưởng nói: “Chúng ta chủ động là nắm chắc 60 phần trăm thắng lợi rồi, cậu là người nổ phát súng quyết định của trận đánh, cần hết sức bình tĩnh”. Quả thực tôi rất hồi hộp và lo lắng. Cái lo lắng của một tân binh lần đầu vào trận với biết bao câu hỏi, lỡ bắn trượt mục tiêu, rồi lỡ đạn không nổ hay chưa kịp bóp cò thì bị địch phát hiện? Chắc chắn bản thân hy sinh nhưng quan trọng hơn là kế hoạch tác chiến thất bại. Dường như “đọc” được những suy nghĩ của tôi, đại đội trưởng động viên: “Cậu cứ tự tin, không có gì phải băn khoăn về súng đạn, đã bắn là nổ, là nhất định xe tăng địch cháy, chúng ta sẽ thắng trong trận này”.

Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1967, sau nhiều tháng trời hành quân vượt Trường Sơn, đơn vị tôi đã đặt chân lên vùng đất Tây Ninh thì chạm trán ngay với sư đoàn 25 bộ binh, được mệnh danh là “Tia chớp nhiệt đới” của quân đội Mỹ trong trận càn Gian-xơn Xi-ty. Tây Ninh nơi chúng tôi đóng quân là rừng chồi, mọc xen kẽ với le. Cây le thuộc họ vầu, mọc thành từng cụm, thân cành khẳng khiu vươn dài tới bốn, năm mét tỏa ra xung quanh, đan cài vào nhau thành lớp vững chắc như mái nhà. Dưới rừng le, dưới những “mái nhà” ấy là căn cứ, đường giao liên, đường thồ, ngay cả khi trực thăng địch rà sát trên đầu mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Những chuyến xe thồ chở đầy súng đạn vẫn nối tiếp nhau thẳng xuống chiến trường, những đoàn quân lên, quân xuống vẫn liên tục ngày đêm. Để thực hiện trận càn này, đối phương huy động một lực lượng hỗn hợp gồm cả quân Mỹ và ngụy Sài Gòn lên tới 45.000 tên, với các loại vũ khí, khí tài hiện đại. Bắc Tây Ninh là nơi cuộc hành quân mang tên “Tìm và diệt” này sẽ nhắm tới. Từ lâu, đây là hậu cứ của các cơ quan đầu não Quân giải phóng, và là nơi tập kết hậu cần với một hệ thống kho tàng rất lớn. Vũ khí, lương thực, quân lính từ miền Bắc theo hai con đường, qua nẻo Cam-pu-chia và đường Trường Sơn tập kết tại đây trước khi tỏa đi khắp các chiến trường từ Khu 6 tới Nam Bộ.

Đơn vị đang trong thời gian nghỉ ngơi chờ lệnh. Nghĩa là danh chính ngôn thuận chúng tôi chưa được tham chiến. Nhưng với người lính thì có lệnh là đi, thấy giặc là đánh, luôn trong tư thế sẵn sàng. Gần tuần qua hàng ngày máy bay trinh sát L-19 của địch cứ rà đi rà lại dọc theo con đường be, lên tận biên giới Cam-pu-chia. Rồi từng tốp trực thăng vũ trang từ Biên Hòa, Tân Sơn Nhất bay thị sát thực địa, làm khuấy động cả khu vực vốn trước đó vẫn yên ắng. Đấy là một sai lầm chết người trong chiến thuật của quân Mỹ. Cậy thế đông quân, vũ khí mạnh, quân Mỹ không cần giấu kín ý đồ; nhất là với một địa hình rừng núi đầy bí hiểm như chiến trường miền Đông Nam Bộ thì việc “tiền hô hậu ủng” lại càng không thích hợp, thậm chí gây hệ lụy khôn lường. Trong khi phương châm tác chiến của Quân giải phóng rất linh động, xuất quỷ nhập thần, lấy yếu đánh mạnh, nhỏ đánh lớn và luôn lấy yếu tố bí mật bất ngờ làm đầu. Sự xuất hiện và đường bay của những chiếc trinh sát và trực thăng mấy ngày qua đã vô tình báo cho chúng tôi có một cánh quân của trận càn sẽ đi theo con đường ấy. Đại đội trưởng Lê Văn Điển đã đề nghị ban chỉ huy tiểu đoàn cho ông dẫn theo một tổ chiến đấu chặn đánh địch theo lối du kích, phá vỡ âm mưu của chúng. Là bộ đội miền Nam quê Trà Vinh tập kết ra Bắc, rồi chuyển ngành, nhưng trước tình hình chiến sự mỗi ngày càng ác liệt, ông tình nguyện trở lại quân đội, chia tay vợ con xin trở về quê hương cầm súng. Trên đường hành quân, ông nổi tiếng là một cán bộ mưu trí, tháo vát nên được tiểu đoàn tin tưởng đồng ý.

9 giờ sáng địch xuất hiện. Đoàn xe gồm nhiều chiếc M-113, M-41 đi theo đội hình hàng dọc. Đi tới đâu chúng xả súng ra hai bên rừng tới đó. Trên trời từng tốp trực thăng vũ trang quần đảo dùng hỏa lực chế áp đối phương, nhằm bảo vệ cho lực lượng dưới đất. Đạn cày tung mặt đất, cây cối bị phạt đổ ngổn ngang. Chưa vào trận, nhưng một chiến sĩ ta đã bị mảnh đạn găm vào cánh tay, máu chảy nhiều nhưng anh tha thiết xin đại đội trưởng ở lại chiến đấu. Một chiếc M-41 chạy qua. Những tên lính Mỹ đầy vẻ chủ quan ngạo mạn, chúng nhô hẳn lên khỏi thùng xe, nói cười như đi vào chỗ không người. Sự kiêu ngạo này có lẽ một phần đến từ cái tên “sư đoàn 25 bộ binh - Tia chớp nhiệt đới”; nhưng với chúng tôi thì không có gì đáng ngại, nhất là khi đối phương đã rơi vào trận địa phục kích của ta mà không hề hay biết. Để làm rối loạn đội hình địch, đại đội trưởng ra lệnh cho tôi bắn chiếc thứ tư. Tôi tỳ nòng khẩu B-40 trên vai, quả đạn hình bắp chuối hướng về phía mục tiêu, ngón tay đặt sẵn lên cò súng. Lại một chiếc M-113 chầm chậm bò qua, bánh xích đang chuyển động, cây cối bị đổ rạp, nghiến nát, chợt nó dừng lại như nghi ngờ điều gì, các loại súng trên xe nổ vang, đạn cày ngay trước công sự, nhưng tất cả chúng tôi đều an toàn. Chiếc xe lại tiếp tục lướt qua thước ngắm khẩu B-40.

Một thoáng hồi hộp, nhưng chợt nhớ tới lời căn dặn của đại đội trưởng, tự tin và can đảm ắt sẽ chiến thắng. Tôi hít một hơi đầy lồng ngực, nghe nhịp tim trở lại bình thường, ngay lúc đó bên tai vang lên tiếng hô dứt khoát “bắn” của đại đội trưởng. Tôi không biết mình siết cò lúc nào, chỉ thấy khẩu súng giật nảy trên vai, viên đạn vút ra khỏi nòng, sau tiếng “ùng”, một bụm lửa màu da cam trùm kín chiếc xe M-113. Bọn địch choáng váng, cùng với tiếng kêu “vi xi, vi xi” (Việt cộng, Việt cộng) là đạn vãi như mưa. Quên cả hiểm nguy, Đại đội trưởng Điển nhào tới ôm lấy tôi, “cháy rồi, cháy rồi, cậu thật tuyệt”, trong khi đó hai người đồng đội xả hai loạt đạn ăn mừng trận đánh. Đây là trận đánh ông trực tiếp chỉ huy đầu tiên trên chiến trường. Có là người trong cuộc mới hiểu hết được niềm vui này. Đội hình địch bỗng nhốn nháo, những chiếc xe tăng vội quay đầu, mạnh ai nấy chạy, vừa chạy tháo thân vừa bắn lung tung. Khi chúng nhận ra mối nguy hiểm ở những cánh rừng của xứ sở nhiệt đới thì mọi sự đã muộn. Ngọn lửa mỗi lúc càng bốc cao, trùm kín chiếc M-113, đạn trên xe nổ ùng oàng, có những viên đạn phóng lên cao, làm lũ trực thăng vội dạt ra xa. Hai tai tôi ù đặc. Lực lượng nhỏ, vả lại đường rừng cây đổ ngổn ngang, không thuận lợi cho việc truy kích, biết địch sẽ phản ứng mạnh, để tránh thương vong, đại đội trưởng ra lệnh rút lui. Tôi xách cây súng B-40 đang nóng bỏng bước nhanh theo đội hình, lòng trống rỗng. Không phải bây giờ, mà ngay khi quả đạn vừa bay tới đích, tôi đã có cảm giác này. Cái cảm giác vừa vui vừa buồn, vừa như được, lại vừa như mất, sung sướng có, tiếc nuối có. Trước mắt tôi, ngọn lửa vẫn cứ rừng rực cháy, tôi bị ám ảnh bởi cái màu đỏ như máu của ngọn lửa suốt những ngày sau đấy.

Một trận sốt rét quật tôi quỵ ngã. Thật lạ, gần sáu tháng trời hành quân trên đường, những cơn mưa rừng Trường Sơn kéo dài cả tuần, áo quần lúc nào cũng ướt, ăn đói, mất ngủ, rồi cả bom đạn địch truy đuổi, hủy diệt, không một cơn ấm đầu, không một lần bỏ cơm, vậy mà giờ đây tôi như một kẻ bại trận, nằm li bì suốt ngày đêm, mồm miệng đắng nghét, ăn cái gì ói ra cái đó. Trước mắt tôi mọi vật đều đảo lộn. Cây rừng nghiêng ngả, căn nhà hầm quay cuồng khi lên cao, lúc rơi tự do xuống đất. Chiếc võng tôi nằm như có ai đó đang đưa tít mù. Tôi nhắm mắt ước sao được trở lại những tháng ngày hành quân háo hức, tất cả mọi điều còn đang phía trước. Vâng, khi tôi chưa bóp cò và quả đạn đang nằm yên trong nòng súng!