Trường năng lượng con người là hình thức biểu hiện của năng lượng vũ trụ vốn liên quan mật thiết với đời sống con người. Nó có thể được mô tả như là một cơ thể sáng rực bao quanh và xuyên qua cơ thể vật lý, phát ra bức xạ đặc thù của riêng nó và thường được gọi là “hào quang”. Hào quang là thành phần của trường năng lượng vũ trụ liên kết với các vật thể. Hào quang con người, hay trường năng lượng con người là thành phần của trường năng lượng vũ trụ liên kết với cơ thể con người. Dựa trên những quan sát của mình, các nhà nghiên cứu đã tạo ra những mô hình lý thuyết phân chia hào quanh thành một số vầng (lớp). Các vầng này đôi khi còn được gọi là cơ thể, và chúng xuyên qua cũng như bao quanh lẫn nhau, tạo thành các vầng liên tiếp. Mỗi cơ thể nối tiếp được cấu thành từ vật chất mịn hơn và “rung động” cao hơn cơ thể mà nó bao quanh và xuyên qua.
Thực hành quan sát hào quang con người
Cách dễ nhất để bắt đầu cảm nhận trường năng lượng con người là thực hành những bài tập sau. Nếu bạn có một nhóm thì cả nhóm hãy nắm tay nhau tạo thành vòng tròn. Để năng lượng của trường hào quang của bạn chảy quanh vòng tròn này. Cảm nhận dòng chảy rung động này một lúc. Nó đang đi theo hướng nào? Xem thử người bên cạnh bạn cảm thấy nó đang đi theo hướng nào? Chúng có tương quan với nhau không?
Giờ thì hãy ngưng dòng chảy của năng lượng mà không thay đổi bất cứ thứ gì hoặc cử động bàn tay. Hãy giữ cho nó ngưng lại một lúc (mọi người đồng loạt làm như vậy) và rồi lại cho nó chảy tiếp. Thử lại lần nữa. Bạn có cảm nhận được sự khác biệt không? Bạn thích trạng thái nào hơn? Giờ thì hãy làm điều tương tự với một đối tác. Hai bạn ngồi đối diện và chạm lòng bàn tay vào nhau. Để năng lượng chảy tự nhiên. Nó đi theo hướng nào? Phát năng lượng ra qua bàn tay trái; sau đó để nó đi vào bàn tay phải của bạn. Làm ngược lại. Rồi ngưng dòng chảy. Tiếp đó thử đồng thời phát năng lượng ra qua cả hai bàn tay. Rồi đồng thời hút năng lượng vào cả hai bàn tay. Phát ra, thu về và ngưng lại là ba cách cơ bản để điều khiển năng lượng trong thuật chữa lành. Hãy thực hành chúng.
Bây giờ, thõng tay xuống; giữ hai lòng bàn tay cách xa khoảng 2 ‒ 5 inch (5 ‒ 12cm); từ từ đưa hai bàn tay tới lui, tăng giảm khoảng cách giữa chúng. Cảm nhận điều gì đó đang dần hình thành giữa hai bàn tay. Bạn có cảm nhận được nó không? Cảm giác như thế nào? Giờ thì tách hai bàn tay ra xa nhau khoảng 8 ‒ 10 inch (20 ‒ 25cm). Rồi từ từ đưa hai bàn tay sát lại gần nhau đến khi cảm thấy có một lực đẩy bàn tay bạn ra đến mức bạn phải dùng thêm một chút lực để đưa bàn tay vào gần nhau. Lúc này, bạn đã chạm được vào rìa một trong những cơ thể năng lượng của mình. Nếu hai bàn tay của bạn cách nhau 1 ‒ 1,25 inch (2,5 ‒ 3cm), bạn đã chạm vào rìa cơ thể dĩ thái của mình (vầng thứ nhất của hào quang). Nếu hai bàn tay của bạn cách nhau 3 ‒ 4 inch (7,5 ‒ 10cm), bạn đã chạm vào rìa ngoài cơ thể cảm xúc của mình (vầng thứ hai của hào quang). Giờ thì đưa hai bàn tay lại gần nhau hơn một cách hết sức cẩn thận đến khi bạn có thể thực sự cảm nhận được rìa ngoài cơ thể cảm xúc, hoặc trường năng lượng của bàn tay phải chạm vào da bàn tay trái. Đưa lòng bàn tay phải lại gần lòng bàn tay trái thêm khoảng 1 inch (2,5cm). Cảm nhận cảm giác ngứa ran trên mu bàn tay trái khi trường năng lượng của bạn chạm vào nó. Trường năng lượng của bàn tay phải đã đi xuyên qua bàn tay trái!
Giờ lại tách hai bàn tay ra và giữ chúng cách nhau khoảng 7 inch (18cm). Hướng ngón trỏ tay phải vào lòng bàn tay trái, đảm bảo đầu ngón tay cách lòng bàn tay khoảng 0,5 ‒ 1 inch (1,25 ‒ 2,5cm). Sau đó, vẽ các hình vòng tròn lên lòng bàn tay. Bạn cảm thấy gì? Có ngưa ngứa không? Đó là gì?
Để đèn phòng sáng nhẹ, đặt hai bàn tay sao cho các đầu ngón tay hướng vào nhau. Giữ hai bàn tay trước mặt ở khoảng cách chừng 2 ft (60cm). Hãy nhớ dùng một mặt tường màu trắng trơn làm nền. Thả lỏng mắt rồi nhẹ nhàng nhìn chăm chú vào khoảng không gian giữa các đầu ngón tay – các đầu ngón tay nên cách nhau khoảng 1,5 inch (4cm). Đừng nhìn vào ánh sáng chói. Thả lỏng mắt. Bạn nhìn thấy gì? Di chuyển các đầu ngón tay lại gần nhau hơn rồi lại tách ra xa hơn. Điều gì diễn ra tại khoảng không gian giữa các ngón tay? Bạn nhìn thấy gì xung quanh bàn tay? Từ từ đưa một bàn tay lên và hạ một bàn tay xuống sao cho các ngón tay khác nhau chỉ vào nhau. Giờ thì sao? Khoảng 95% số người thực hành bài tập này nhìn thấy thứ gì đó. Mọi người đều cảm nhận được gì đó. Đáp án cho những câu hỏi trên sẽ được trình bày ở cuối chương này.
Sau khi thực hành những bài tập này và những bài tập ở Chương 9 về quan sát hào quang của người khác, bạn có thể bắt đầu nhìn thấy một vài vầng hào quang đầu tiên như trong Hình 7‒1A (xem Phụ lục hình màu). Sau này, khi đã quan sát thạo các vầng bậc thấp, bạn có thể thực hành những bài tập nhận thức tri giác cao hơn được trình bày ở Chương 17, 18 và 19. Khi ngày càng mở được con mắt thứ ba (luân xa sáu), bạn sẽ bắt đầu nhìn được các vầng cao hơn của hào quang (xem Hình 7‒1B, Phụ lục hình màu).
Giờ thì bạn đã cảm nhận, quan sát và trải nghiệm được các vầng bậc thấp của hào quang, chúng ta hãy chuyển sang mô tả chúng.
Giải phẫu hào quang
Từ các quan sát, người ta đã tạo ra nhiều hệ thống để xác định trường hào quang. Tất cả các hệ thống này đều chia hào quang thành các vầng và xác định các vầng đó theo vị trí, màu sắc, hình thù, độ dày, độ sáng, độ lưu động và chức năng. Mỗi hệ thống đều nhằm đáp ứng cho kiểu công việc mà cá nhân đó đang “thực hiện” với hào quang. Hai hệ thống giống với của tôi nhất là hệ thống của Jack Schwarz, gồm hơn bảy vầng và được mô tả trong cuốn sách của ông, Human Energy Systems (tạm dịch: Hệ thống năng lượng con người), và hệ thống của Đức Rosalyn Bruyere thuộc Trung tâm Chữa lành ánh sáng tại Glendale, bang California. Hệ thống của Bruyere là hệ thống bảy vầng và được được mô tả trong cuốn sách của bà là Wheels of Light, A Study of the Chakras (tạm dịch: Bánh xe ánh sáng, một nghiên cứu về luân xa).
Bảy vầng của trường hào quang
Tôi đã quan sát bảy vầng này trong quá trình hành nghề tham vấn và chữa lành. Ban đầu, tôi chỉ có thể nhìn được những vầng bậc thấp vốn đậm đặc và dễ nhìn nhất. Theo thời gian, tôi ngày càng nhận biết được nhiều vầng hơn. Để nhận biết được vầng càng cao, tôi lại càng cần phải mở rộng hơn ý thức của mình. Tức là, để nhận biết được các vầng cao hơn, như vầng thứ năm, thứ sáu và thứ bảy, tôi sẽ phải đi vào trạng thái thiền, thường là nhắm mắt. Sau nhiều năm thực hành, tôi thậm chí còn bắt đầu nhìn được quá cả vầng thứ bảy, tôi sẽ trình bày qua về chuyện này ở cuối chương.
Các quan sát về hào quang đã hé lộ cho tôi thấy một mô hình trường nhị nguyên thú vị. Các vầng số lẻ của trường năng lượng con người có cấu trúc cao, giống như mô hình sóng ánh sáng dừng, trong khi các vầng số chẵn lại gồm những chất lưu có màu chuyển động liên tục. Những chất lưu này chảy qua hình thể được các sóng ánh sáng dừng tạo nên. Hướng của dòng chảy phần nào chịu sự chi phối của hình thái ánh sáng dừng, bởi lẽ chất lưu chảy dọc theo các đường ánh sáng dừng. Bản thân những hình thái ánh sáng dừng cũng lấp lánh, như thể chúng được tạo thành từ nhiều xâu ánh sáng nhỏ tí hon, nhấp nháy dồn dập, mỗi xâu ánh sáng nhấp nháy theo một tốc độ khác nhau. Những đường ánh sáng dừng này dường như có các điện tích nhỏ xíu chạy dọc theo chúng.
Như vậy, các vầng thứ nhất, thứ ba, thứ năm và thứ bảy đều có cấu trúc rõ ràng, còn các vầng thứ hai, thứ tư và thứ sáu gồm các chất giống chất lưu thì không có cấu trúc cụ thể. Thực tế, chúng có hình thể là vì chúng chảy qua cấu trúc của các vầng số lẻ, và do đó phần nào sử dụng hình thể của các vầng có cấu trúc. Mỗi vầng nối tiếp đều thâm nhập hoàn toàn tất cả các vầng bên dưới, bao gồm cả cơ thể vật lý. Vì vậy, phạm vi của cơ thể cảm xúc vượt ngoài cơ thể dĩ thái và bao gồm cả cơ thể dĩ thái và cơ thể vật lý. Trên thực tế, mỗi cơ thể không phải là một “vầng”, mặc dù chúng ta có thể quan sát thấy như vậy. Đúng hơn, nó là một phiên bản mở rộng hơn của bản thể mỗi người, vốn chứa đựng bên trong nó những hình thái khác hạn chế hơn.
Từ góc nhìn của người làm khoa học, có thể xem mỗi vầng là một mức rung động cao hơn, chiếm cùng khoảng không gian như các mức rung động thấp hơn nó và mở rộng phạm vi ra xa hơn. Để nhận biết từng vầng, tâm thức của người quan sát phải chuyển lên mỗi mức tần số mới tương ứng. Như vậy là chúng ta có bảy cơ thể đều chiếm cùng một khoảng không gian vào cùng một thời điểm, cái sau lại mở rộng hơn cái trước, một hiện tượng mà chúng ta hiếm khi bắt gặp trong cuộc sống hằng ngày “thông thường”. Nhiều người phỏng đoán sai lầm rằng hào quang giống như một củ hành có thể bóc từng lớp vỏ một. Không phải là như vậy.
Các vầng có cấu trúc chứa đựng mọi hình thái mà cơ thể vật lý có, bao gồm nội tạng, mạch máu, v.v., và những hình thái bổ sung mà cơ thể vật lý không chứa đựng. Có một dòng chảy năng lượng thẳng đứng dao động lên xuống trong trường năng lượng ở tủy sống. Nó vượt ra ngoài cơ thể vật lý, lên quá đầu và xuống quá xương cụt. Tôi gọi nó là dòng năng lượng thẳng đứng chính. Bên trong trường năng lượng con người có các cuộn xoáy hình nón được gọi là luân xa. Đỉnh nhọn của chúng chĩa vào dòng năng lượng thẳng đứng chính, và đầu mở của chúng kéo dài đến đường rìa của mỗi vầng trong trường năng lượng mà chúng khu trú.
Bảy vầng và bảy luân xa của trường hào quang
Mỗi vầng trông đều khác nhau và có chức năng riêng. Mỗi vầng của hào quang gắn với một luân xa. Tức là vầng thứ nhất gắn kết với luân xa thứ nhất, vầng thứ hai gắn kết với luân xa thứ hai, và cứ thế. Đây là những khái niệm chung và sẽ trở nên phức tạp hơn khi chúng ta đi sâu thêm vào chủ đề này. Tạm thời chúng ta sẽ liệt kê chúng ra để bạn có được cái nhìn tổng thể. Vầng thứ nhất của trường và luân xa thứ nhất gắn kết với chức năng thể chất và cảm giác vật lý – cảm nhận cơn đau và khoái lạc về mặt thể xác. Vầng thứ nhất gắn kết với chức năng tự động và tự nhiên của cơ thể. Vầng thứ hai và luân xa thứ hai thường gắn kết với khía cạnh cảm xúc của con người. Chúng là phương tiện giúp chúng ta biểu lộ cảm xúc và có đời sống tình cảm. Vầng thứ ba gắn kết với đời sống tinh thần, với tư duy tuyến tính. Vầng thứ tư gắn kết với luân xa tim, là phương tiện giúp chúng ta biểu lộ tình yêu, không chỉ với người bạn đời của chúng ta, mà với cả nhân loại nói chung. Luân xa thứ tư là luân xa chuyển hóa năng lượng của tình yêu. Vầng thứ năm là vầng gắn kết với một ý chí bậc cao vốn liên hệ mật thiết hơn với ý chí thiêng liêng bên trong chúng ta. Luân xa thứ năm gắn kết với sức mạnh của lời nói, việc chuyển hóa lời nói thành hiện thực, việc lắng nghe và chịu trách nhiệm cho hành động của chúng ta. Vầng thứ sáu và luân xa thứ sáu gắn kết với tình yêu thượng giới. Nó là thứ tình yêu vượt ra khỏi giới hạn tình yêu của con người và chứa đựng mọi sự sống. Nó quan tâm cũng như hỗ trợ bảo vệ và nuôi dưỡng mọi sự sống. Nó bao bọc mọi hình thái của sự sống như là những hiện thân quý giá của Thượng đế. Vầng thứ bảy và luân xa thứ bảy gắn kết với hiểu biết, tâm trí bậc cao và sự hợp nhất lớn hơn giữa cấu tạo thể chất và tâm linh của chúng ta.
Như vậy là trong hệ thống năng lượng của chúng ta có các vị trí cụ thể tương ứng với các cảm giác, cảm xúc, suy nghĩ, ký ức và những trải nghiệm phi vật chất mà chúng ta giãi bày với các bác sĩ và chuyên gia trị liệu. Nắm được mối tương quan giữa các triệu chứng cơ thể và vị trí của chúng sẽ giúp chúng ta hiểu bản chất của các loại bệnh khác nhau và bản chất của cả sức khỏe lẫn bệnh tật. Do đó, việc nghiên cứu về hào quang có thể là cầu nối giữa y học truyền thống và những vấn đề tâm lý của chúng ta.
Vị trí của bảy luân xa
Vị trí của bảy luân xa chính trên cơ thể vật lý được minh họa trong Hình 7‒2A tương ứng với đám rối thần kinh chính của cơ thể vật lý tại từng vùng của cơ thể.
Tiến sĩ David Tansley, một chuyên gia về radionics1, trong cuốn sách của ông là Radionics and the Subtle Bodies of Man (tạm dịch: Radionics và cơ thể vi tế của con người) đã nêu rõ rằng bảy luân xa chính được hình thành tại những điểm mà ở đó các đường ánh sáng dừng giao nhau 21 lần.
1 Radionics – còn được gọi là liệu pháp điện từ (electromagnetic therapy – EMT) và Phương pháp Abrams – là một liệu pháp thay thế cho rằng bệnh tật có thể được chẩn đoán và điều trị bằng bằng cách đưa bức xạ điện từ, chẳng hạn như sóng vô tuyến, vào cơ thể thông qua một thiết bị điện. (ND)
Hai mươi mốt luân xa phụ nằm tại những điểm mà ở đó các dải năng lượng giao nhau 14 lần (xem Hình 7‒2B). Chúng nằm ở những vị trí sau: một ở phía trước mỗi bên tai, một ở phía trên mỗi bên ngực, một ở điểm hai xương đòn giao nhau, một ở trong mỗi lòng bàn tay, một ở trong mỗi lòng bàn chân, một ở ngay phía sau mỗi bên mắt (không có trong hình minh họa), một liên hệ với mỗi tuyến sinh dục, một ở cạnh gan, một gắn với dạ dày, hai gắn với lá lách, một nằm phía sau mỗi bên đầu gối, một nằm gần tuyến ức và một nằm gần đám rối thái dương. Các luân xa này chỉ có đường kính khoảng 3 inch (7,5cm) và cách cơ thể 1 inch (2,5cm). Hai luân xa phụ ở hai lòng bàn tay vô cùng quan trọng trong chữa lành. Tại những điểm mà các đường năng lượng giao nhau bảy lần, có những cuộn xoáy còn nhỏ hơn được hình thành. Có rất nhiều trung tâm năng lượng nhỏ xíu tại những điểm mà các đường năng lượng giao nhau ít lần hơn. Tansley nói rằng những cuộn xoáy nhỏ xíu này rất có thể tương ứng với các huyệt châm cứu của y học Trung Hoa.
Hình 7-2: Vị trí của các luân xa
Mỗi luân xa chính ở phía trước cơ thể được ghép cặp với một luân xa đối ứng ở phía sau cơ thể, và cùng với nhau chúng được xem là mặt trước và mặt sau của một luân xa. Các mặt trước liên quan đến cảm xúc, các mặt sau liên quan đến ý chí, và ba luân xa ở trên đầu liên quan đến các hoạt động trí não của một người (xem Hình 7‒3). Như vậy, luân xa thứ hai có các thành phần là 2A và 2B, luân xa thứ ba có các thành phần là 3A và 3B, cứ thế cho tới luân xa thứ sáu. Có thể xem luân xa thứ nhất và thứ bảy là một cặp nếu muốn, bởi chúng là những điểm mở của dòng năng lượng thẳng đứng chính chạy lên xuống dọc theo xương sống, nơi toàn bộ các luân xa đều hướng vào.
Mũi nhọn hay đỉnh của các luân xa, nơi chúng liên kết với dòng năng lượng chính, được gọi là gốc hoặc tâm của luân xa. Bên trong các tâm điểm này là những dấu niêm kiểm soát sự trao đổi năng lượng giữa các vầng của hào quang thông qua luân xa đó. Tức là, mỗi một luân xa trong bảy luân xa chính đều có bảy vầng, mỗi vầng tương ứng với một vầng của trường hào quang. Ở các vầng khác nhau, luân xa trông cũng khác nhau – tôi sẽ trình bày chi tiết hơn ở phần mô tả mỗi vầng. Để chảy từ vầng này sang vầng khác thông qua luân xa nào, năng lượng phải đi qua dấu niêm trong gốc của luân xa đó. Hình 7‒4 minh họa trường hào quang với toàn bộ bảy vầng thâm nhập nhau, cũng như toàn bộ bảy vầng thâm nhập nhau của luân xa.
Có thể thấy năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ chảy vào toàn bộ những luân xa này (xem Hình 7‒3). Mỗi cuộn xoáy năng lượng đều đang hút hoặc đồng bộ với năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ. Chúng dường như hoạt động giống như các lốc xoáy mà chúng ta thường thấy trong nước hay trong không khí, chẳng hạn như xoáy nước, lốc, vòi rồng và bão. Đầu mở của một luân xa bình thường trong vầng thứ nhất của hào quang có đường kính khoảng 6 inch (15cm) và cách bề mặt cơ thể 1 inch (2,5cm).
Chức năng của bảy luân xa
Mỗi cuộn xoáy nói trên trao đổi năng lượng với trường năng lượng vũ trụ. Bởi vậy, cảm giác “mở” của chúng ta là một cảm giác đúng theo nghĩa đen. Toàn bộ các luân xa chính, luân xa phụ, luân xa nhỏ hơn và các huyệt châm cứu đều là những lối thông cho năng lượng chảy ra và chảy vào hào quang. Bởi lẽ năng lượng này luôn gắn với một hình thái ý thức, thế nên chúng ta trải nghiệm năng lượng mà chúng ta trao đổi dưới hình thức nhìn, nghe, cảm, chạm, nhận biết qua trực giác hoặc nhận biết trực tiếp.
Do đó, chúng ta có thể thấy rằng trạng thái “mở” có hai nghĩa. Thứ nhất, nó có nghĩa là chuyển hóa một lượng lớn năng lượng từ trường vũ trụ thông qua toàn bộ các luân xa, cả lớn lẫn nhỏ. Thứ hai, nó có nghĩa là đưa vào, và một mặt nào đó là xử lý, toàn bộ ý thức gắn với năng lượng đang chảy qua chúng ta. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, và hầu hết chúng ta không thể thực hiện được. Đơn giản bởi lượng đưa vào là quá nhiều. Chất liệu tâm lý liên quan đến mỗi luân xa được đưa vào ý thức bằng cách gia tăng dòng năng lượng chảy qua luân xa đó. Thế nhưng, do dòng chảy năng lượng hình thành đột ngột, quá nhiều chất liệu tâm lý được giải phóng ra và chúng ta không thể xử lý được toàn bộ. Bởi vậy, chúng ta cần phát triển bản thân, dù là theo bất kể cách nào, để mở từng luân xa một cách từ tốn, nhờ đó chúng ta có thời gian để xử lý chất liệu cá nhân được giải phóng và tích hợp các thông tin mới vào cuộc sống của mình.
Việc mở luân xa và tăng cường dòng chảy năng lượng là rất quan trọng, bởi lẽ càng cho năng lượng chảy nhiều bao nhiêu, chúng ta lại càng khỏe mạnh hơn bấy nhiêu. Bệnh tật xảy ra trong cơ thể là do tình trạng mất cân bằng năng lượng hoặc tắc nghẽn dòng chảy năng lượng. Nói cách khác, tình trạng gián đoạn trong hệ thống năng lượng con người rốt cuộc sẽ dẫn đến bệnh tật. Nó đồng thời bóp méo nhận thức cũng như làm cùn nhụt cảm xúc của chúng ta và do đó cản trở chúng ta trải nghiệm trọn vẹn cuộc sống một cách thuận lợi. Tuy nhiên, chúng ta không được chuẩn bị về mặt tâm lý để duy trì trạng thái mở nếu không cải thiện hoặc phát triển tính chín chắn và thấu suốt của mình.
Trong năm giác quan, mỗi giác quan đều gắn với một luân xa. Xúc giác gắn với luân xa thứ nhất; thính giác, khứu giác và vị giác gắn với luân xa thứ năm (hay luân xa cổ họng); thị giác gắn với luân xa thứ sáu (hay luân xa con mắt thứ ba). Chủ đề này sẽ được bàn chi tiết trong chương về khả năng nhận biết.
Các luân xa của cơ thể hào quang có ba chức năng chính:
1. Tiếp sinh lực cho từng cơ thể hào quang và qua đó tiếp sinh lực cho cơ thể vật lý.
2. Phát triển những khía cạnh khác nhau của ý thức về bản thân. Mỗi luân xa gắn kết với một chức năng tâm lý cụ thể. Chương 11 bàn về những hiệu ứng tâm lý của việc mở các luân xa cụ thể trong cơ thể dĩ thái, cơ thể cảm xúc và cơ thể tâm trí.
3. Truyền năng lượng giữa các vầng hào quang. Mỗi vầng hào quang đều có riêng một bộ bảy luân xa chính, mỗi luân xa nằm ở vị trí tương tự trên cơ thể vật lý. Bởi lẽ mỗi vầng tăng dần đều tồn tại trong các dải bát độ lũy tiến của tần số, thế nên điều này là có thể xảy ra. Lấy ví dụ với luân xa thứ tư, thì thực ra có bảy luân xa, mỗi luân xa thuộc một dải tần số cao hơn dải tần số của luân xa ở dưới. Các luân xa này được xếp lồng vào nhau giống như một chồng cốc. Luân xa ở vầng cao hơn thì mở rộng hơn trong trường hào quang (đến tận rìa của mỗi vầng hào quang) và rộng hơn một chút so với luân xa bên dưới nó.
Hình 7-3: Bảy luân xa chính, nhìn từ phía trước và sau
Hình 7-4: Hệ thống bảy vầng hào quang của cơ thể
Năng lượng được truyền từ vầng này đến vầng kế tiếp thông qua các lối thông ở đỉnh của luân xa. Ở hầu hết mọi người, các lối thông này bị bịt kín. Chúng được mở là do quá trình thanh lọc tâm linh và nhờ đó luân xa trở thành phương tiện truyền năng lượng từ vầng này sang vầng khác. Mỗi luân xa trong cơ thể dĩ thái liên kết trực tiếp với luân xa tương tự trong cơ thể mịn hơn kế tiếp vốn bao quanh và xuyên qua nó. Các luân xa trong cơ thể cảm xúc liên kết với các luân xa tương tự trong cơ thể mịn hơn kế tiếp – cơ thể tâm trí, v.v., và cứ như vậy đối với cả bảy vầng.
Trong các ghi chép bí truyền của phương Đông, người ta quan sát thấy mỗi luân xa có một số lượng cánh hoa nhất định. Nghiên cứu kỹ hơn thì các cánh hoa này có vẻ như là các cuộn xoáy nhỏ quay tròn với tốc độ rất lớn. Mỗi cuộn xoáy chuyển hóa một rung động năng lượng cộng hưởng ở tần số quay cụ thể của nó. Lấy ví dụ như luân xa xương cùng có bốn cuộn xoáy nhỏ và chuyển hóa bốn tần số cơ bản của năng lượng, tương tự đối với mỗi luân xa còn lại. Màu sắc quan sát được trong mỗi luân xa có liên quan đến tần số của năng lượng được chuyển hóa ở tốc độ cụ thể của nó.
Bởi lẽ luân xa đóng vai trò tiếp sinh lực cho cơ thể cho nên chúng có liên quan trực tiếp đến mọi bệnh lý trong cơ thể. Bảng 7‒5 liệt kê bảy luân xa chính dọc theo xương sống cùng với vùng cơ thể mà mỗi luân xa chi phối. Mỗi luân xa gắn với một tuyến nội tiết và một đám rối thần kinh chính. Các luân xa hấp thụ năng lượng vũ trụ hoặc năng lượng sơ khởi (khí, orgone, prana, v.v.), phá vỡ nó thành các phần tử, rồi truyền nó theo những dòng năng lượng gọi là nadi (luồng sinh lực) đến hệ thần kinh, các tuyến nội tiết, sau đó vào máu để nuôi dưỡng cơ thể (xem Hình 7‒6).
BẢNG 7-5
CÁC LUÂN XA CHÍNH VÀ VÙNG CƠ THỂ CHÚNG NUÔI DƯỠNG
Về chức năng tâm động học của luân xa, chúng ta sẽ bàn kỹ hơn ở phần sau, liên quan chủ yếu đến ba cơ thể đầu tiên của hào quang, những cơ thể gắn với tương tác vật lý, tâm trí và cảm xúc trên hành tinh Trái đất. Chẳng hạn, nếu một người có luân xa tim hoạt động đúng chức năng, người đó sẽ rất giỏi quan tâm, chăm sóc người khác. Người có luân xa thứ nhất hoạt động lành mạnh sẽ có ý chí sống mạnh mẽ và kết nối tốt với mặt đất. Đây là người có tinh thần vô cùng ổn định trong cuộc sống. Người có luân xa thứ ba và thứ sáu hoạt động đúng chức năng sẽ luôn suy nghĩ thấu suốt. Nếu các luân xa này hoạt động bất thường, những suy nghĩ của người đó sẽ trở nên rối rắm.
Hình 7-6: Con đường chuyển hóa của năng lượng sơ khởi từ bên ngoài
Cơ thể dĩ thái (vầng thứ nhất)
Cơ thể dĩ thái (etheric body, bắt nguồn từ khái niệm “ether”, trạng thái nằm giữa năng lượng và vật chất) được cấu thành từ các đường ánh sáng nhỏ xíu “giống như một mạng lưới các chùm ánh sáng lấp lánh”, tương tự những đường trên màn hình vô tuyến (xem Hình 7‒7, Phụ lục hình màu). Nó có cấu trúc tương tự với cơ thể vật lý, bao gồm toàn bộ các thành phần giải phẫu và toàn bộ các cơ quan nội tạng.
Cơ thể dĩ thái gồm có một cấu trúc rõ ràng của các đường năng lượng, hay ma trận năng lượng, chất liệu vật lý của các mô cơ thể được hình thành và neo vào cấu trúc đó. Các mô vật lý này tồn tại được hoàn toàn là nhờ vào trường sinh lực phía sau chúng; tức là trường này xuất hiện trước chứ không phải là kết quả của cơ thể vật lý. Mối quan hệ này đã được chứng thực trong các quan sát về quá trình thực vật sinh trưởng của tiến sĩ John Pierrakos và của chính bản thân tôi. Thông qua Tri giác Cao cấp, chúng tôi quan sát được một ma trận trường năng lượng có hình thù một chiếc lá được cái cây phóng chiếu trước khi chiếc lá mọc ra, và rồi chiếc lá này sinh trưởng theo đúng hình thể đã tồn tại sẵn.
Cấu trúc giống như mạng lưới của cơ thể dĩ thái luôn trong trạng thái chuyển động. Người thấu thị có thể nhìn thấy các chớp sáng màu trắng hơi pha xanh da trời chuyển dịch dọc theo các đường năng lượng của nó ở khắp toàn bộ cơ thể vật lý đậm đặc. Cơ thể dĩ thái vươn xa hơn khỏi cơ thể vật lý khoảng ¼ ‒ 1 inch (0,6 ‒ 2,5cm) và mỗi phút dao động chừng 15 ‒ 20 chu kỳ.
Màu của cơ thể dĩ thái thay đổi từ xanh da trời nhạt đến xám. Màu xanh da trời nhạt liên kết với hình thái mịn hơn so với màu xám. Tức là, một người nhạy cảm hơn sở hữu một cơ thể nhạy cảm thì thường sẽ có vầng thứ nhất màu hơi xanh da trời, còn típ người lực lưỡng, cường tráng hơn thì thường sẽ có cơ thể dĩ thái ngả sang màu xám nhiều hơn. Toàn bộ các luân xa của vầng này đều có cùng màu với cơ thể. Tức là chúng cũng thay đổi sắc độ từ xanh da trời đến xám. Các luân xa trông như những cuộn xoáy được tạo thành từ một mạng lưới ánh sáng, giống như phần còn lại của cơ thể dĩ thái. Chúng ta có thể nhận biết tất cả các cơ quan nội tạng của cơ thể vật lý, nhưng chúng đều được tạo thành từ thứ ánh sáng nhấp nháy màu xanh da trời nhạt này. Giống như trong hệ thống năng lượng của chiếc lá, cấu trúc dĩ thái này tạo dựng ma trận cho các tế bào sinh trưởng; tức là các tế bào của cơ thể phát triển dọc theo các đường năng lượng của ma trận dĩ thái, và ma trận này đã có ở đó trước cả khi các tế bào sinh trưởng. Nếu tách riêng cơ thể dĩ thái ra và chỉ quan sát mỗi nó, nó sẽ trông giống như một người đàn ông hoặc một người phụ nữ được tạo thành từ các đường ánh sáng nhấp nháy liên tục màu xanh da trời nhạt, có phần giống với Người nhện.
Khi quan sát vai của ai đó trong ánh sáng lờ mờ, nền phía sau là màu trắng trơn, màu đen trơn hoặc màu xanh da trời đậm, bạn có thể nhìn thấy những rung động của cơ thể dĩ thái này. Rung động dâng lên, giả dụ là ở vai, rồi lan xuống cánh tay, như một làn sóng. Nếu bạn quan sát kỹ hơn, dường như có một khoảng trống giữa vai và ánh sáng xanh da trời lờ mờ này; rồi thì một lớp sương màu xanh da trời sáng hơn chầm chậm biến mất dần khi nó vươn ra khỏi cơ thể. Nhưng cần biết rằng ngay khi bạn nhìn thấy nó, nó sẽ biến mất, bởi lẽ nó chuyển động quá nhanh. Nó sẽ rung động dọc xuống cánh tay lúc bạn nhìn lại để tự kiểm tra. Thử lại lần nữa. Bạn sẽ bắt được lần rung động kế tiếp.
Cơ thể cảm xúc (vầng thứ hai)
Cơ thể hào quang thứ hai (xem Hình 7‒8, Phụ lục hình màu), hay cơ thể mịn hơn kế tiếp cơ thể dĩ thái, thường được gọi là cơ thể cảm xúc, gắn với cảm xúc. Đại để, nó có hình dáng phỏng theo hình dáng của cơ thể vật lý. Cấu trúc của nó lỏng hơn nhiều so với cấu trúc của thể dĩ thái và không giống hệt với cơ thể vật lý. Đúng hơn, nó là những đám mây mịn đa sắc liên tục chuyển động ở dạng lỏng. Nó vượt ra khỏi cơ thể khoảng 1 ‒ 3 inch (2,5 ‒ 7,5cm).
Cơ thể này thâm nhập các cơ thể đậm đặc hơn mà nó bao quanh. Màu của nó biến đổi từ những sắc sáng rực cho đến những sắc xám xỉn, tùy thuộc vào độ thông suốt hay hỗn loạn của cảm giác hoặc năng lượng tạo ra chúng. Những cảm xúc giàu năng lượng và rõ ràng như yêu thương, phấn khích, vui mừng hoặc giận dữ có màu sáng và rõ; còn những cảm xúc rối rắm thì có màu tối và xám. Khi những cảm giác này được truyền năng lượng thông qua tương tác cá nhân, trị liệu tâm lý trên cơ thể, v.v., thì các màu tách thành các sắc độ cơ bản của chúng và bừng sáng. Chương 9 sẽ bàn về quá trình này.
Cơ thể này chứa tất cả các màu của cầu vồng. Mỗi luân xa là một cuộn xoáy mang một màu khác nhau và theo thứ tự màu sắc của cầu vồng. Dưới đây là danh sách các luân xa của cơ thể cảm xúc và màu của chúng.
Luân xa 1 = đỏ
Luân xa 2 = đỏ – cam
Luân xa 3 = vàng
Luân xa 4 = xanh lá tươi
Luân xa 5 = xanh da trời
Luân xa 6 = chàm
Luân xa 7 = trắng
Chương 9 sẽ trình bày một số quan sát về cơ thể cảm xúc trong các buổi điều trị. Nói chung, cơ thể này là những đốm màu chuyển động trong ma trận của trường dĩ thãi, đồng thời vươn ra xa hơn trường đó một chút. Đôi lúc, một người có thể bắn ra những đốm năng lượng màu vào không khí xung quanh. Có thể thấy rõ hiện tượng này khi một người đang giải phóng cảm xúc trong buổi điều trị.
Cơ thể tâm trí (vầng thứ ba)
Cơ thể hào quang thứ ba là cơ thể tâm trí (xem Hình 7‒9, Phụ lục hình màu). Cơ thể này vượt ra ngoài cơ thể cảm xúc và được cấu thành từ các chất tĩnh và mịn hơn, toàn bộ các chất này gắn kết với suy nghĩ và hoạt động trí óc. Theo quan sát, cơ thể này thường là một ánh sáng vàng rực tỏa ra từ đầu và vai rồi mở rộng khắp toàn bộ cơ thể. Khi một người đang tập trung vào các hoạt động trí óc, cơ thể tâm trí của người đó giãn ra và trở nên sáng hơn. Nó vượt ra khỏi cơ thể khoảng 3 ‒ 8 inch (7,5 ‒ 20cm).
Cơ thể tâm trí cũng là một cơ thể có cấu trúc. Nó chứa đựng cấu trúc các ý nghĩ của chúng ta. Cơ thể này chủ yếu có màu vàng. Trong trường này, chúng ta có thể nhìn thấy những hình thái tư duy. Đó là những đốm sáng đa dạng về độ sáng và hình dáng. Những hình thái tư duy này được chồng thêm những màu tỏa ra từ cơ thể cảm xúc. Màu sắc biểu trưng cho cảm xúc của một người được liên kết với hình thái tư duy. Ý nghĩ càng sáng sủa và hoàn chỉnh, hình thái tư duy gắn với ý nghĩ đó càng sáng sủa và hoàn chỉnh. Chúng ta củng cố những hình thái tư duy này bằng cách tập trung vào những ý nghĩ mà chúng thể hiện. Những ý nghĩ theo thói quen trở thành những lực “hoàn chỉnh” vô cùng mạnh mẽ và ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta.
Cơ thể này từng là cơ thể mà tôi khó quan sát nhất. Có lẽ một phần là bởi trên thực tế, con người thực ra chỉ mới đang bắt đầu phát triển cơ thể tâm trí cũng như bắt đầu vận dụng trí năng theo những cách thức rõ ràng. Chính vì lẽ đó, chúng ta rất để ý đến các hoạt động của tâm trí và xem xã hội loài người là một xã hội dựa trên nền tảng phân tích.
Vượt ngoài thế giới vật lý
Trong hệ thống mà tôi sử dụng để chữa lành (xem Hình 7‒4), ba vầng hào quang bậc thấp gắn kết và chuyển hóa năng lượng liên quan đến thế giới vật lý, còn ba vầng bậc cao thì chuyển hóa năng lượng liên quan đến thế giới tâm linh. Vầng thứ tư, hay còn gọi là vầng tinh tú, gắn kết với luân xa tim, là lò chuyển hóa mà mọi năng lượng đều phải đi qua khi chuyển dịch giữa hai thế giới. Tức là, năng lượng tâm linh phải đi qua lửa của tim để biến đổi thành năng lượng vật lý bậc thấp, và năng lượng vật lý (của ba vầng hào quang bậc thấp) phải đi qua lửa chuyển hóa của tim để trở thành năng lượng tâm linh. Trong chữa lành toàn phổ, được trình bày ở Chương 22, chúng ta sử dụng những năng lượng gắn với tất cả các vầng cũng như tất cả các luân xa và đưa chúng đi qua trái tim, trung tâm của tình yêu.
Cho đến lúc này, chúng ta chủ yếu tập trung bàn tới ba vầng bậc thấp. Hầu hết các liệu pháp tâm lý tập trung vào cơ thể mà tôi từng thấy ở Mỹ đều chỉ tận dụng ba vầng bậc thấp và trái tim. Ngay khi một người bắt đầu xem xét bốn vầng cao hơn của trường hào quang, mọi thứ lập tức thay đổi, bởi lẽ ngay khi bạn mở tri giác của mình để nhận biết những vầng trên vầng thứ ba, bạn cũng bắt đầu nhận biết được những người hoặc sinh thể trong những vầng đó, vốn không có cơ thể vật lý. Theo quan sát của tôi và những nhà thấu thị khác, thực tại có những lớp hoặc những “dải tần số” khác vượt ngoài thế giới vật lý. Bốn vầng cao hơn của trường hào quang tương ứng với bốn trong số những lớp này của thực tại. Một lần nữa, tôi phải nhắc lại rằng những gì sắp được trình bày chỉ là một hệ thống nhằm cố gắng giải thích những hiện tượng quan sát được; tôi chắc chắn là trong tương lai sẽ có những hệ thống tốt hơn được tạo ra. Hệ thống này hữu dụng đối với tôi.
Trong Hình 7‒4, nhìn chung, tôi đã gắn ba luân xa bậc cao với chức năng cơ thể, cảm xúc và tâm trí của con người trong thực tại tâm linh của họ. Đó là bởi hầu hết chúng ta chỉ sử dụng phần này của bản thân trong những loại chức năng giới hạn trên. Chúng là ý chí cao hơn, cảm xúc yêu thương cao hơn và tri kiến cao hơn, ở đó toàn bộ các khái niệm được đồng thời thấu hiểu. Vầng thứ tư gắn kết với tình yêu. Đó là con đường giúp chúng ta có thể tiến nhập vào những trạng thái thực tại khác.
Tuy nhiên, bức hình này thực ra phức tạp hơn vậy. Mỗi vầng ở bên trên vầng thứ ba đều là cả một lớp thực tại với những sinh mệnh, hình thái và chức năng cá nhân vượt ngoài những gì chúng ta thường gọi là con người. Mỗi vầng đều là cả một thế giới mà chúng ta sống trong đó và có được sinh mệnh của mình. Hầu hết chúng ta trải nghiệm những thực tại này trong lúc ngủ nhưng không nhớ được chúng. Một số người có thể đi vào những trạng thái này của thực tại bằng cách mở rộng ý thức thông qua các kỹ thuật thiền. Những kỹ thuật thiền này mở dấu niêm giữa các gốc của các lớp luân xa, từ đó tạo ra một lối thông cho ý thức dịch chuyển. Tiếp theo đây, tôi sẽ chỉ tập trung mô tả các vầng hào quang và những chức năng giới hạn của chúng. Ở phần sau cuốn sách, tôi sẽ bàn kỹ hơn đến các vầng bậc cao hay còn gọi là các “tần số của thực tại”.
Vầng tinh tú (vầng thứ tư)
Cơ thể tinh tú (xem Hình 7‒10, Phụ lục hình màu) không có hình dạng cố định và được cấu thành từ những đám mây màu, đẹp hơn những đám mây của cơ thể cảm xúc. Cơ thể tinh tú thường có bộ màu tương tự, nhưng chúng hay được pha trộn thêm ánh sáng màu hồng của tình yêu. Nó vươn ra khỏi cơ thể khoảng ½ ‒ 1ft (15 ‒ 30cm). Các luân xa cũng có màu sắc như cầu vồng của cơ thể cảm xúc, nhưng đều pha lẫn thêm ánh sáng màu hồng của tình yêu. Với những người giàu lòng yêu thương, luân xa tim của họ ngập tràn ánh sáng màu hồng ở vầng tinh tú.
Khi nhìn vào những người đang yêu, chúng ta có thể thấy những vòng cung ánh sáng màu hồng đẹp lung linh giữa trái tim họ, và khi quan sát tuyến yên nơi bình thường có những rung động óng vàng, tôi còn thấy thêm cả sắc hồng tuyệt đẹp. Khi con người hình thành các mối quan hệ, họ phát triển những sợi dây từ các luân xa và kết nối với nhau. Mối quan hệ càng kéo dài và sâu đậm thì càng có nhiều sợi dây nối và chúng càng bền vững hơn. Khi mối quan hệ kết thúc, các sợi dây nối này cũng bị cắt đứt, đôi khi gây ra những tổn thương nghiêm trọng. Khoảng thời gian “vượt qua” một mối quan hệ cũng thường chính là khoảng thời gian cắt rời những sợi dây nối này ở các vầng thấp hơn của trường năng lượng và bắt rễ chúng lại vào trong bản thể.
Rất nhiều tương tác diễn ra giữa con người ở vầng tinh tú. Các đốm màu lớn với vô số hình thù lướt từ người này sang người kia. Một số dễ chịu và một số thì không hẳn là dễ chịu. Bạn có thể cảm nhận được sự khác biệt. Bạn có thể cảm thấy bực bội khi ai đó đi ngang qua phòng mà có vẻ như không nhận thấy sự có mặt của bạn; tuy nhiên, ở một mức độ khác, rất nhiều thứ đang diễn ra. Tôi đã chứng kiến những người đứng cạnh nhau trong một nhóm và vờ như không để ý đến nhau, trong khi ở mức độ năng lượng, có rất nhiều trao đổi được diễn ra với nhiều hình thái năng lượng chuyển động giữa họ. Hẳn là bạn cũng từng tự mình trải nghiệm điều này rồi, nhất là giữa đàn ông và phụ nữ. Đó không chỉ là ngôn ngữ cơ thể; chúng ta có thể cảm thấy một hiện tượng năng lượng nào đó đang thực sự diễn ra. Chẳng hạn như, khi một người đàn ông hoặc một người phụ nữ mơ tưởng đến chuyện làm tình với ai đó, giả dụ là trong một quán rượu hoặc tại một bữa tiệc, thì giữa các trường năng lượng sẽ diễn ra một khảo sát để xem các trường này có đồng bộ cũng như hai người đó có tương hợp với nhau hay không. Tôi sẽ đưa ra nhiều ví dụ hơn về hiện tượng tương tác hào quang này ở Chương 9.
Cơ thể mẫu dĩ thái (vầng thứ năm)
Tôi gọi vầng thứ năm của hào quang là cơ thể mẫu dĩ thái (xem Hình 7‒11, Phụ lục hình màu) bởi lẽ nó chứa đựng tất cả những hình thái tồn tại ở cấp độ vật lý trong bản thiết kế hoặc hình thái mẫu. Tức là nó giống như một tấm phim âm bản. Nó là hình thái mẫu của vầng dĩ thái, vốn là hình thái mẫu của cơ thể vật lý như chúng ta đã biết. Vầng dĩ thái của trường năng lượng lấy cấu trúc theo vầng mẫu dĩ thái. Nó là bản thiết kế hoặc hình thái lý tưởng cho cơ thể dĩ thái nương theo. Nó vượt ra khỏi cơ thể khoảng 1,5 ‒ 2ft (45 ‒ 60cm). Trong trường hợp cơ thể có bệnh, khi vầng dĩ thái trở nên biến dạng, cơ thể mẫu dĩ thái phải hoạt động để hỗ trợ vầng dĩ thái lấy lại hình thái mẫu ban đầu. Chính là ở vầng này, âm thanh tạo ra vật chất. Do đó, phương pháp sử dụng âm thanh để chữa lành phát huy hiệu quả tối ưu. Tôi sẽ bàn tới vấn đề này ở Chương 23 về chữa lành. Dưới tri kiến thấu thị của tôi, những hình thái này hiện ra là những đường trong suốt hoặc rõ ràng trên nền xanh coban, rất giống với bản vẽ thiết kế của kiến trúc sư, chỉ là bản vẽ này tồn tại ở một chiều kích khác. Nó giống như thể một hình dạng được tạo thành bằng cách lấp đầy hoàn toàn không gian nền, và khoảng trống còn lại tạo thành hình dạng đó.
Có thể lấy ví dụ là so sánh cách tạo một khối cầu trong hình học Euclid với cách tạo một khối cầu trong không gian dĩ thái. Trong hình học Euclid, để tạo một khối cầu trước hết người ta phải xác định một điểm. Một bán kính vẽ từ điểm đó hướng ra toàn bộ ba chiều sẽ tạo thành mặt ngoài của một khối cầu. Tuy nhiên trong không gian dĩ thái, còn có thể gọi là không gian âm, quá trình tạo thành một khối cầu lại diễn ra ngược lại. Hằng hà sa số các mặt phẳng đến từ mọi hướng và lấp kín toàn bộ không gian, ngoại trừ một vùng có hình cầu được để trống. Đây chính là định nghĩa về khối cầu. Đó là vùng không bị bất cứ mặt phẳng giao cắt lẫn nhau nào đi qua, từ đó xác định được một khoảng trống hình cầu.
Như vậy, vầng mẫu dĩ thái của hào quang tạo ra một khoảng trống hoặc không gian âm để vầng dĩ thái (vầng thứ nhất) của hào quang có thể tồn tại trong đó. Cơ thể mẫu dĩ thái là khuôn mẫu cho cơ thể dĩ thái, tiếp đó cơ thể dĩ thái lại hình thành cấu trúc mạng lưới (trường năng lượng có cấu trúc) để cơ thể vật lý dựa vào đó mà phát triển. Như vậy, vầng mẫu dĩ thái của trường năng lượng vũ trụ chứa đựng mọi hình thù và hình thái tồn tại ở cõi vật lý, ngoại trừ ở mức mẫu. Những hình thái này tồn tại trong không gian âm, tạo ra một khoảng trống để cấu trúc mạng lưới của cơ thể dĩ thái phát triển và nhờ vào đó, mọi dạng vật chất tồn tại.
Khi quan sát trường năng lượng của người khác, chúng ta có thể tách riêng vầng thứ năm ra nếu chỉ tập trung vào mỗi tần số rung động của vầng đó. Lúc làm như vậy, tôi nhìn thấy hình thù trường hào quang của đối tượng được quan sát, vượt ra khỏi cơ thể của người đó khoảng 2,5ft (75cm). Nó trông giống một hình bầu dục hẹp. Nó chứa toàn bộ cấu trúc của trường, bao gồm các luân xa, cơ quan nội tạng và hình dạng cơ thể (tứ chi, v.v.), tất cả đều ở hình thái âm. Toàn bộ các cấu trúc này dường như đều được hình thành từ các đường thẳng trong suốt trên một nền màu xanh da trời đậm vốn là không gian đặc. Khi điều chỉnh để nhạy hơn với vầng này, tôi cũng đồng thời nhận biết được mọi hình thái khác trong môi trường xung quanh mình. Điều đó dường như tự động diễn ra mỗi khi tôi chuyển đổi cơ chế cảm nhận của mình đến khoảng này. Tức là, trước tiên tôi chú ý đến vầng thứ năm nói chung; sau đó mới tập trung cụ thể vào đối tượng mà tôi đang quan sát.
Cơ thể thượng giới (vầng thứ sáu)
Vầng thứ sáu là vầng cảm xúc của cấp độ tâm linh, còn được gọi là cơ thể thượng giới (xem Hình 7‒12, Phụ lục hình màu). Nó vượt ra khỏi cơ thể vật lý khoảng 2 ‒ 2,75ft (60 ‒ 83cm). Thông qua vầng này, chúng ta trải nghiệm cảm giác thăng hoa ở cấp độ tâm linh. Chúng ta có thể chạm tới nó thông qua thiền và nhiều hình thức chuyển hóa khác mà tôi đã đề cập đến trong cuốn sách này. Khi đạt đến ngưỡng “hiện hữu”, khi biết được mối kết nối giữa bản thân với toàn bộ vũ trụ, khi nhìn thấy ánh sáng và tình yêu trong vạn vật tồn tại trên cõi đời này, khi đắm mình vào thứ ánh sáng đó và cảm thấy chúng ta là nó và nó là chúng ta và cảm thấy chúng ta là một với Thượng đế, thì khi đó, chúng ta đã nâng ý thức của mình lên vầng thứ sáu của hào quang.
Tình yêu vô điều kiện tuôn chảy khi có liên kết giữa luân xa tim ở trạng thái mở và luân xa thượng giới ở trạng thái mở. Trong mối liên kết này, chúng ta kết hợp tình yêu của con người, tình yêu thương cơ bản của con người dành cho đồng loại bằng xương bằng thịt, với trạng thái thăng hoa về mặt tâm linh trong tình yêu tâm linh, thứ vốn vượt ra khỏi thực tại vật lý và đi vào mọi địa hạt của sự hiện hữu. Sự kết hợp này tạo ra trải nghiệm về tình yêu vô điều kiện.
Cơ thể thượng giới hiện ra với tôi trong ánh sáng lung linh huyền ảo, bao gồm chủ yếu là các tông màu phấn. Ánh sáng này có màu vàng bạc óng ánh, giống như kim tuyến. Hình thù của nó không rõ ràng như vầng mẫu dĩ thái, nó dường như chỉ được cấu thành từ ánh sáng tỏa ra từ cơ thể giống như quầng sáng bao quanh một ngọn nến. Trong quầng sáng này cũng có những tia sáng chói hơn, mạnh hơn.
Cơ thể mẫu ketheric hay cơ thể nhân quả (vầng thứ bảy)
Vầng thứ bảy là vầng tâm trí của cõi tâm linh, còn được gọi là vầng mẫu ketheric (xem Hình 7‒13, Phụ lục hình màu). Nó vượt ra khỏi cơ thể khoảng 2,5 ‒ 3,5ft (75 ‒ 105cm). Khi hướng ý thức vào vầng thứ bảy của hào quang, chúng ta biết rằng chúng ta là một với Đấng sáng tạo. Hình thái ngoài cùng này có hình quả trứng của cơ thể hào quang và chứa toàn bộ các cơ thể hào quang gắn kết với kiếp sống hiện tại của một người. Cơ thể này cũng là một khuôn mẫu có cấu trúc cao. Theo quan sát của tôi, nó được cấu thành từ các sợi ánh sáng rất nhỏ màu vàng bạc nhưng vô cùng kiên cố và gắn kết toàn bộ hình thái của hào quang lại với nhau. Nó chứa một cấu trúc lưới màu vàng óng của cơ thể vật lý và toàn bộ các luân xa.
Khi điều chỉnh để nhạy hơn với mức tần số của vầng thứ bảy, tôi nhìn thấy thứ ánh sáng óng vàng lung linh tuyệt mỹ, rung động nhanh tới nỗi tôi phải dùng đến từ “lung linh” mới đủ diễn tả. Trông nó giống như hàng ngàn sợi tơ màu vàng. Hình thù quả trứng vàng này vượt ra khỏi cơ thể khoảng 3 ‒ 3,5ft (90 ‒ 105cm) tùy theo mỗi người, có đầu chóp nhỏ ở dưới bàn chân và đầu mở to cách đầu khoảng 3ft (90cm). Nó thậm chí có thể vươn xa hơn đối với những người giàu năng lượng. Với tôi, đường mép bao ngoài cùng thực ra trông giống như vỏ trứng; nó có độ dày khoảng 0,25 ‒ 0,5 inch (0,6 ‒ 1,2cm). Phần ngoài cùng này của vầng thứ bảy rất vững chắc và dẻo dai, có tác dụng kháng lại những sự thâm nhập và bảo vệ trường năng lượng giống như vỏ trứng bảo vệ gà con. Ở vầng này, toàn bộ các luân xa và hình thái cơ thể đều hiện ra với ánh sáng màu vàng óng. Đây là vầng mạnh nhất, dẻo dai nhất của trường hào quang.
Có thể so sánh nó với một sóng ánh sáng dừng có hình thù và hình thái phức tạp, rung động với tốc độ cực lớn. Chúng ta gần như có thể nghe thấy âm thanh phát ra khi nhìn vào nó. Tôi chắc chắn rằng người ta có thể nghe thấy âm thanh phát ra nếu tập trung chiêm nghiệm một hình ảnh như vậy. Vầng mẫu vàng óng này cũng chứa dòng năng lượng chính chạy dọc theo cột sống và là dòng năng lượng chính nuôi dưỡng toàn bộ cơ thể. Bởi lẽ dòng năng lượng vàng óng này dao động lên xuống dọc theo cột sống, thế nên nó dẫn năng lượng đi qua gốc của từng luân xa và kết nối những năng lượng được các luân xa thu nhận.
Dòng năng lượng thẳng đứng chính tạo ra các dòng khác theo các góc phù hợp để hình thành những dải vàng óng vươn trực tiếp ra khỏi cơ thể. Sau đó, những dải này lại tạo ra các dòng khác xoay tròn quanh trường năng lượng, sao cho toàn bộ trường hào quang và tất cả các vầng bên dưới đều nằm trong mạng lưới hình giỏ này. Mạng lưới này cho thấy sức mạnh của thứ ánh sáng vàng óng, tâm trí thiêng liêng gắn kết toàn bộ trường lại với nhau trong sự toàn vẹn và đầy đủ của nó.
Ngoài ra, ở vầng mẫu ketheric còn có các dải tiền kiếp bên trong vỏ trứng. Đó là những dải ánh sáng màu bao trọn quanh hào quang và có thể tìm thấy được ở bất cứ đâu trên bề mặt vỏ trứng. Dải ở gần vùng đầu cổ thường là dải chứa đựng tiền kiếp mà bạn đang tiến hành thanh lọc trong kiếp sống hiện tại của mình. Jack Schwarz có bàn về các dải này và cách xác định ý nghĩa của chúng thông qua màu sắc. Sau này, trong phần chữa lành tiền kiếp, tôi sẽ mô tả cách thức tác động tới các dải này. Vầng ketheric là vầng hào quang cuối cùng trong cõi tâm linh. Nó chứa đựng kế hoạch cuộc sống và là vầng cuối cùng liên hệ trực tiếp với kiếp hóa thân này. Sau vầng này là cõi vũ trụ, cõi này không thể được trải nghiệm từ góc nhìn hạn chế của chỉ một kiếp hóa thân.
Cõi vũ trụ
Tại thời điểm này, hai vầng bên trên vầng thứ bảy mà tôi có thể nhìn được là vầng thứ tám và vầng thứ chín. Chúng lần lượt gắn kết với luân xa thứ tám và luân xa thứ chín nằm phía trên đầu. Mỗi vầng đều hiện ra trong suốt như pha lê và gồm các rung động cao vô cùng vi tế. Vầng thứ tám và vầng thứ chín dường như tuân theo khuôn thức chung là luân phiên biến đổi giữa vật chất (vầng thứ tám) và hình thái (vầng thứ chín), do đó vầng thứ tám chủ yếu hiện ra dưới dạng chất lưu, còn vầng thứ chín hiện ra dưới dạng khuôn mẫu trong suốt như pha lê của tất cả những gì bên dưới nó. Tôi chưa từng đọc được tài liệu nào nhắc đến các vầng thứ tám và thứ chín, nhưng có thể chúng cũng đã được ghi chép lại ở đâu đó. Tôi biết rất ít về các vầng này, ngoại trừ một số phép thực hành chữa lành vô cùng hiệu lực mà tôi đã được các vị hướng dẫn tâm linh của mình truyền dạy. Tôi sẽ bàn về các phương pháp này ở Chương 22.
Nhận biết trường hào quang
Điều quan trọng cần nhớ là khi bạn khai mở khả năng thấu thị của mình, hầu như bạn sẽ chỉ nhận biết được vầng thứ nhất của hào quang. Nhiều khả năng là bạn cũng sẽ không thể phân biệt các vầng. Bạn hầu như chỉ nhìn thấy các màu sắc và hình thù. Theo thời gian, bạn sẽ tăng độ nhạy đối với những tần số cao hơn, do đó có thể nhận biết những cơ thể cao hơn. Bạn cũng sẽ có khả năng phân biệt các vầng và tập trung vào vầng mình muốn.
Hầu hết các hình minh họa trong một vài chương kế tiếp đều chỉ thể hiện ba hoặc bốn cơ thể hào quang bậc thấp. Không có điểm khác biệt nào được thể hiện giữa các vầng này. Chúng dường như hòa lẫn với nhau và hoạt động cùng nhau trong hầu hết các tương tác được mô tả. Trong phần lớn thời gian, các tình cảm bậc thấp, các quá trình tư duy cơ bản và các cảm xúc giữa con người với con người của chúng ta đều rối rắm và lẫn lộn vào với nhau. Chúng ta không thực sự giỏi phân biệt những thứ bên trong này của bản thân. Một số lẫn lộn kể trên thậm chí còn có thể thấy rõ trong hào quang. Nhiều lúc, cơ thể cảm xúc và cơ thể tâm trí hoạt động giống như một hình thái rối rắm. Trong những mô tả sau đây về quá trình điều trị, không có nhiều điểm khác biệt được thể hiện giữa các cơ thể. Tuy nhiên, qua quá trình điều trị hoặc bất kỳ quá trình trưởng thành nào khác, các vầng của một người sẽ trở nên rõ rệt hơn. Khách hàng có thể phân biết tốt hơn các cảm xúc, quá trình tư duy cơ bản với các cảm xúc bậc cao của tình yêu vô điều kiện gắn kết với các vầng hào quang bậc cao. Điều này có được là nhờ quá trình tìm hiểu các mối quan hệ nhân quả được mô tả ở Chương 15. Tức là, khách hàng bắt đầu hiểu được hệ thống niềm tin của họ có tác động như thế nào đến những ý nghĩ trong cơ thể tâm trí, kéo theo đó là tác động đến cơ thể cảm xúc, rồi đến cơ thể dĩ thái, và cuối cùng là cơ thể vật lý. Khi đã hiểu được điều này, họ có thể phân biệt các vầng trong trường hào quang. Kỳ thực, các vầng của trường này sẽ ngày càng rõ rệt và dễ phân biệt hơn khi khách hàng ngày càng thấu suốt hơn, ngày càng hiểu rõ hơn về những cảm giác nơi thân, cảm xúc nơi tâm cũng như những suy nghĩ của bản thân và hành động sao cho phù hợp.
Hình 7-14: Hào quang quanh các đầu ngón tay
Trong những phần bàn về chữa lành tiếp sau đây, việc phân biệt giữa các vầng của hào quang sẽ là vô cùng quan trọng.
Trả lời các câu hỏi trong phần thực hành quan sát hào quang con người
Năng lượng hầu như luôn luôn chuyển động từ trái sang phải theo đường vòng tròn. Ngừng chuyển động tạo ra cảm giác hết sức khó chịu, và thường thì không thể nào ngừng lại toàn bộ dòng chảy. Cảm giác hình thành dần thứ gì đó giữa hai bàn tay là cảm giác ngưa ngứa của cơ thể do áp lực, có phần giống với hiện tượng tích điện. Khi phần rìa của cơ thể năng lượng chạm vào nhau, cảm giác ngưa ngứa và áp lực sẽ xuất hiện. Khi phần rìa của cơ thể năng lượng chạm vào da cũng sẽ có cảm giác ngưa ngứa và áp lực trên bề mặt da. Khi vẽ vòng tròn lên lòng bàn tay, bạn có thể cảm thấy ngưa ngứa tại các đường vẽ đó.
Hầu hết mọi người nhìn thấy một lớp sương bao quanh các ngón tay và bàn tay khi cố gắng cảm nhận hào quang. Nó có phần giống với sóng nhiệt tỏa ra từ bộ tản nhiệt. Đôi khi nó có màu sắc, chẳng hạn như màu xanh da trời. Thường thì ban đầu hầu hết mọi người đều nhìn thấy nó không có màu. Các cơ thể năng lượng kéo giãn như kẹo bơ cứng giữa các ngón tay khi mà lớp sương từ mỗi đầu ngón tay kết nối với lớp sương ở đầu ngón tay tương ứng của bàn tay còn lại. Khi bạn di chuyển các ngón tay để các đầu ngón tay lệch nhau thì ban đầu, lớp sương sẽ bám theo ngón tay cũ rồi nhảy tới ngón tay gần hơn (xem Hình 7‒14).
Điểm lại Chương 7
1. Mối quan hệ giữa trường năng lượng vũ trụ và trường năng lượng con người là gì?
2. Cơ thể mẫu dĩ thái trông như thế nào? Nó khác gì với cơ thể cảm xúc?
3. Ba chức năng chính của các luân xa là gì?
4. Tại sao mỗi luân xa lại có một màu nhất định?
5. Tâm của luân xa nằm ở đâu?
6. Các luân xa gắn liền với các cấu trúc giải phẫu nào?
7. Mô tả bảy vầng thấp nhất của trường hào quang và chức năng của chúng.
8. Mô tả mối quan hệ giữa các luân xa và các vầng của hào quang.
9. Luân xa thứ tám và luân xa thứ chín nằm ở đâu?
10. Mô tả một luân xa trên vầng thứ bảy của trường năng lượng?
11. Vầng nào gắn trường năng lượng con người lại với nhau?
12. Cảm xúc xuất hiện trong vầng nào của trường năng lượng con người?