C
hiều tối qua tôi về làng, đi trên đường Hương Cần - Cửa Hậu, thấy một đoàn mấy o, mấy chị làm nghề thu mua chai bao từ Huế đạp xe về quê sau một ngày rong ruổi, cần mẫn qua các con hẻm ngóc ngách của phố thị. Họ nói cười rôm rả với những câu chuyện vui trong ngày…
Có lẽ cái nghề thu mua phế liệu là một trong những nghề có nhiều tên gọi nhất ở Việt Nam; miền Bắc gọi là nghề đồng nát; còn ở xứ Huế quê tôi gọi là nghề chai bao, nghề nhôm nhựa, nghề thu mua lông gà lông vịt... Cái nghề đó không biết có từ bao giờ và đến bây chừ nó vẫn là một nghề của nhiều người lao động nghèo từ làng quê đến phố thị… Và vẫn còn không ít gia đình nghèo dựa vào gánh chai bao của người mẹ, người chị để lo toan bao khoản chi hàng ngày…
Ở xóm quê tôi, hồi trước có mụ Lổng mấy chục năm làm nghề chai bao, lông gà lông vịt. Sáng mờ, với một mo cơm, một bịch nước, mụ quẳng gánh ra khỏi nhà đến mịt tối mới về. Quang gánh trên vai, mụ rao: “Ai dôm dựa dép bán khôn...;” “Ai chai bao, lông vịt bán khôn...” Mụ đi khắp cả làng tôi rồi về hai làng dưới là Thế Chí Tây, Thế Chí Đông và trở thành một bạn hàng quen của tất cả mọi nhà, nhứt là mấy đứa con nít.
Đi bền bỉ tháng này qua năm nọ như thế nên chuyện chi của mấy làng mụ đều biết; hỏi đứa ni đứa nớ con nhà ai mụ nói ra ngay, hỏi o chi đó đẹp nhất làng sắp lấy chồng là ai cũng tường... Có lẽ thấu cảm cái công của mụ nên cả mấy làng, nhà ai có chai bao, có lông vịt đều để dành bán cho mụ Lổng, dù bán cho mụ giá có rẻ hơn. Quang gánh tảo tần như rứa mà một mình mụ nuôi đủ ba đứa con trưởng thành.
Mụ Lổng chừ đã có tuổi rồi nên thôi quang gánh chai bao cũng đã hơn chục năm. Mà bữa nay, nghề chai bao nhôm nhựa của mấy o, mấy dì các làng quê cũng đỡ vất vả hơn khi có thêm mấy chiếc xe đạp đồng hành. Trên chiếc xe đạp với một mớ hổ lốn các loại phế phẩm sắt thép, thủy tinh, giấy lộn... của mấy o, mấy dì tưởng như thấy lấp lánh đâu đó nụ cười của mấy đứa con chờ mẹ về với những thức quà khi cái bánh, khi cái kẹo hay thức ăn cho buổi tối như mụ Lổng xóm tôi thuở nào...
* * *
Ông có cái tên như con gái: Nương. Đó là người thợ rèn độc nhất vô nhị từng hành nghề ở làng tôi cho đến bây giờ. Ông thợ rèn tên Nương, quê ở làng rèn Hiền Lương nức tiếng. Ông về làng tôi làm ăn là theo lời mời của hợp tác xã để sản xuất nông cụ phục vụ nông nghiệp. Một căn nhà nhỏ, một lò rèn nhỏ được dựng lên ngay trước sân kho hợp tác gần xóm tôi. Thế là cứ khi mô rảnh, lũ con nít xóm tôi lại rủ nhau xuống coi lò rèn ông Nương với nhiều điều lạ lẫm. Nhất là những ngày đông giá lạnh, vừa được coi ông rèn vừa được sưởi ấm từ cái lò than hồng. Ông Nương là một thợ rèn giỏi nhưng nát rượu. Hình như ngày nào ông cũng làm vài ly rồi mới bắt đầu làm việc. Câu cửa miệng của ông là: “Xụt bệ thợ rèn”, đấy cũng là công đoạn đầu tiên của nghề rèn, phải dùng tay để đẩy bệ cho lò than đỏ lên mà luyện sắt thép.
Khi ông mới về làng tôi, công việc của ông bận lắm vì nhà nào cũng cần làm mới các thứ nông cụ từ cuốc đến cào, dao, rựa, liềm… Ông làm không hết việc, còn có thêm mấy đứa con và vợ phụ những công việc lặt vặt. Sản phẩm của ông vừa đẹp, vừa sắc nên khách hàng ngày một đông thêm. Cả nhà ông một vợ, năm con mưu sinh nhờ vào cái bệ thợ rèn đó…
Thế nhưng rượu nhiều quá, ông ngày một bê trễ, không trả hàng đúng hẹn nên khách hàng bỏ đi dần. Cuối cùng ông Nương phải đèo bồng vợ con đi nơi khác, bỏ lại một căn nhà xiêu vẹo gió lùa và cái bệ thợ rèn tro lạnh…