N
gồi với bạn, tự nhiên một đứa nói thằng T của lớp mình nó giống ôn Bích quá hè! Tôi ngạc nhiên lắm, vì hồi nhỏ ở làng, tôi cũng đã gặp ôn Bích nhiều lần, không ngờ ôn Bích lại đi nhiều nơi như thế, bởi làng tôi cách làng bạn cũng gần chục cây số.
Ôn Bích người ở làng mô cũng không biết nữa. Mấy đứa bạn của tôi ở làng Thế Chí Tây nói là ôn Bích người làng Đại Lược của mi. Nhưng tôi chắc chắn là ôn Bích không phải người làng tôi. Lại có người nói nhà ôn Bích ở mô đó bên kia sông Ô Lâu. Gần đây, mới biết đích xác là ôn Bích người làng Thanh Hương, một làng quê bên này sông nhưng ở gần Quảng Trị, cách làng tôi khoảng năm cây số. Nghe dân làng Thanh Hương kể, ôn Bích học hành thế nào không biết nhưng ôn có trí nhớ tốt, đọc được cả mấy đoạn kinh Phật rồi truyện Kiều nữa. Ôn họ Trần, tên Chửng.
Ôn Bích hiền hay dữ cũng không biết nhưng cái mặt ôn tướng tá lắm, nhất là bộ râu quai nón luôn đen sậm hai bên má và đôi mắt sâu. Bởi thế hồi nhỏ, người lớn ở làng tôi vẫn hay mang ôn Bích ra dọa mấy đứa trẻ không chịu ăn, không chịu ngủ. Một người bạn gái của tôi kể: Hồi nhỏ mình sợ ôn lắm! Mỗi lần đứng chơi ngoài đường mà thấy ôn Bích đi ngang qua là hai chị em chạy vô nhà liền. Đó là con gái, chứ mấy đứa con trai thì thấy ôn Bích cũng vui, cũng gần gũi…
Ôn Bích mang cái quần ống rộng màu cháo lòng, dây quần là sợi dây chuối khô, rứa mà không bị tuột mới hay. Ôn có bị điên không cũng không ai dám chắc. Nhưng hay cái, nhà mô có kỵ (giỗ) to là ôn Bích xách cái bị đệm tới, không nói năng chi cả. Chủ nhà biết ý phải dọn cho ôn ăn một cộ riêng. Ăn xong uống nước, trút thức ăn thừa vô bị, cũng không thèm lấy tăm xỉa răng mà ra ngoài bụi tre trước ngõ bẻ một lóng ngậm vô miệng rồi đi… Ôn Bích mất cũng chừng hai chục năm rồi, nhưng bây chừ người dân ở miệt bên kia phá Tam Giang vẫn hay nói đùa mấy đứa mà nhà ai việc gì cũng biết là “ôn Bích”! Mà răng nói thằng bạn tôi giống ôn Bích hè, chắc do cái tướng đi cứ nghênh ngang giữa đường không biết sợ ai chứ hắn không phải là đứa chuyện chi cũng biết…
Bữa vô Sài Gòn cà phê với anh Thảo, mới biết tin bác Khanh mất rồi. Lạ rứa, tôi ở Huế, cách làng có mấy chục cây số không hay tin chi cả, mà ở Sài Gòn chuyện chi ngoài làng cũng biết hết. Bác Khanh là anh ruột cô giáo dạy Toán của tôi hồi những năm cấp 2. Anh em nhà bác ai học cũng giỏi cả, mà nghe đâu bác học giỏi nhất. Nhưng số phận phũ phàng nên bác thành người điên. Có người nói là do bác học nhiều quá, ngộ chữ mà điên.
Bác Khanh là người điên nhưng hiền lắm. Hằng ngày bác cứ đi tha thẩn từ chợ vô làng, từ làng ra chợ hát, đọc thơ và nói tiếng Pháp, tiếng Anh. Thỉnh thoảng bác chợt tỉnh, nhận ra những người bạn cũ, tới vỗ vai nói tên rõ ràng và bao giờ cũng có câu: Cho Khanh xin điếu thuốc! Có lần mấy đứa bạn chăn trâu xóm tôi rủ ra chợ nghe ôn Khanh đọc “Chiếc xơ ranh thơ thẩn”. Tôi tò mò đi theo. Gặp bác Khanh, một thằng trong bọn nói: “Ôn đọc ‘Chiếc xơ ranh thơ thẩn’ cho tụi tui nghe với!” Bác cười hiền: “Nhưng cho em điếu thuốc đã rồi em mới đọc!” Bác Khanh ngồi châm thuốc nhả khói lên cao và đọc thơ giọng mơ màng: “Trước sân anh thơ thẩn - Đăm đăm trông nhạn về - Mây chiều còn phiêu bạt - Lang thang trên đồi quê…” Trọn vẹn một bài hay và buồn lắm. Thì ra bác đọc bài “Tình quê” của Hàn Mặc Tử; mấy thằng bạn chăn trâu của tôi nghe tiếng được tiếng mất “trước sân anh” nghe thành “chiếc xơ ranh”… Mà bác không chỉ thuộc một bài mà cả chục bài, cả thơ cả nhạc tiền chiến. Lúc đọc thơ gương mặt bác sáng hẳn, mắt mơ màng đẹp và đa tình như một chàng lãng tử…
Tôi vẫn nhớ mùa hè được nghe bác Khanh đọc thơ, khi đó chuẩn bị lên học lớp 7. Mấy chục năm sau, gặp lại bác Khanh đang ngồi hút thuốc ở chợ khi râu tóc của bác đã bạc phơ, tôi nói: “Bác đọc lại ‘Chiếc xơ ranh’ cho con nghe với!” Bác châm thuốc, nhả khói bay lên cao, mắt mơ màng và vẫn đọc trôi chảy một bài “Tình quê” năm nao: “Dầu ai không mong đợi - Dầu ai không lắng nghe - Tiếng buồn trong sương đục - Tiếng hờn trong lũy tre - Dưới trời thu man mác - Bàng bạc khắp sơn khê…”