C
ó những mùa đông thiệt dài trong ký ức. Cơn gió bấc hun hút thổi từ phía cánh đồng, xuyên qua những lũy tre dày, mang theo những giọt mưa buốt lạnh vào làng. Lạnh lắm nên lũ gà chỉ quẩn quanh cái đụn rơm bên vườn nhà lượm những hạt lúa sót. Con chó Nô ngày ngày vẫn ham chạy nhảy khắp đó đây mà lạnh quá cũng tự đào một lỗ đất sát chân đụn rơm, đủ để cuộn mình tìm hơi ấm. Chỉ mấy mẹ con nhà mèo mướp vì không thể chơi chung với con Nô nên cứ quẩn quanh bên bếp. Lạnh đến nỗi mấy con trâu trong xóm cũng không dám ra đồng tìm cỏ mà chỉ nằm trong chuồng chờ chủ mang cỏ về gặm, đến khi hết cỏ thì gặm luôn cả rơm khô. Mùa đông dài mới thấy được giá trị của đụn rơm mỗi nhà. Là thức ăn thay cỏ cho trâu, là nơi để lũ gà vịt trú ẩn, là lớp chăn ấm cho mấy con heo và là chất đốt tiện dụng nhất cho bếp lửa mỗi nhà…
Mùa đông đến trường, gió lạnh trên đường táp vào mặt tê tái. Ô cửa sổ thiếu cánh bị gió thốc vào từng cơn làm tím tái những gương mặt gầy của những đứa trẻ quê. Có đứa không có áo ấm phải mặc hai ba lớp áo sơ mi, vừa ngồi học vừa run. Lạnh quá nên mới lớp 8, lớp 9 mà đã có đứa bắt chước người lớn trốn thầy cô vô góc kín phì phèo thuốc lá. Những tiết học run rẩy. Học trò ngồi dưới hàm đánh với răng mà thầy cô đứng trên bục giảng cầm viên phấn cũng run run vì lạnh, bữa sáng vẫn chưa có chi vô bụng…
Trời lạnh là lại nhớ ba đứa bạn gái ấu thời. Lớp tôi hồi đó có ba đứa con gái xóm Chợ, cũng là ba bông hoa xinh tươi của lớp. Những ngày đông giá, thích nhất đến giờ ra chơi túm tụm với nhau ăn quà vặt. Khi thì mấy hột bắp rang, khi thì miếng kẹo đậu phụng, khi thì mấy cái kẹo cau, khi thì củ sắn, củ khoai... Những món ăn này đã làm bớt phần nào cái lạnh mùa đông. Chủ nhân của những món quà vặt này là ba đứa con gái xóm Chợ, nhà buôn bán nên khi mô cũng có sẵn hàng quà: Bình, Lê, Hiền. Cả ba đứa đều chơi thân với tôi, nên khi mô có quà vặt là tôi thuộc vào dạng được ưu tiên. Bình da trắng nhất lớp, khi mô cũng cười ngỡ như chẳng biết buồn là chi. Lê thì sắc sảo, sẵn sàng đốp chát với bất cứ đứa con trai nào dám cà khịa. Hiền cùng họ hàng với tôi, nhỏ nhất trong ba đứa nhưng lại là thủ lĩnh của phe nữ trong lớp. Hồi đó, quê tôi ít người theo học cấp 3 phần vì trường xa; phần vì cha mẹ nghĩ cho học nghề dễ kiếm sống hơn. Bình, Lê nghỉ học năm lớp 8. Hiền tốt nghiệp cấp 2 xong cũng nghỉ học luôn. Năm tôi học năm nhất Đại học, Bình lấy chồng, một anh chàng trong xóm Chợ. Đạp xe từ Huế về quê dự đám cưới bạn cũng trong một ngày cuối đông lạnh tê tái, tự dưng thấy buồn. Sau này, mỗi lần mẹ tôi đi chợ, Bình vẫn thường hỏi thăm: “O ơi, thằng Tân học rứa mai mốt ra làm chi hè?” Lê vào Đà Nẵng buôn bán. Có năm về Tết, tiễn tôi ra bến đò, dúi vội vàng mấy ngàn đồng vô túi bạn. Hiền bôn ba từ Hồng Kông, Sài Gòn rồi theo chồng ra tận Vinh định cư. Ngày ba tôi mất, Hiền điện vô khóc mà không nói chi cả. Ba mươi Tết năm đó, Hiền chạy vô nhà thắp nhang cho ba tôi mà mếu máo: “Chú bỏ tụi con đi sớm rứa chú ơi!” Ba đứa bạn gái thân thiết của tôi đã qua tứ thập hết rồi. Con cái đã lớn. Một ngày cuối năm nhận tin dữ, Lê không còn nữa… Trời lạnh làm tôi vẫn nhớ như in cảnh mấy cái miệng xinh xinh của ba đứa bạn gái yêu thương thổi phù phù bắp rang, rồi chia phần cho từng đứa một trong lớp...
Mùa đông, lũ cò về trắng cả cánh đồng tìm thức ăn nên đến khi gieo mạ, cánh đồng dày đặc những chú bù nhìn đứng trễ nải dọa chim cò vạc. Lạnh lắm nên chẳng ai ra đồng trừ mấy bác chăn vịt đàn mang mấy cái tơi lè kè. Những cái tơi được bện bằng cỏ tranh mà nghe người lớn nói mang nó trên người thì ấm lắm bất chấp mưa lạnh, chừ không còn thấy ai mang nữa… Mùa đông, chẳng mấy ai muốn dậy sớm nhưng đều bị đánh thức bởi tiếng loa truyền thanh của xã bằng băng cải lương “Áo Vũ Cơ Hàn” nghe hoài thành thuộc: “Gió thu lạnh thiếu lửa hồng sưởi ấm, rượu lưng bầu lạnh thấm buồng tim…” Mùa đông đi ngang qua xóm chợ, nghe mùi cà phê thơm lừng từ quán chú Luận mà chỉ dám đứng lại nhìn vô mà thèm…
Những đêm mùa đông, nhà nhà đi ngủ sớm. Mới tám giờ tối mà làng xóm tối um và lặng như tờ, có thể nghe được tiếng lá tre rụng xuống đường theo mấy giọt mưa, và thỉnh thoảng là tiếng chó sủa ran từ những căn nhà thấp le lói ánh sáng của mấy ngọn đèn dầu vặn lu… Cũng có vài căn nhà ngọn đèn dầu vẫn để cao, ánh sáng hắt ra ngoài sân. Có thể đoán ngay được rằng đó là những ngôi nhà có con gái đang độ tuổi cập kê. Tình yêu thời nào cũng có sức mạnh ghê gớm. Mưa lạnh đến mức chẳng ai muốn chui ra khỏi chăn khi đêm xuống nhưng mấy trai làng thì chẳng sá chi mưa gió mà đi tìm tình yêu… Cũng không biết hành trình tán gái có thành công hay không mà khi mô trên đường về ngang xóm nhỏ, mấy chàng cũng kéo mấy bài bolero nghe thiệt rầu: “Ván kia bây chừ đóng thuyền rồi - Có còn gì đâu nữa thôi đành hẹn trong mơ…”
Mùa đông dài. Rêu phủ xanh cái sân đất sét trước nhà nên đi đứng phải cẩn thận, nếu không rất dễ bị trượt ngã. Nhưng mấy mụ bán nước mắm từ các làng biển thì gánh cả một gánh đầy qua sân trơn mà vẫn vững vàng. Có lẽ nhờ vào bàn chân Giao Chỉ, ngón xòe ra bám chắc vào đất. Hồi đó, dân làm ruộng đã nghèo, dân đi biển còn nghèo hơn. Mùa đông, cánh trai tráng làng chài không ra khơi được nên cả nhà phải nhờ vào gánh mắm ruốc của cánh phụ nữ. Mà gánh hải sản ngày đông hồi đó hấp dẫn lắm. Là mấy chai nước mắm ruốc thơm lựng, là gói khuyết khô và nhất là món mắm thính: thính cá nục, thính cá chuồn, thính cá hố…, để nguyên con kho với lá ném ăn ngậm mà nghe. Bây chừ vẫn thấy trên các chợ bán mắm thính nhưng không thơm ngon như hồi trước, có lẽ do con cá để làm mắm không tươi, cũng có thể do tay người làm thính không ngon…
Mấy mụ phải quang gánh ra khỏi nhà từ sớm, chân trần băng qua những trảng cát dài ngùn ngụt gió, đến từng nhà một bán hàng cho đến chập tối mới trở về. Tôi nhớ có một buổi chiều mưa lạnh, mụ Móm quang gánh vô xóm, vừa đi vừa khóc vì đánh rớt bị tiền sau gần cả ngày bán hàng. Thấy cảnh đó ai mà chẳng động lòng nên cả xóm người ít tiền, người ít gạo gom góp cho mụ…
Mùa đông làng vào vụ cấy. Có lạnh giá chừng nào thì nông dân cũng phải xắn cao quần quá gối, chân tay trần cắm xuống ruộng bùn cày cấy cho kịp thời vụ. Đi cấy ruộng xa, người dân quê tôi đến chiều về tới nhà ăn vội chén cơm nguội rồi lại xuống đồng nhổ má (mạ). Má nhổ từng cụm, đập thiệt mạnh vào chân cho bay lớp đất bám vào rễ rồi mới bó và chất thành từng gánh. Khi những gánh má về tới nhà thì đêm đã xuống từ lâu. Giấc ngủ chập chờn, đến mờ sáng đã nghe lao xao cơm nước. Những bạn cấy cười nói chuyện trò trong bữa ăn dưới đèn để kịp gánh má ra bến, theo đò xuống ruộng khi trời vừa tảng sáng. Trong cơn gió bấc, những cây má khô quắp, héo hon tưởng như không thể sống được qua mưa lạnh. Thế nhưng rễ má vừa bén đất thì lúa đã lên xanh đồng. Hình ảnh những cây lúa trong giá rét mùa đông giống lắm với những người nông dân quê nhà; run run trong giá lạnh nhưng không một lần chùn bước. Họ đã gánh cả mùa đông khắc nghiệt để thôn xóm ruộng đồng vui ngày nắng lên hớn hở…