Thật khó để mô tả cách mọi người đối mặt với sự coi thường mà họ đã chịu đựng khi còn bé, đặc biệt là sự coi thường để đối lấy sự khoan khoái và niềm vui thể xác trong cuộc sống. Có lẽ tôi nên dẫn ra những ví dụ cụ thể. Với sự hỗ trợ của những mô hình lí thuyết, tôi chắc chắn có thể mô tả nhiều cơ chế phòng vệ khác nhau, đặc biệt là những cơ chế chống lại những cảm xúc bị dồn nén. Nhưng làm như thế sẽ không thể cho mọi người thấy hết những hoàn cảnh mà ở đó cảm xúc đã khơi gợi nỗi đau của một người, từ đấy giúp độc giả dễ dàng thấu hiểu và cảm thông hơn. Chỉ dựa trên các học thuyết thuần lí, các nhà trị liệu chúng tôi giữ vị trí “người ngoài cuộc”, từ đó chúng tôi có thể nói về “người khác”, phân loại, xếp nhóm hoặc gán nhãn cho họ bằng cách đưa ra chẩn đoán, và thảo luận về họ bằng thứ ngôn ngữ mà chỉ chúng tôi hiểu. Nếu muốn thay đổi điều này, chúng tôi cần các minh chứng. Chỉ có thông qua chi tiết về cuộc đời của một người, chúng tôi mới có thể chứng minh cách một người đã cảm nhận sự nổi loạn thời thơ ấu của mình là “tệ hại”. Chỉ có quá khứ của một người mới giúp chúng tôi nhận ra, rằng một đứa trẻ không thể nào nhận thức được những thôi thúc của cha mẹ nó là như vậy, rằng sự mù quáng này có thể tiếp diễn suốt cuộc đời của con trẻ cho đến khi lớn lên, dù anh ta có cố gắng thoát khỏi ngục tù nội tâm mình.
Tôi sẽ minh chứng cho những vấn đề vô cùng phức tạp này bằng câu chuyện của nhà thơ và tiểu thuyết gia Hermann Hesse. Câu chuyện này đã được xuất bản ở nhiều nơi và do chính ông viết ra, nên những liên kết mà tôi nhận định có thể xác minh bằng những tình huống cụ thể từ cuộc đời của ông.
Mở đầu cuốn tiểu thuyết Demian 18, Hermann Hesse đã mô tả một ngôi nhà “tốt đẹp và thuần lành” của cha mẹ, ở đó không có chỗ cho lời nói dối của con trẻ. (Trong cuốn tiểu thuyết này, không khó để nhận ra đây là ngôi nhà của cha mẹ Hermann, và ông đã gián tiếp xác nhận điều đó.) Đứa trẻ đơn độc đối diện với tội lỗi của mình. Nó cảm thấy mình sa đọa, hư hỏng và bơ vơ, dù không ai mắng nó, vì chưa một ai biết về “sự thật kinh hoàng” này. Tình huống này dĩ nhiên khá phổ biến trong thực tế. Cách Hermann lí tưởng hóa ngôi nhà “thuần lành” cũng không xa lạ gì với chúng ta. Ông phản ánh góc nhìn của đứa trẻ và cả sự tàn nhẫn đằng sau những phương pháp giáo dục, nghe có vẻ bình thường, về những “giá trị” đạo đức quen thuộc.
Hermann viết:
“Như hầu hết mọi cha mẹ khác, cha mẹ tôi không giúp được gì trong những vấn đề mới của tuổi dậy thì, cũng chẳng có sự tham khảo nào về vấn đề này. Tất cả những gì họ làm là cố gắng không ngừng trong việc ủng hộ những nỗ lực vô vọng của tôi để phủ nhận thực tại và tiếp tục thu mình trong thế giới tuổi thơ ngày càng trở nên hư ảo. Tôi không chắc cha mẹ có giúp được gì không, và tôi cũng không trách cha mẹ mình. Chấp nhận bản thân và tìm ra con đường của chính mình là việc của tôi. Nhưng giống như hầu hết những đứa con ngoan khác, tôi thất bại thảm hại.”
18 Hermann Hesse, Demian: Tuổi trẻ băn khoăn, Nxb Trẻ, 2020 (ND).
Với một đứa trẻ, cha mẹ của nó dường như không có ham muốn tình dục, vì họ có cách và khả năng che giấu hoạt động tình dục của mình, trong khi đứa trẻ thì luôn bị giám sát 19. Tôi cảm thấy rằng phần đầu của Demian rất có tính khơi gợi và dễ dàng được đánh giá cao, thậm chí là với những người có hoàn cảnh khác. Điều khiến cho những phần sau của cuốn tiểu thuyết này trở nên khắc nghiệt một cách kì lạ, hẳn phần nào liên quan đến những giá trị đạo đức của ông bà và cha mẹ Hermann (họ là gia đình truyền giáo). Những điều này đã thấm nhuần trong nhiều câu chuyện của ông nhưng ta lại dễ dàng cảm nhận chúng nhất trong Demian.
Mặc dù người anh hùng Sinclair đã trải qua tội lỗi (vụ tống tiền với một cậu nhóc lớn tuổi hơn), anh ta vẫn chẳng hiểu gì hơn về thế giới. “Hư hỏng” với anh ta là “sự trụy lạc” (đây là ngôn ngữ của nhà truyền giáo). Sự trụy lạc đối với ông không phải là sự ghét bỏ, cũng không phải là cái ác, mà là những hành động tầm thường như đi nhậu ở quán rượu.
19 Trong cuốn sách A Child’s Heart (Tạm dịch: Trái tim trẻ thơ) của mình, Hesse đã viết: “Người lớn hành xử như thể thế giới là hoàn hảo và chính họ là những á thần, trẻ con chúng ta chẳng là gì ngoài lũ bỏ đi… Lại một lần nữa, một vài ngày sau, thậm chí vài giờ sau, có điều gì đó vốn không nên xảy ra đã xảy ra, điều gì đó tồi tệ, buồn bã và đáng xấu hổ. Lại một lần nữa, giữa những quyết định và lời thề cao thượng và chân thành nhất, tôi đột nhiên rơi vào tội lỗi và hư hỏng, vào những thói quen xấu thông thường. Tại sao lại như thế?”
Khi còn nhỏ, Hermann Hesse đã tiếp thu từ cha mẹ tư tưởng rằng “sự sa đọa” là sai trái về đạo đức. Điều này giống như thể ông tìm kiếm sự trú ngụ ở một cơ thể khác và từ đó hình thành nên những gốc rễ tính cách của mình. Đấy là lí do tại sao tất những gì có trong Demian sau vẻ ngoài của thần Abraxas, người “hợp nhất đứa con ngoan đạo và những kẻ gian tà” đã bị loại bỏ một cách khó hiểu. Đáng ra, ở đây phải có sự hợp nhất khéo léo giữa cái sai trái và sự tốt đẹp, nhưng chúng ta không thể chạm tới điều này. Ai đó có thể cảm thấy rằng, Emil Sinclair có một điều gì đó kì lạ, đáng sợ, và trên tất những điều này, ta không biết là cậu vẫn không thể tự giải thoát chính mình. Niềm tin có chút cảm tính của cậu về “sự sa đoạ” đã bao gồm cả nỗi sợ hãi và tội lỗi:
“Một lần nữa tôi ráng hết sức để xây dựng một ‘thế giới ánh sáng’ âm thầm cho riêng mình khỏi những lê thê của một đoạn trường tan vỡ. Một lần nữa tôi hi sinh tất cả mọi thứ bên trong mình với mục tiêu xua đuổi bóng tối và quỷ dữ nơi ngục tù nội tâm.”
Trong buổi triển lãm ở Zurich (1977) nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Hermann, họ đã trưng bày một bức tranh, vốn được treo trên đầu giường của ông ngày trước và dõi theo quá trình lớn lên của ông. Trong bức tranh này, bên phải là con đường “tốt” tiến tới thiên đường, với đầy bụi gai, khó khăn và mất mát. Ở bên trái là con đường bằng phẳng, đầy dễ chịu nhưng dẫn đến địa ngục. Những quán rượu đã chiếm vị trí nổi bật trên con đường này, có lẽ những người phụ nữ sùng đạo hi vọng có thể giữ chồng và con mình khỏi những nơi xấu xa đó bằng biểu tượng đáng sợ này. Những quán rượu này đóng một vai trò quan trọng trong Demian, trớ trêu thay, Hermann không hề có thôi thúc phải say sưa trong những quán rượu thế này, dù chắc chắn ông mong ước thoát khỏi sự ngột ngạt trong những giá trị của cha mẹ mình.
Mọi đứa trẻ điều xây dựng hình ảnh đầu tiên về “cái xấu” khá cụ thể, đấy là những gì bị cấm từ những cấm đoán, cấm kị và nỗi sợ hãi của cha mẹ. Chúng sẽ có cả một con đường dài phía trước, trước khi có thể giải phóng bản thân khỏi những giá trị của cha mẹ và nhìn nhận rõ những điều bản thân anh ta tin tưởng là “xấu”. Anh ta sẽ không còn coi đó là “trụy lạc” và “sai trái” nữa, mà chỉ là một phản ứng tiềm tàng dễ hiểu cho những chấn thương anh ta phải dồn nén khi còn nhỏ. Khi đã trưởng thành, anh ta có thể khám phá ra nguyên nhân và giải phóng bản thân khỏi phản ứng vô thức này. Anh cũng có cơ hội xin lỗi người khác vì những gì đã làm trong sự vô tri, mùng quáng và bối rối. Điều này sẽ giúp anh ta tránh lặp lại những hành động mà anh ta không muốn tiếp diễn nữa.
Không may là, con đường thông suốt đã không mở ra với Hermann Hesse. Đoạn văn sau đây trong Demian cho thấy nhận thức về việc mất đi tình yêu của cha mẹ đã đe dọa sâu sắc quá trình tìm kiếm con người thật của ông như thế nào:
“Nhưng ở nơi chúng ta trao đi yêu thương và sự tôn trọng không phải từ thói quen mà từ ý chí tự do của mình, ở nơi chúng ta là những học trò và bạn bè vô tư từ tận đáy lòng mình, khi chúng ta chợt nhận ra rằng dòng xoáy bên trong muốn đẩy chúng ta khỏi những gì thân thiết với chúng ta nhất, đấy sẽ là khoảnh khắc vô cùng cay đắng và đáng sợ. Mọi ý nghĩ phủ nhận bạn bè và thầy cô của mình sẽ bám lấy trái tim ta như những dây gai có độc. Sau đó mỗi cú đấm phòng vệ được tung ra sẽ bật ngược trở lại, giáng thẳng vào mặt chúng ta, những từ “bất trung” và “bội bạc” giáng xuống những người cảm thấy mình như kẻ sáo rỗng và nhơ nhuốc, trái tim sợ hãi sẽ rụt rè quay lại với những thung lũng kì diệu của những đức tính tuổi thơ, mà không thể tin rằng sự tan vỡ này phải xảy ra, sự ràng buộc này phải bị phá vỡ.”
Và ở trong A Child’s Heart ông viết:
“Nếu tôi phải tóm gọn tất cả cảm xúc của mình cùng những xung đột đau đớn giữa chúng thành một cái tên, tôi chẳng thể nghĩ đến từ nào khác ngoài: khiếp sợ. Đấy là nỗi kinh hoàng, đáng sợ tột cùng và mơ hồ mà tôi cảm nhận từng giờ từng phút về những niềm vui tuổi thơ vụn vỡ: nỗi sợ hãi bị trừng phạt, sợ hãi lương tâm của mình, sợ hãi những thôi thúc trong tâm hồn mà tôi cho là bị cấm đoạn và là tội ác.”
Trong câu chuyện này, Hermann mô tả nhẹ nhàng và đầy thấu hiểu những cảm xúc của một đứa trẻ 11 tuổi đã trộm một ít quả sung khô trong căn phòng của người cha đáng kính, để cậu có thể sở hữu cái gì đó vốn thuộc về cha. Những cảm xúc tội lỗi, sợ hãi và tuyệt vọng đã giày vò cậu bé trong sự cô đơn. Đến cuối cùng, những cảm xúc ấy được thay thế bằng sự nhục nhã và tủi hổ sâu sắc nhất khi “hành vi sai trái” của cậu bị phát hiện. Chính câu chuyện vô cùng sống động này dẫn chúng ta đến phỏng đoán rằng tình huống này có thật trong tuổi thơ của Hermann. Thật là như vậy, trong nhật kí của người mẹ vào ngày 11 tháng 11 năm 1889 có ghi: “Hermann trộm sung bị phát hiện.”
Từ những ghi chú trong nhật kí của người mẹ và sự trao đổi rộng rãi thư từ giữa cha mẹ và các thành viên trong gia đình – công khai vào năm 1966, chúng ta có thể đoán được con đường đầy đau thương của đứa trẻ bé bỏng Hermann. Như bao đứa trẻ tài năng khác, Hermann cảm thấy khó chịu với cha mẹ của cậu – có lẽ không như bạn nghĩ, nhưng chính là vì nội tâm phong phú, vì tài năng đa dạng của cậu. Thường những tài năng của một đứa trẻ (cảm nhận mãnh liệt, trải nghiệm sâu sắc, trí tò mò, trí thông minh, sự nhanh nhạy và khả năng phản biện) buộc cha mẹ phải đối mặt với những xung đột mà từ lâu họ đã tìm cách tránh né bằng những quy tắc và luật lệ. Những quy tắc này sau đó phải được tháo gỡ vì sự phát triển của của con trẻ. Tất cả điều này có thể dẫn đến một tình huống nghịch lí, khi cha mẹ – những người luôn tự hào về đứa con tài năng của mình, thậm chí ngưỡng mộ nó – bị những dồn nén thôi thúc phủ nhận, kìm hãm, thậm chí là hủy hoại những điều tốt nhất, chân thật nhất của đứa trẻ. Hai quan sát sau đây của mẹ Hermann đã minh hoạ cho cách quá trình hủy hoại này có thể kết hợp với sự quan tâm yêu thương như thế nào:
1. Năm 1881: “Hermann đi học mẫu giáo, tính khí bạo lực của thằng bé khiến chúng tôi vô cùng căng thẳng.” Đứa trẻ lúc này ba tuổi.
2. Năm 1884: “Mọi thứ đang dần ổn hơn với Hermann, việc giáo dục thằng bé khiến chúng tôi đau đầu và gặp nhiều rắc rối. Từ ngày 21 tháng Giêng đến ngày 05 tháng Sáu, thằng bé ở trong khu nội trú dành cho học sinh nam và chỉ ở cùng chúng tôi vào Chủ nhật. Thằng bé ngoan ngoãn ở đó nhưng về nhà trong trạng thái xanh xao, gầy gò và suy sụp. Những ảnh hưởng này chắc chắn là tốt và có ích. Thằng bé giờ đây thật dễ quản lí và biết nghe lời.” Đứa trẻ lúc này bảy tuổi.
Vào ngày 14 tháng 11 năm 1883, Johannes Hesse, cha của Hermann, đã viết:
“Hermann gần như được coi là một hình mẫu cho cách cư xử ngoan ngoãn trong khu nội trú, đôi khi thật khó chấp nhận. Dù điều này với chúng tôi thật nhục nhã [!], tôi đang nghiêm túc xem xét xem chúng tôi có nên đưa thằng bé đến một trung tâm hay một hộ gia đình khác không. Chúng tôi quá lo lắng và bất lực với nó, khu nội trú đó quá vô tổ chức, vô kỉ luật. Thằng bé dường như có tài trong tất cả mọi thứ: nó quan sát Mặt Trăng và đám mây, ngẫu hứng chơi rất lâu với cây đàn harmonium, vẽ những bức tranh tuyệt đẹp bằng bút chì hoặc bút mực, có thể hát khá hay và chưa bao giờ trật nhịp khi nó muốn.”
Trong bức tranh lí tưởng hóa mạnh mẽ về tuổi thơ và cha mẹ của mình mà chúng ta bắt gặp ở cuốn Hermann Lauscher 20, Hermann đã hoàn toàn từ bỏ đứa trẻ nguyên bản, trở nên nổi loạn, “khó trị”, và đối với cha mẹ ông luôn là đứa trẻ rắc rối. Ông không có cách nào sống với phần con người thật này của mình, và do đó buộc phải từ bỏ nó. Có thể đây là lí do tại sao khao khát chân thật và lớn lao muốn tìm lại cái tôi thực sự của Hermann không được thỏa mãn.
Tất nhiên, Hermann Hesse không thiếu lòng can đảm, tài năng hay chiều sâu cảm xúc, điều này rất rõ ràng và khá dễ thấy trong những tác phẩm và nhiều bức thư của ông, đặc biệt là bức thư đầy oán hận từ học viện ở Stetten. Nhưng câu trả lời của người cha cho bức thư này, những ghi chú của người mẹ, và những đoạn văn trích trong hai cuốn Demian và A Child’s Heart đã cho chúng ta thấy rõ sức nặng đè nén của việc phủ nhận những nỗi đau thời thơ ấu trong nội tâm ông như thế nào. Bất chấp sự ca ngợi và thành công to lớn của mình – ông nhận cả giải Nobel, Hermann trong những năm tháng trưởng thành phải chịu đựng những nỗi đau và bi kịch bị chia tách khỏi con người thật của mình, nỗi đau đó được các bác sĩ của ông không ngần ngại gán cho cái tên trầm cảm.
20 “Khi thơ ấu, đôi khi trái tim tôi rung động, những cảm xúc trong tôi như một bức tranh tông trầm, đóng trong khung bằng vàng, ở đó chủ yếu là cây hạt dẻ và cây tống quán sủ, ánh nắng ban mai tươi sáng không gì diễn tả nổi và đằng sau đó là những ngọn núi cao sừng sững nguy nga. Mọi phút giây trong cuộc đời tôi, khi tôi có được chút bình yên và quên đi thực tại; mọi cuộc đi dạo một mình qua dãy núi hùng vĩ; mọi khoảnh khắc hạnh phúc bất chợt, hay tình yêu thương không đi kèm với dục vọng, đã giúp tôi quên đi hôm qua và ngày mai. Không có tên gọi nào chính xác hơn cho tất cả những điều đó quý giá hơn cả bức tranh xanh tươi về cuộc đời mới chớm nở của mình.” (Gesammelte Werke, tập 1, Frankfurt: M. Suhrkamp, 1970).