Ở đây trị liệu có thể giúp gì cho chúng ta? Tôi chắc chắn một điều là, trị liệu không thể cho chúng ta phần tuổi thơ đã mất đi, cũng không thể thay đổi được những sự thật của quá khứ. Không ai có thể chữa lành tổn thương bằng cách duy trì và nuôi dưỡng những mộng tưởng. Nhiều người vẫn đặt hi vọng vào một thiên đường của sự hòa hợp, nhưng điều đó là không thể đạt đến được. Thiên đường của sự hòa hợp luôn ẩn chứa mâu thuẫn. Song ở giai đoạn trưởng thành, trải nghiệm về sự thật của riêng mình và sự nhận thức đằng sau mâu thuẫn sẽ giúp chúng ta quay trở lại với thế giới cảm xúc của bản thân: Không có thiên đường nào cả, mà chỉ có khả năng nhìn ra những điều xót xa. Và thực sự, khả năng này sẽ trả lại cho ta sức sống đích thực.
Chúng ta có thể tiến đến một trong những bước ngoặt của quá trình trị liệu, khi một người nhận ra cảm xúc ẩn sâu bên trong của mình: Rằng tất cả tình yêu thương mà cô phải giành giật, phải đánh đổi bằng rất nhiều nỗ lực và sự tự phủ nhận, tình yêu thương ấy chưa chắc đã dành cho con người mà cô thực-sự-là. Rằng sự ngưỡng mộ sắc đẹp và thành tựu của cô chỉ hướng đến vẻ đẹp và thành tựu đấy, chứ không phải hướng đến bản-thân-cô. Trong quá trình trị liệu, đứa trẻ nhỏ bé và cô đơn ẩn sau lớp vỏ thành công của cô đã tỉnh dậy và hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu con xuất hiện trước mặt mẹ trong vẻ buồn bã, tham lam, tức giận, cáu bẳn? Tình yêu của mẹ có còn dành cho con? Con thực ra là như vậy đấy, buồn bã, tham lam, tức giận, cáu bẳn. Có phải mẹ không thực sự yêu con, mà chỉ yêu những gì con giả vờ không? Một đứa trẻ ngoan ngoãn, đáng tin, biết thấu cảm, thấu hiểu, biết nghe lời và dễ bảo, thực tế ai đã từng là một đứa trẻ vậy? Điều gì đã xảy ra với tuổi thơ của con vậy? Có phải con đã đánh mất nó rồi không? Con không bao giờ có thể quay lại với tuổi thơ của mình. Con chẳng bao giờ bù đắp được cho nó.
Ngay từ đầu con đã là một người trưởng thành trong hình hài con nít. Những khả năng của con có phải đã bị dùng sai chỗ rồi không?”
Những câu hỏi này mang theo nỗi đau đớn và bi thương khôn cùng, nhưng sau nỗi đau luôn là một sức mạnh mới tự hình thành trong chính mình: Đấy là sự cảm thông, từ đấy cảm thấy xót xa với số phận của mình. Giờ đây, bệnh nhân sẽ không xem nhẹ việc bộc lộ bản thân, không thường xuyên cười cợt và khinh bỉ chúng nữa, ngay cả khi cô vẫn vô thức bỏ qua hoặc lờ chúng đi, theo một cách tế nhị giống như cha mẹ đã từng đối xử với cô trước khi cô có thể biểu đạt nhu cầu của mình bằng lời nói. Thậm chí khi lớn lên một chút, cô cũng không được phép nói hoặc nghĩ rằng: “Mình có thể buồn hoặc vui bất cứ khi nào có điều gì đó làm mình buồn hoặc vui. Mình không cần phải tỏ ra vui vẻ với ai đó, và mình không cần dồn nén sự căng thẳng và lo lắng để đáp ứng nhu cầu của ai khác. Mình có thể tức giận, và không ai sẽ chết hay đau đầu vì nó. Mình có thể tức giận khi bạn làm mình tổn thương, mà mình vẫn không đánh mất bạn.”
Đa phần, bệnh nhân sẽ cảm thấy được an ủi khi thấy rằng giờ đây, cô có thể nhận thức và coi trọng những gì cô từng lựa chọn lảng tránh, ngay cả với những tình huống đã liên tục lặp lại trong một thời gian dài. Giờ đây, cô bắt đầu hiểu rằng đối mặt với những nỗi đau là cơ hội duy nhất để cô thực sự sống. Giờ đây, cô có thể nhận ra cách cô thỉnh thoảng vẫn tự thuyết phục mình không sợ hãi trước thực tại. Cô thấy cách cô coi thường cảm xúc của mình để bảo vệ bản thân trước những tổn thương, hoặc thậm chí cô còn không hề nhận thức được vấn đề, hoặc chỉ nhận ra vài ngày sau khi sự việc xảy ra. Dần dần, cô nhận ra cách mà mình buộc phải tìm kiếm sự xao nhãng khi bản thân xúc động, thất vọng hoặc buồn bã. (Chẳng hạn, khi mẹ của một đứa trẻ 6 tuổi mất, người cô đã nói với cậu rằng: “Cháu cần phải mạnh mẽ lên, không được khóc. Giờ hãy về phòng và ngoan ngoãn chơi đi.”)
Khi quá trình trị liệu bắt đầu, nó sẽ tiếp diễn liên tục nếu không bị gián đoạn bởi những diễn giải hoặc các cơ chế phòng vệ của lí trí. Một người đang chịu tổn thương sẽ bắt đầu nói năng trôi chảy và hành xử trái với thái độ phục tùng trước kia của mình. Nhưng vì những trải nghiệm từ nhỏ, nên cô tin rằng mình sẽ phải chịu một mối nguy hiểm chết người: Cô sợ sự từ chối và hình phạt khi cô bảo vệ quyền lợi của mình. Cô sẽ cảm thấy ngạc nhiên trước những cảm xúc mà cô nghĩ rằng thà không biết còn hơn. Nhưng giờ đây đã muộn rồi: Việc nhận thức về những động lực thôi đẩy trong cô đã được khơi dậy, chẳng thể quay đầu lại nữa.
Giờ đây, phần con trẻ từng bị đe doạ và phải im lặng trong cô đã có thể bộc lộ chính nó theo cách cô chưa bao giờ nghĩ mình có thể. Cô cảm thấy nhẹ nhõm vì đã thành thật với chính mình. Cô luôn coi thường sự hà tiện, nhưng đột nhiên nhận ra bản thân đang cầm chiếc điện thoại đếm từng phút từng giây qua đi trong giờ trị liệu. Trước đây, cô chưa bao giờ đòi hỏi và luôn miệt mài đáp ứng nhu cầu của người khác. Bây giờ, cô đột nhiên giận dữ khi nhà trị liệu đi nghỉ dưỡng. Hoặc cô bực mình khi nhìn thấy người khác đang đợi ngoài phòng tư vấn. Điều này có thể là gì? Chắc chắn không phải sự ghen tị. Đấy là một cảm xúc mà cô hay không biết! “Họ đang làm gì ở đây vậy? Có ai khác ngoài tôi đến đây à?” Trước kia cô chưa từng nhận thức được điều này.
Đầu tiên, cô sẽ cảm thấy thật đáng xấu hổ khi biết rằng không phải lúc nào cô cũng tốt đẹp, thấu hiểu, vị tha, tự chủ. Và hơn cả, không phải là cô không có nhu cầu gì. Vì biết tất cả những điều đấy là nền tảng cho sự tự tôn trọng chính mình.
Khi là một người trưởng thành, hẳn bạn có thể từng trải qua những cảm xúc kiểu nước đôi, vừa yêu vừa ghét ai đó. Trong khi đấy, hãy tưởng tượng một đứa trẻ hai tuổi đang được một người hầu bón cho ăn trong bếp và suy nghĩ trong tuyệt vọng rằng: “Tại sao tối nào mẹ cũng ra ngoài nhỉ? Tại sao mẹ không quan tâm đến mình? Mình có vấn đề gì mà mẹ thích đi với người khác hơn vậy? Mình có thể làm gì để mẹ ở nhà? Thôi đừng khóc, đừng có khóc.” Peter lúc hai tuổi đã không thể suy nghĩ như thế này, nhưng trong buổi trị liệu khi anh ấy cảm nhận được thực tế này, anh ấy vừa là người trưởng thành và vừa là một đứa trẻ, và có thể khóc một cách cay đắng. Đấy không phải là giọt nước mắt an ủi, mà là nhận ra nỗi khát khao tình yêu thương của người mẹ khi còn nhỏ, điều anh luôn phủ nhận cho đến lúc này. Vài tuần sau đó, Peter đã trải qua sự giằng xé của phức cảm vừa yêu vừa ghét mẹ mình, mẹ anh ấy là một bác sĩ nhi khoa thành công. Hình tượng người mẹ “băng giá” và lí tưởng trước kia đã tan chảy thành bức tranh về một người phụ nữ không có khả năng mang đến cho con mình một sự kết nối thường xuyên trong mối quan hệ của hai người. “Con ghét những con quái vật luôn đau ốm và luôn cướp mẹ đi khỏi con. Con ghét mẹ vì mẹ muốn ở bên cạnh chúng hơn ở cạnh con.” Cảm giác bất lực đan xen với cơn tức giận bị dồn nén bấy lâu với người mẹ đã không ở đó khi anh ta cần bà nhất. Sau khi nhận ra những cảm xúc này, Peter đã giải trừ được một triệu chứng tâm thần “vừa yêu vừa ghét” đã hành hạ anh từ lâu. Vấn đề bây giờ trở nên quá dễ hiểu. Mối quan hệ của anh với mẹ cũng đã thay đổi: Thôi thúc chinh phục – và sau đấy là bỏ mặc mối quan hệ trong anh cũng biến mất.
Peter cảm nhận những cảm giác bất lực, tức giận của mình, anh thấy mình giống như con rối của người mẹ thường xuyên vắng mặt theo cách mà anh không thể nhớ rõ. Một người chỉ có thể nhớ những gì mình trải qua trong phần ý thức. Tuy nhiên, thế giới cảm xúc của một đứa trẻ chịu đau khổ đã trải qua một quá trình chọn lọc và loại bỏ những yếu tố quan trọng nhất. Trong quá trình trị liệu, anh sẽ ý thức và trải nghiệm được những cảm xúc đầu đời này, cộng thêm nỗi đau không thể hiểu điều gì đang diễn ra – vốn là một phần của giai đoạn đầu thời thơ ấu.
Thật là một phép màu khi mỗi lần nhìn thấy bao nhiêu chân thành và trong sáng đằng sau sự giả dối, phủ nhận, tự cô lập, cũng như cách chúng xuất hiện trở lại khi một người có thể kết nối với những cảm xúc đấy. Song, sẽ không đúng khi nói rằng có một cái tôi thực sự và toàn vẹn bị che giấu một cách có ý thức đằng sau cái tôi giả dối. Vì điểm quan trọng là đứa trẻ không biết mình đang che giấu điều gì. Karl, 42 tuổi, đã chia sẻ với tôi điều này:
“Tôi sống trong một căn nhà kính mà ở đó, mẹ tôi có thể nhìn vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong một căn nhà kính, bạn không thể che giấu bất cứ điều gì mà không vô tình bộc lộ bản thân, trừ khi giấu mình dưới đất. Và như thế thì bạn cũng chẳng thể nhìn thấy bản thân.”
Một người trưởng thành chỉ có thể nhận thức rõ ràng những cảm xúc của mình khi anh ta có cha mẹ hoặc ai đó quan tâm đến. Những người bị lạm dụng hoặc bị bỏ rơi khi còn nhỏ sẽ thiếu đi khả năng nhận thức rõ ràng này, do đó dường như họ không thể nào chấp nhận những cảm xúc không mong đợi. Họ sẽ chỉ thừa nhận những cảm xúc được “giám sát viên” bên trong mình chấp nhận và ủng hộ, thứ vốn là di sản của cha mẹ họ. Trầm cảm và cảm giác trống rỗng bên trong là cái giá họ phải trả cho sự kiểm soát này. Cái tôi thật sự của họ không thể bộc lộ ra ngoài vì nó vẫn còn ở trạng thái vô thức, chưa được phát triển, nó vẫn ở căn ngục bên trong họ. Những “người quản ngục” thì không đặc biệt khuyến khích sự trưởng thành. Chỉ sau khi đã phóng thích, thì cái tôi mới bắt đầu hoạt động, mới lớn lên và phát triển tính sáng tạo của mình. Ở nơi từng chỉ có sự trống rỗng đáng sợ hoặc những mộng tưởng hão huyền không kém, giờ đây bệnh nhân đã khám phá ra một nguồn sinh khí dồi dào bất ngờ. Đây không phải là cảm giác “về nhà”, vì trước đây căn nhà này chưa từng tồn tại. Đây là sự tạo dựng một căn nhà đích thật.