- Tiến sĩ Clancy D. McKenxie -
- Tiến sĩ Lance S. Wright -
Vào tháng 11 năm 1970, chúng tôi26, 27 tham dự một lớp học kiểm soát tâm trí theo phương pháp Silva ở Philadelphia vì sự tò mò về một số tuyên bố của họ. Theo tiến trình khóa học, chúng tôi nhận thấy ở đây có ba người chắc chắn bị rối loạn cảm xúc và một người không mấy ổn định tinh thần. Vậy nguyên nhân là gì? Liệu khóa học có gây ra các chứng bệnh tâm lí? Trước khi đến đây họ có bị thế không? Hay những người có vấn đề về tâm thần từ trước đã bị khóa học này thu hút?
26 Clancy D. McKenzie: Tiến sĩ Y khoa, Giám đốc Dịch vụ Tư vấn Tâm thần Philadelphia, bác sĩ trị liệu tinh thần của Trung tâm Tâm thần Philadelphia.
27 Lance S. Wright: Yiến sĩ Y khoa, bác sĩ trị liệu cấp cao thuộc Phân viện Tâm thần của Bệnh viện Pennsylvania, phó giáo sư tâm thần học trẻ em thuộc trường Cao đẳng Y tế Hahnemann.
Chúng tôi đã thảo luận về các khả năng với các đồng nghiệp của mình và nhiều người trong số họ suy đoán rằng khóa học có thể gây rối loạn tâm thần cấp tính ở những người có tâm lí không ổn định. Điều này nghe có vẻ hợp lí. Người ta thường chấp nhận rằng bất cứ điều gì tạo điều kiện hồi quy có thể dẫn đến rối loạn tâm thần cấp tính ở một người có tinh thần không ổn định. Sự mất cảm giác và ma túy gây ảo giác có thể dẫn đến các hành vi giống như loạn thần, thậm chí các kĩ thuật như phản hồi sinh học và thôi miên cũng có thể làm biến đổi tâm thần. Hầu hết các nhà phân tâm học không khuyến khích dùng liệu pháp phân tâm cho bệnh nhân loạn thần vì nó tạo ra sự quy hồi quá xa. Vẫn chưa xác định được rủi ro này lớn đến mức nào, nhưng đã có tuyên bố rằng tất cả các liệu trình này đều dẫn đến chứng loạn thần.
Năm 1972, hai nghìn học sinh của một trường trung học ở Philadelphia đã trải qua khóa đào tạo phương pháp kiểm soát tâm trí Silva (SMC) mà không xuất hiện ca tâm thần nào, theo lời một người có trách nhiệm của trường này. Việc này cũng khơi dậy sự tò mò của chúng tôi. Bởi vì với các thanh thiếu niên đang trong trạng thái bất ổn về cái tôi, thì tin đồn rằng khóa học gây nguy hiểm cho những người tâm thần không ổn định thường khiến họ lo sợ. Chúng tôi bị đặt vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan phức tạp. Chúng tôi đã thấy 3 người có tâm thần bất ổn trong một nhóm 30 người và không biết họ trở nên tốt hơn hay tệ đi. Một vài thành viên của cộng đồng khoa học đã tuyên bố có số lượng lớn người trở nên loạn thần. Nghiên cứu ở trường trung học chỉ ra rằng điều đó không đúng.
Trên thực tế, một số bệnh nhân của chúng tôi, thậm chí là những người bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng, đã tham gia khóa học và có vẻ được hưởng lợi đáng kể từ nó. Các tài liệu liên quan cũng chỉ đưa ra các ý kiến, không có công trình nghiên cứu thực tế.
Rõ ràng, cách duy nhất để tiếp tục là đánh giá và khảo sát các cá nhân trước và sau khóa huấn luyện. Trong 4 năm tiếp theo, 189 bệnh nhân tâm thần của chúng tôi tự nguyện tham gia khóa đào tạo kiểm soát tâm trí Silva trong quá trình trị liệu. Đặc biệt phải kể đến một nhóm 75 bệnh nhân trước khi tham gia khóa học đã được chẩn đoán là rối loạn tâm thần, rối loạn tâm thần ranh giới, hoặc rối loạn tâm thần đang thuyên giảm. Những người này chúng tôi gọi là nhóm bị rối loạn nghiêm trọng. Có 60 người trong số họ đã từng bị tâm thần đến mức phải nhập viện.
Nhóm 75 người này bao gồm 66 người được phát hiện theo phương pháp McKenzie và 9 bệnh nhân được tìm thấy bằng phương pháp của Wright trong vòng bốn năm, và họ đã đồng ý tham gia khóa học SMC. Có 7 bệnh nhân bị rối loạn nghiêm trọng từ chối tham dự, ngay cả khi khóa học được cung cấp miễn phí. Họ không bị rối loạn nhiều hơn những người đã tham dự. Những người tham dự lại là những người bất ổn nhất, những người từ chối đơn giản là họ có xu hướng cứng nhắc hơn và thiếu linh hoạt trong suy nghĩ. Có lẽ họ không đại diện cho những người có thể gặp khó khăn trong khóa học, bởi vì ngay từ đầu họ đã quyết định không tham gia khóa học rồi.
Ban đầu, từng bệnh nhân một trong nhóm rối loạn tâm thần nghiêm trọng tham gia khóa học. Chúng tôi cần hết sức thận trọng để có được kết quả chính xác nhất. Trong phần đầu của nghiên cứu, các bệnh nhân được gửi đến khóa học trong thời gian bệnh tình của họ đang thuyên giảm. Tuy nhiên sau đó, theo tiến trình nghiên cứu, các bệnh nhân tham gia cả trong thời kì tình trạng tinh thần kém ổn định hơn. Và tới giai đoạn cuối của lộ trình bốn năm, 17 người được gửi đi khi họ đang bị rối loạn tâm thần và ảo tưởng, và đôi khi có 10 người trở lên đã trải qua khóa học cùng lúc.
Ngoài việc điều trị tâm thần và đánh giá liên tục, 58 trong số 75 người được kiểm tra bằng bảng đánh giá trải nghiệm toàn cầu (EWI) trước và sau khóa học. EWI là một bảng 400 câu hỏi được thiết kế để đánh giá nhận thức thực tế. Tiến sĩ El-Meligi và Osmond, tác giả của bảng câu hỏi này, đã cố gắng đưa bài trắc nghiệm Rorschach vào dưới dạng hỏi và trả lời, cuối cùng có được một bài kiểm tra độ nhạy cảm cho người mấp mé bị tâm thần.
Mục đích chính của nghiên cứu là tìm ra những bệnh nhân nào có thể bị rối loạn hơn do khóa huấn luyện. Phải nói rằng kết quả là đáng ngạc nhiên vì chỉ có 1 bệnh nhân trở nên rối loạn hơn đáng kể sau khóa học.
Anh ta là một bệnh nhân tâm thần phân liệt thể căng trương lực28 (29 tuổi). Hai tuần sau khóa học, bệnh nhân này đã bị suy sụp khi anh ấy ngừng uống thuốc và bắt đầu hẹn hò lần đầu tiên trong đời. Anh ấy cũng là bệnh nhân duy nhất có điểm EWI thấp hơn đáng kể sau khóa học. Anh ta không yêu cầu nhập viện.
28 Là một rối loạn tâm thần ảnh hưởng đến khả năng phản ứng của một người, thường là trong trạng thái sững sờ, người bệnh không thể di chuyển, nói chuyện hoặc phản ứng với kích thích.
Hai bệnh nhân khác, một người từng bị loạn thần trầm cảm và một người mắc chứng trầm cảm thoái triển, được ghi nhận là gia tăng trầm cảm sau khóa học, có lẽ ngược với cảm giác của họ trong quá trình huấn luyện. Cảm giác phấn chấn trong suốt khóa học tương phản rõ rệt với trạng thái trầm cảm của họ, và trải nghiệm đó giống như là chứng đau đầu kinh niên của một người biến mất. Nếu chứng đau đầu quay trở lại, nó khiến người bệnh dễ nản chí hơn. Tuy nhiên, hai bệnh nhân này đạt điểm EWI cao hơn sau khóa học, và họ có thể sử dụng những kĩ thuật được đào tạo. Bệnh nhân trầm cảm thoái triển có thể sử dụng chương trình kiểm soát tâm trí vào cuối tuần, và cảm thấy ít lo lắng hơn trong công việc. Người có tiền sử trầm cảm loạn thần có thể làm những việc mà trước đây cô ấy không thể xử lí được.
26 bệnh nhân trầm cảm khác, bao gồm trầm cảm thoái triển, loạn thần, tâm thần phân liệt và hưng trầm cảm các loại, đã bớt chán nản hơn nhiều sau khóa học và không có ghi nhận về tác hại.
Một người phụ nữ có cảm giác buồn chán đột ngột vào một trong những lần thư giãn. Một người đàn ông, không có trong nhóm 75 người, bỏ học sau ngày thứ hai vì anh ấy hồi tưởng những trải nghiệm đau đớn sau chiến tranh tại Việt Nam. Tình trạng của anh ấy không được cho là tồi tệ hơn so với khi anh ấy bắt đầu, nhưng anh ấy đã không quay lại để đánh giá thêm. Để thấy, sự thư giãn làm gợi lại cảm xúc. Thông thường, tâm trạng chung của nhóm là phấn chấn và tập trung vào những điều tích cực, cảm xúc là sự ấm áp và tình yêu, nhưng thỉnh thoảng, điều người ta gợi lên lại là nỗi buồn và những kỉ niệm không vui.
Một bệnh nhân khác nữa (không thuộc nhóm bị rối loạn nặng) sợ những điều phải làm vào ngày cuối cùng của khóa học. Sau một giấc mơ tồi tệ anh ấy đã không đến lớp vào ngày cuối cùng.
Một người đàn ông tâm thần phân liệt hoang tưởng, 30 tuổi, trở nên đầy phấn khích, bị đẩy đến gần chứng rối loạn tâm thần theo chu kì sau khóa học. Anh ấy thử các kĩ thuật kiểm soát tâm trí khác nhau để xác định những gì cần làm trong phần còn lại của cuộc đời mình, và dành nhiều giờ kiểm tra các khả năng tự lập trình những giấc mơ. Đây được coi là sự gia tăng của khả năng phòng thủ cưỡng bức. Tuy nhiên, nhờ hoạt động tâm trí được tăng cường nên anh ấy đã có thể quay lại trường học để lấy bằng tiến sĩ. Anh cũng có thể thảo luận về những điều hoang tưởng mà anh ấy đã từng trải qua vài năm trước, khi anh ta nghĩ rằng bằng thần giao cách cảm, mình được trao nhiệm vụ giết một ai đó. Nếu anh ấy không tham gia khóa học, bí mật này có thể không bao giờ được đưa ra thảo luận và giải quyết.
So với mức tác động tiêu cực tương đối ít và nhỏ của khóa học thì những ảnh hưởng và kết quả tích cực sẽ cần đến cả một cuốn sách để mô tả. Kết quả nhất quán là điều mà chúng tôi không tìm kiếm và không kì vọng: Trong mọi trường hợp đều có sự gia tăng trong nhận thức thực tế. Trong số 58 người kiểm tra EWI, một người có kết quả xấu hơn với mức đáng kể, 21 người giữ nguyên và 36 người có sự gia tăng ấn tượng trong nhận thức thực tế. Trong số 21 người vẫn giữ nguyên kết quả, 15 người có điểm thay đổi theo hướng lành mạnh.
Điểm trung bình của 20 phụ nữ đầu tiên tham gia khóa học đã được gửi đến Tiến sĩ El-Meligi, đồng tác giả của bảng câu hỏi EWI. Ông đánh giá cao những thay đổi ngoạn mục đã diễn ra sau khóa huấn luyện kiểm soát tâm trí Silva. Ông nói rằng, trong một số mục điểm số trước và sau giống như của một người ở trong và sau một “chuyến đi LSD29” tồi tệ (xem biểu đồ A và B). Ở mỗi hạng mục trong số mười một hạng mục đều có sự cải thiện nhất quán. Điểm số cá nhân gây ấn tượng hơn (biểu đồ E, F và G). Điểm tổng hợp của 50% nam giới và phụ nữ cải thiện nhiều nhất được chỉ ra trong biểu đồ C và D. Người ta cho rằng không có liệu pháp trị liệu tâm lí thông thường nào có thể tạo ra nhiều thay đổi như vậy chỉ trong một tuần. Thực tế, các liệu pháp có thể cần đến vài tháng hoặc vài năm thực hành mới có hiệu quả.
Điểm số của một người phụ nữ mắc chứng hoang tưởng thoái triển đã thay đổi sau khóa học 1 tuần, sự thay đổi tương đương với kết quả có được từ quá trình điều trị 11 lần sốc điện và 12 tuần nhập viện. Sau khóa học 1 tuần, cô ấy đã có thể để tự mình lên xe buýt lần đầu tiên sau 4 năm.
29 Một loại thuốc gây ảo giác
Một phụ nữ khác, bị tâm thần phân liệt hoang tưởng và ảo giác cấp tính, tiếp tục duy trì một số ý nghĩ hoang tưởng của cô ấy sau khóa học, nhưng đã có thể lặp đi lặp lại “cấp độ kiểm soát tâm trí” để kiểm tra những suy nghĩ này, và mỗi lần đều đi đến ý tưởng rõ ràng, hợp lí.
Một phụ nữ khác trong trạng thái tâm thần phân liệt không biệt hóa cấp tính, cô quá lo lắng để có thể trả lời bảng hỏi EWI. Cô được lựa chọn giữa điều trị sốc điện và kiểm soát tâm trí. Vào cuối khóa học, có sự cải thiện về mặt lâm sàng và cô ấy không chỉ có thể điền vào EWI mà còn đạt điểm khá cao.
Thêm một người khác, một người phụ nữ mắc chứng rối loạn lo âu về bệnh tật với tiền sử 20 lần phẫu thuật, và chuẩn bị có một cuộc phẫu thuật khác. Trong khi các chuyên gia nội khoa vẫn đang kiểm tra tim và thận, cô ấy sử dụng kĩ thuật kiểm soát tâm trí để lập trình một giấc mơ, trong đó chẩn đoán cô bị tắc ruột ở hồi manh tràng. Cũng trong giấc mơ đó, cô ấy phát hiện rằng chính cô ấy đã tạo ra vật gây tắc và bằng cách nào, tại sao. Kĩ thuật kiểm soát tâm trí cho phép cô ấy đột ngột giải thông chỗ tắc bằng một cách không thể lí giải nổi. Một giờ sau, điều cô chẩn đoán đã được bệnh viện phẫu thuật cho cô xác nhận. Vị trí của vật gây tắc là chính xác như trong hồ sơ của cuộc phẫu thuật trước đó.
Một phụ nữ khác, 21 tuổi, là người rất mất tập trung, luôn muốn tự sát và đang trong giai đoạn đầu của bệnh rối loạn tâm thần cấp tính. Bệnh nhân đảm bảo với chúng tôi rằng, chúng tôi không thể làm gì để giúp cho cô, và có lẽ cô ấy sẽ tự sát. Chúng tôi đã gửi cô ấy đến khóa học kiểm soát tâm trí và giám sát cẩn thận. Điều vô cùng ngạc nhiên là cô ấy trở nên bình tĩnh đáng kể, có lí trí hơn, các suy nghĩ của cô ấy không còn chạy theo mọi hướng, lan man, không hồi kết. Cô ấy bớt bi quan hơn. Nhập viện điều trị và những liều thuốc mạnh không thể giúp cô ấy bình tĩnh hơn. Cô ấy lặp lại liệu trình kiểm soát tâm trí hai tuần sau đó và một lần nữa cho thấy những cải thiện. Cô ấy thay đổi đáng kể theo hướng tốt hơn.
Tuy nhiên, một người bị chứng ảo tưởng nặng khác, người này nghĩ rằng anh ta có thể thu nhỏ người khác. Anh tham gia khóa học trong khi nằm viện và trở lại bệnh viện mỗi ngày. Mặc dù vẫn tiếp tục nghĩ mình có thể thu nhỏ mọi người, anh ấy đã bình tĩnh hơn, ảnh hưởng xấu do bệnh tật đã được cải thiện, các phần khác của hệ thống ảo tưởng đang mờ dần và anh ta không còn dành hàng giờ để nghiền ngẫm về ý nghĩa của những câu chuyện ngụ ngôn đơn giản. Anh ấy tham gia khóa học ở tuần thứ sáu nằm viện và đã có những thay đổi rõ rệt so với năm tuần trước. (Xem biểu đồ E).
Một người phụ nữ hoang tưởng vô cớ đã trở lại bình thường sau khóa học. Một số người khác đã hiểu rõ hơn về bệnh tật của họ nhờ một vài phần của khóa học.
Về mặt lâm sàng, toàn bộ nhóm rối loạn tâm thần nghiêm trọng đã cho thấy sự thay đổi ấn tượng. Chỉ có một người trở nên khó chịu hơn. Những người còn lại đều hưởng lợi ở một mức độ nào đó từ khóa học. Năng lượng cảm xúc tăng lên và những ảnh hưởng tiêu cực do bệnh tật gây ra cũng dần biến mất. Ở nhiều người, ảnh hưởng của bệnh tật tuy không thay đổi nhưng họ đã bắt đầu thể hiện sự nhiệt tình. Họ có một cái nhìn tích cực hơn về tương lai của mình. Một số người hiểu rõ hơn về quá trình loạn thần của mình. Ngay cả một số người ảo tưởng cũng có thể đánh giá các ý tưởng của họ ở “cấp độ kiểm soát tâm trí”, đi đến sự rõ ràng và hiểu biết về chúng.
Mọi người thư thái hơn và giảm bớt lo lắng. Bệnh nhân học cách dựa vào sức mạnh bên trong họ để hiểu, đối phó và giải quyết các vấn đề. Điều này cũng giúp họ tự tin hơn.
Một số bệnh nhân từng bị rối loạn tâm thần đã nhận ra rằng bệnh tật của họ đã tăng cường hoạt động của họ trong một trạng thái ý thức bị thay đổi. Đây là nguyên nhân khiến bệnh bệnh tật kéo dài và ảnh hưởng xấu tới cuộc sống của họ.
Các bệnh nhân loạn thần kinh (114 người) không bộc lộ tác dụng tiêu cực ở mức độ lâm sàng. 6 người trong số họ đã làm bài kiểm tra EWI. Điểm số của những người này được cải thiện, nhưng không nhiều bằng nhóm bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng, vì điểm số đầu tiên của họ đã gần với mức lành mạnh nhất trên thang đo. Luôn luôn có những bệnh nhân rối loạn thần kinh dường như có những thay đổi tích cực từ huấn luyện SMC. Những người tiếp tục thực hành các kĩ thuật sau khi đào tạo có thể thay đổi cuộc sống của họ rất nhiều, và ngay cả những người không luyện tập kĩ thuật này đều đặn cũng có thể sử dụng chúng trong những lúc gặp khủng hoảng, khi họ phải đương đầu với thử thách hoặc cần đưa ra quyết định. Đối với họ, kiểm soát tâm trí dường như là một trải nghiệm mở mang trí óc, cho thấy rằng họ có thể sử dụng trí óc của mình theo những cách mới. Sự nhiệt tình của nhóm càng về cuối khóa học càng tăng cao, và hầu hết mọi người đều trải nghiệm mức cảm xúc tích cực hơn.
Nhìn chung, cả nhóm rối loạn thần kinh và rối loạn tâm thần đều cải thiện sau khóa học, như đã được chứng minh qua kiểm tra tâm lí và được xác định lâm sàng. Chỉ 1 trong số 189 bệnh nhân trở nên khó chịu hơn.
Dữ liệu từ bất kì nghiên cứu nào đều phải được đánh giá dựa trên tất cả các điều kiện hiện tại, các thử nghiệm, các tiêu chí và sự cẩn trọng trong quá trình nghiên cứu. Do đó, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra tất cả các yếu tố mà chúng tôi nhận định rằng chúng có thể ảnh hưởng đến kết quả.
Từ quan điểm của một nhà nghiên cứu, chúng tôi muốn biết việc huấn luyện có ảnh hưởng gì đến những cá nhân bị rối loạn tâm thần. Với tư cách là bác sĩ, chúng tôi muốn tất cả bệnh nhân của chúng tôi khỏe mạnh. Điều này chắc chắn có một số ảnh hưởng đến các kết quả, vì chúng cho thấy điều này. Chúng tôi tin rằng sự lạc quan của chúng tôi đã được truyền tải bằng một cách nào đấy, đây là một phần không thể thiếu trong liệu pháp trị liệu hằng ngày của chúng tôi.
Ban đầu, với một số bệnh nhân rối loạn tâm thần, chúng tôi chờ đợi cho đến khi bệnh tật của họ ổn định rồi mới gửi họ đến khóa học, nhưng về sau thì các bệnh nhân đã được gửi đi ngay cả trong trạng thái loạn thần.
EWI được cho là một chỉ số nhạy cảm về nhận thức thực tế, và chúng tôi thấy rằng điểm số khớp với các kết quả lâm sàng. Tiến sĩ El-Meligi xác nhận rằng các quan sát lâm sàng của chúng tôi phù hợp với những thay đổi được phản ánh theo thang đo EWI. Bệnh nhân duy nhất trở nên rối loạn hơn đáng kể là người duy nhất có điểm số trở nên tệ hơn. Những người có điểm số cải thiện đáng kể cũng liên tục cho thấy sự cải thiện đáng kể về mặt lâm sàng.
Các tác giả của EWI tin rằng bài trắc nghiệm có thể thực hiện lặp lại nhiều lần. Ban đầu chúng tôi không kiểm tra xem liệu có bất kì thay đổi điểm số nào liên quan đến việc lặp lại bài trắc nghiệm hay không. Chúng tôi đã cố gắng cho họ thực hiện bài trắc nghiệm trước và sau khóa đào tạo, nhưng điều này không phải lúc nào cũng hoàn chỉnh. Gần đây hơn, trong 7 trường hợp bài trắc nghiệm được thực hiện 2 lần vào tuần trước và một lần vào tuần sau khóa học, để xác định xem có bất kì yếu tố lặp lại nào không.
Tỉ lệ câu trả lời “sai” trong ba bài trắc nghiệm là 100:92:65. Do đó, sự khác biệt giữa hai bài trắc nghiệm đầu tiên là không đáng kể khi so với sự thay đổi sau SMC.
Đối trọng với bất kì yếu tố lặp lại nào là thực tế rằng có rất nhiều câu trả lời được mong đợi là điểm cộng sau khóa học, nhưng không nhất thiết trước khóa học là điểm trừ. Ví dụ, hai trong số các câu hỏi là “Bạn có thể đọc tâm trí người khác không?” và “Bạn có trải nghiệm tôn giáo nào gần đây không?” Câu trả lời có cho mỗi câu đó nhận một điểm trừ. Khóa học dạy mọi người hoạt động tâm lí, hầu hết mọi người được thuyết phục rằng họ trải nghiệm ESP (ngoại cảm). Đối với một số người thì trải nghiệm này gần như là một trải nghiệm tôn giáo. Cho nên chúng tôi đã đoán trước một kết quả tệ hơn sau khóa học chứ không phải là tốt hơn.
Nói tóm lại về độ tin cậy của EWI, yếu tố lặp lại có vai trò không đáng kể và được cân bằng bởi một yếu tố khác làm giảm điểm số. Bài trắc nghiệm được cho là nhạy cảm và đáng tin cậy, và kết quả tương ứng với đánh giá lâm sàng cũng như cảm quan của bệnh nhân.
Đối với mục đích của nghiên cứu, chúng tôi quyết định bất kì trường hợp nào bị rối loạn tâm thần trong khoảng thời gian ba tuần sau khóa học sẽ được coi là tai nạn, cho dù có hoặc không các yếu tố khác góp phần gây ra bệnh.
Với bất kì nhóm nào gồm 75 bệnh nhân rối loạn tâm thần nghiêm trọng được theo dõi trong khoảng thời gian ba tuần, chúng tôi có thể đoán rằng sẽ có ít nhất một người sẽ bị rối loạn hơn nữa. Điều này có thể xảy ra ngay cả khi họ đang được trị liệu và không tiếp xúc với trải nghiệm thoái lui (hồi quy). Thực tế là, tất cả các bệnh nhân đang được điều trị trong thời gian nghiên cứu, và đôi khi đã được định hướng và trấn an, chắc chắn là việc này đã hỗ trợ và có thể ngăn ngừa việc phát bệnh. Nhưng chúng tôi tin rằng liệu pháp hỗ trợ này không thể tự nó giải thích những thay đổi tích cực đáng kể đã diễn ra.
Kinh nghiệm của chúng tôi là bệnh rối loạn tâm thần cấp tính có nguồn gốc từ khá sớm do mối quan hệ bệnh lí giữa mẹ và trẻ sơ sinh trong hai năm đầu đời, và thường được củng cố bởi chấn thương sau đó. Khuynh hướng này đòi hỏi một yếu tố thúc đẩy trong hoàn cảnh sống hiện tại của người bệnh để dẫn đến quá trình hồi quy và trải nghiệm lại cảm giác và thực tế của quá khứ đã lùi xa. Thường thì yếu tố thúc đẩy là do bị cự tuyệt một cách phũ phàng hoặc bị chia li khỏi một người quan trọng. Nguyên nhân thường xuất hiện vào thời ấu thơ. Yếu tố thúc đẩy là ở thời hiện tại. Ngoài ra, còn có thể có cơ chế tạo điều kiện, chẳng hạn như ma túy gây ảo giác, mối quan hệ với gia đình nuôi nấng lúc nhỏ và các hoạt động khác buộc con người phải đối mặt với quá khứ. Do đó chúng tôi phân biệt trong số (1) nguồn gốc hoặc bẩm chất, (2) yếu tố thúc đẩy, và (3) cơ chế tạo điều kiện. Giống như hầu hết các quá trình phát triển tự nhiên, rối loạn tâm thần có nguồn gốc, có cơ chế kích hoạt và cơ chế tạo điều kiện.
Tất cả các bệnh nhân rối loạn tâm thần mà chúng tôi đã điều trị đều mắc bệnh do bị cự tuyệt, chia ly, mất mát, bị đe dọa (thực hoặc tưởng tượng), không còn được người khác chú ý, v.v. Điều này gây ra nỗi sợ hãi vô thức về việc bị bỏ rơi. Trong số vài trăm bệnh nhân rối loạn tâm thần, tất cả đều từng trải qua một mức độ tương đối của sự mất mát hoặc chia cắt, ngay cả khi điều này chỉ được ngụ ý. Bệnh nhân 29 tuổi mắc chứng căng trương lực (catatonic) nói trên, người đã trở nên tồi tệ hơn trong quá trình nghiên cứu, từng xung đột với mẹ mình, người mà anh ấy nghĩ là sẽ phản đối việc hẹn hò của anh ấy. Điều này có vai trò như một yếu tố thúc đẩy, khiến anh ta hồi tưởng lại chuyện xảy ra lúc anh mới 1 tuổi. Lúc đó, người thanh niên này nhận thức sự cự tuyệt của mẹ mình như là bà đã bỏ rơi anh và cái chết sắp xảy ra với anh ta.
Nếu khóa học kiểm soát tâm trí Silva tạo ra chứng rối loạn tâm thần ở một cá nhân thì nó sẽ hoạt động như một cơ chế hỗ trợ, tạo điều kiện. Cơ chế này sẽ phải được kết hợp với yếu tố thúc đẩy có sẵn ở một người dễ bị tổn thương. Chúng tôi không nhớ ra bất kì bệnh nhân nào có quá trình rối loạn tâm thần được tạo ra chỉ bằng cơ chế tạo điều kiện. Mặc dù chúng tôi không nghi ngờ rằng điều này là có thể, những nó chắc chắn là tương đối hiếm.
*
Phương pháp kiểm soát tâm trí Silva là gì?
Kiểm soát tâm trí Silva là một khóa học kéo dài 40 giờ bao gồm 30 giờ giảng và 10 giờ luyện tập tinh thần. Các bài luyện tập không chỉ dạy mọi người cách thư giãn tâm trí và cơ thể, cũng như các phương pháp tiếp cận khác như phản hồi sinh học và thiền siêu việt (TM), mà còn đi một bước xa hơn. Họ dạy mọi người cách hoạt động tâm trí trong lúc thư thả.
Toàn bộ khóa học bao gồm các kĩ thuật sử dụng tâm trí theo những cách có lợi cho người học. Sau khi tự mình trải nghiệm điều này và chứng kiến nhiều người khác sử dụng nó, chúng tôi không nghi ngờ gì về khả năng hoạt động vượt trội của tâm trí khi người ta sử dụng các kĩ thuật cụ thể trong trạng thái hoàn toàn tỉnh táo.
Nó tương tự như trạng thái mà Sigmund Freud đã mô tả trong bản thảo của ông về việc lắng nghe, như trạng thái mà Brahms đã đi vào tạo ra các tác phẩm của mình, hay trạng thái mà Thomas Edison đã mô tả khi khám phá ra những ý tưởng mới.
Khóa học dạy một phương pháp nhanh chóng, dễ dàng để đi đến mức độ thư giãn bất cứ lúc nào. Học viên thực hành hình dung, tưởng tượng và suy nghĩ ở cấp độ ý thức của mình, cho đến khi họ học được cách kiểm soát tâm trí. Họ nắm bắt và sự dụng tâm trí một cách có ý thức trên một phạm vi hoạt động rộng hơn của não bộ. Họ có một phạm vi mở rộng của ý thức. Thay vì chỉ mơ mộng khi thư giãn, họ có thể sử dụng trí óc của mình hiệu quả ở cấp độ này.
Thay vì chìm trong giấc ngủ nhẹ, họ có thể có nhận thức và sử dụng tâm trí ở cấp độ này. Thay vì chỉ mơ vào ban đêm, họ có thể sử dụng trạng thái giấc mơ để giải quyết vấn đề và tìm ra câu trả lời bất cứ lúc nào.
Khi con người học cách hoạt động tâm trí và cơ thể ở tầng sâu hơn của trạng thái thư giãn, khả năng sáng tạo được nâng cao. Trí nhớ được cải thiện và mọi người có khả năng tốt hơn để giải quyết vấn đề. Từ trạng thái đã thay đổi, họ có thể hướng tâm trí đến những điều họ mong muốn, và do đó việc kiểm soát những thói quen như hút thuốc trở nên dễ dàng hơn.
Việc tiếp tục luyện tập ở cấp độ thư giãn cũng có tác dụng lên quá trình suy nghĩ trong cuộc sống hằng ngày, tức là, mọi người có quyền đạt đến “cấp độ” của minhf mà không cần ở đó, giống như một nhạc sĩ không còn phải tập trung vào âm nhạc để biết một nốt nhạc sai hay không.
Trí óc có những khả năng tuyệt vời, nhưng ở cấp độ hoạt động bình thường, nó liên tục bị tấn công bởi nhiều kích thích cùng một lúc: ý nghĩ, mong ước, nhu cầu, khao khát, tiếng động, ánh sáng, áp lực, xung đột, căng thẳng đủ loại. Nó không được tự do. Nó khó lòng tập trung đến bất kì điều gì. Tuy nhiên, tâm trí óc có thể làm được điều này khi ở trong trạng thái buông lỏng, thư giãn, bớt căng thẳng. Nhưng mọi người thường ở trạng thái này, hay gọi là cấp độ, chỉ khi đang ngủ. Họ họ chưa bao giờ thực hành sử dụng tâm trí trong trạng thái đó. Thông thường họ thậm chí không biết rằng nó đang hoạt động và có thể sử dụng.
Nhưng khi một người đã trải nghiệm kết quả thu được từ cấp độ này của ý thức, anh ta sẽ không bao giờ cố gắng đưa ra một quyết định quan trọng hoặc giải quyết một vấn đề mà không sử dụng nó.
Mục tiêu quan trọng nhất của khóa học này dạy một người sử dụng cấp độ “thư giãn” của tâm trí. Ngoài việc dạy mọi người suy nghĩ trong khi ở trạng thái thư giãn, khóa học dạy các kĩ thuật đặc biệt để kiểm soát thói quen, giải quyết vấn đề, đạt được mục tiêu, ghi nhớ, chăm sóc sức khỏe, kiểm soát cơn đau, giấc ngủ và kiểm soát giấc mơ, v.v.
Kiểm soát tâm trí không phải là thôi miên, nó gần như là tiếp cận tự thôi miên. Mọi người nên học cách chú ý đầy đủ hơn đến tâm trí, bởi vì trong trạng thái thư giãn, nó không còn bị bắn phá bởi nhiều kích thích bên ngoài. Với sự chú ý đầy đủ hơn, mọi người có khả năng hướng tâm trí đến việc làm những điều tốt đẹp hơn mà mình muốn.
Một phần lớn khác của khóa học là học lặp lại những cụm từ có lợi cho bản thân khi ở cấp độ thư giãn tâm trí.
Điều này được cho là có tác dụng mạnh mẽ. Suy nghĩ tích cực luôn có giá trị, nhưng suy nghĩ tích cực trong trạng thái thoải mái còn hơn thế nữa.
Phần cuối cùng của khóa học liên quan đến cận tâm lí học. Hầu như tất cả những người tham gia đều có trải nghiệm ESP (ngoại cảm) trong khóa học. Điều này phổ biến đến mức tổ chức Mind Control đảm bảo hoàn lại toàn bộ tiền nếu học viên không cảm thấy họ đã có trải nghiệm thấu thị vào ngày cuối cùng.
*
Tại sao kiểm soát tâm trí lại có ích cho các bệnh nhân tâm thần?
Giai đoạn đầu nghiên cứu, chúng tôi đã ngừng suy đoán tại sao khóa kiểm soát tâm trí có thể gây hại cho bệnh nhân tâm thần và chúng tôi chuyển sự chú ý đến lí do tại sao nó lại giúp ích. Chúng tôi không biết tất cả câu trả lời, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đang ở trong một vị trí tốt hơn để suy đoán so với những người chưa đánh giá cẩn thận bệnh nhân trước và sau khóa đào tạo.
Việc huy động năng lượng có thể là một yếu tố quan trọng. Freud đã nói, trong cuốn sách Analysis Terminable and Interminable (tạm dịch: Nghiên cứu Kết thúc và Vô tận), rằnghiệu quả của một liệu pháp trong tương lai có lẽ phụ thuộc chủ yếu vào việc huy động năng lượng. Mọi người được nạp năng lượng rất cao vào cuối khóa học kiểm soát tâm trí.
Thái độ tích cực và sự lạc quan được tạo ra trong khóa học tất nhiên phải có tác dụng có lợi cho bệnh nhân. Có lẽ việc tự nhủ bản thân bằng những cụm từ có lợi khi ở trạng thái thư giãn sẽ giúp lập trình hiệu quả tâm trí theo cách vượt ra ngoài những suy nghĩ tích cực đơn giản.
Thư giãn làm giảm lo lắng và do đó giảm các triệu chứng. Một người không thể vừa ở trong trạng thái tâm trí và cơ thể thư giãn, đồng thời vừa cực kì lo lắng hoặc mâu thuẫn. Hoạt động ở cấp độ thư giãn được cho là tạo ra cùng một hiệu ứng thư giãn trong suốt cả ngày.
Tâm trạng của nhóm kiểm soát tâm trí rất tốt, và mọi người trải nghiệm cảm giác ấm áp và tình yêu trong khi ở trạng thái thoải mái. Có lẽ năng lượng tình yêu đóng một phần quan trọng. Những người đang yêu nói chung không gặp rắc rối bởi những thứ có thể làm phiền họ.
Những người ở trạng thái thư giãn không có nhiều xung đột, nên các biện pháp phòng vệ ban đầu tạo ra khoảng cách trong cảm xúc là không cần thiết. Họ chạm vào cảm xúc của họ nhiều hơn và tiếp xúc với đời sống thực tế nhiều hơn.
Họ nắm bắt được nhiều hoạt động đa dạng của não hơn để thử nghiệm thực tế. Ở trong trạng thái tâm trí và cơ thể đang thoải mái, quá trình nhận thức được cải thiện, suy nghĩ rõ ràng hơn và khả năng phán đoán được nâng cao.
Các kĩ thuật đặc biệt giúp bệnh nhân giải quyết một số vấn đề riêng, họ có thể lập trình để thư giãn và cảm nhận tốt hơn kéo dài suốt cả ngày. Có thể dựa vào nguồn lực bên trong mình để giải quyết các vấn đề trong đời sống mang lại cho họ nhiều sự tự tin hơn. Các nhà trị liệu tin tưởng vào câu trả lời mà họ nhận được ở trạng thái thay đổi, và điều này làm tăng thêm niềm tin cho bệnh nhân.
Theo hiện tượng nhóm, khi cảm xúc tốt của nhóm dễ lây lan và thậm chí lan đến cả người rối loạn nhất.
Phần cận tâm lí của khóa học đã giúp ích, theo một cách bất ngờ, cho một số bệnh nhân rối loạn tâm thần. Nhiều người có thể đi đến những vùng bên ngoài của tâm trí, nơi ghi nhận những trải nghiệm huyền bí thường xuyên mà liệu pháp tâm lí không thể giải thích. Chỉ trong phần cận tâm lí của khóa học, thì họ mới hiểu được. Một trong những mục đích của liệu pháp tâm lí sâu là nhận thức về phần vô thức. Việc mở rộng phạm vi ý thức và khám phá các khía cạnh cận tâm lí của tâm trí phục vụ cùng mục đích này. Bệnh nhân cảm thấy nhẹ nhõm khi khám phá ra khía cạnh này của quá trình tinh thần của họ và thấy nó có thật và được chấp nhận.
Rối loạn cảm xúc có thể giúp họ trải qua những hiện tượng huyền bí, điều này càng cho họ lí do để kéo dài thời gian bệnh tật và mang lại ý nghĩa đối với cuộc sống của họ. Nhà trị liệu đã học cách áp dụng các kĩ thuật kiểm soát tâm trí để trị liệu tâm lí, giúp đỡ bệnh nhân nhiều hơn nữa.
75 bệnh nhân rối loạn tâm thần nghiêm trọng đã được chuyển đến khóa đào tạo kiểm soát tâm trí Silva để xác định bệnh nhân nào có thể gặp khó khăn. Chỉ có một người trở nên rối loạn hơn đáng kể. Phát hiện nhất quán nhất là một sự gia tăng nhận thức về thực tế, như đã xác định lâm sàng và trắc nghiệm tâm lí khách quan.
Điều quan trọng cần lưu ý là tất cả các bệnh nhân bị rối loạn từ một nhóm điều trị tâm thần đã được yêu cầu trải qua khóa học, có nghĩa rằng đây là một mẫu hoàn chỉnh từ một nhóm bệnh nhân tâm thần. Không ai bị ngăn cản. Do đó, kết quả không chỉ áp dụng cho các cá nhân được chọn.
Kiểm soát tâm trí Silva không phải là một liệu pháp trị liệu tâm thần. Nó có thể được sử dụng như một công cụ trong bất kì liệu pháp tâm thần nào, đặc biệt nếu nhà trị liệu quen thuộc với khóa học và không phản kháng với các khái niệm của phương pháp này. Kiểm soát tâm trí giúp bệnh nhân nâng cao khả năng sử dụng trí óc và đưa chính mình vào bất kì liệu pháp nào mà anh ta đang áp dụng.
Các nhà tâm thần học đã được giúp đỡ rất nhiều (ít nhất là khi bệnh nhân đang điều trị và bác sĩ tâm thần hiểu được tiến trình), đến mức bác sĩ McKenzie hiện khẳng định tất cả bệnh nhân loạn thần của ông đều tham gia khóa học, dưới sự chăm sóc và giám sát của ông.
Do sự cải thiện đáng kể ở hầu hết các các cá nhân bị rối loạn, và bởi vì việc đào tạo có thể được áp dụng cho các nhóm lớn cùng một lúc, các tác giả thấy trước một ứng dụng như một hình thức điều trị phụ trợ trong bệnh viện.
Khóa học được khẳng định là an toàn và có khả năng có lợi cho thần kinh. Nó tương đối an toàn và chắc chắn có lợi cho cá nhân bị rối loạn tâm thần cấp tính, dưới sự chăm sóc của bác sĩ tâm thần quen thuộc với chương trình. Cả hai dữ liệu tâm thần khách quan và lâm sàng cho thấy rằng lợi ích vượt xa mọi tác động tiêu cực.
Biểu đồ A
Sự khác biệt trung bình về điểm T (Score) trước và sau đào SMC, đối với 38 phụ nữ thuộc nhóm bị rối loạn cao.
Có sự tiến bộ trong cả 11 thang đo, bao gồm thang đo hưng phấn. Điểm thấp hơn cho thấy sự cải thiện, ngoại trừ trên thang đo mức độ hưng phấn, trong đó điểm cao hơn cho thấy rằng bệnh nhân cảm thấy tốt hơn và lạc quan hơn.
Các thang đo như sau:
1. Nhận thức bằng giác quan (viết tắt Sens) bao gồm các mục mô tả thế giới bên ngoài thông qua trải nghiệm cảm nhận trực tiếp, sử dụng tất cả các giác quan riêng rẽ hay tổng hợp;
2. Nhận thức thời gian (Time) cung cấp ví dụ của bốn loại hiện tượng liên quan đến thời gian chủ quan: (i) thay đổi theo dòng thời gian; (ii) tính gián đoạn của thời gian; (iii) định hướng của thời gian, bao gồm quá khứ, hiện tại và tương lai, trải nghiệm tuổi tác hoặc nhận thức về tuổi của một người; và (iv) đồng nhất bản thân hoặc xa lánh với thế hệ của người đó;
3. Nhận thức cơ thể (Body) bao gồm ba khía cạnh trải nghiệm cơ thể của một người: (i) các khía cạnh cảm xúc, (ii) rối loạn lo âu về bệnh tật, và (iii) khía cạnh tri giác;
4. Tự nhận thức (Self ) bao gồm các khuynh hướng cảm xúc đối với việc tự thể hiện lòng tự trọng và vấn đề danh tính của một người;
5. Nhận thức về những người khác (Oth) được thể hiện bằng năm hình mẫu khác nhau: (i) làm mất nhân cách, (ii)gán ghép cho con người những sức mạnh phi thường, (iii) cảm giác về sự thay đổi, (iv) ý tưởng về quan hệ, và (v) xu hướng nhân hóa liên quan đến động vật;
6. Ý tưởng (Idea) tập trung vào bệnh lí phản ánh trong kinh nghiệm của một người về quá trình suy nghĩ của mình hoặc nội dung của nó. Nó xử lí các danh mục khác nhau như: thiếu hụt trong quá trình tư duy, vô tổ chức, thay đổi trong thói quen suy nghĩ hoặc hệ tư tưởng, trí tuệ toàn năng, thay đổi tốc độ suy nghĩ và sự hiện diện của những ý tưởng kì lạ;
7. Sự chán chường (Dys) liên quan đến ba mức độ ảnh hưởng của sự chán chường, thần kinh soma, tình cảm và trí tuệ. Ngoài ra, nó còn chứa các mục quan tâm đến mong muốn cái chết và xu hướng tự hủy hoại bản thân;
8. Kiểm soát xung đột (Imp) có các mục nhấn mạnh đến sự thiếu hụt về ý chí hoặc chủ ý như một kinh nghiệm hơn là thực sự mất kiểm soát. Ba lớp hiện tượng được đại diện là: (i) biểu hiện của sự ưu trương; (ii) những hạn chế trong công việc và các vấn đề về ra quyết định, sự cưỡng bách và đình chỉ hoàn toàn hành động; và (3) sự chống đối xã hội hoặc xung động kì quái.
CÁC THANG ĐO CHÍNH
CÁC THANG ĐO PHỤ
BIỂU ĐỒ B
Sự khác biệt trung bình về điểm T trước và sau khóa học SMC, với 20 nam giới từ nhóm bị rối loạn cao
BIỂU ĐỒ C
Sự khác biệt trung bình về điểm T của 19 trong số 38 phụ nữ có điểm số thay đổi nhiều nhất trong nhóm bị rối loạn cao
BIỂU ĐỒ D
Chênh lệch điểm T trung bình của 10 trong số 20 nam giới trong nhóm bị rối loạn cao có điểm số đã thay đổi nhiều nhất
BIỂU ĐỒ E
Một bệnh nhân rối loạn tâm thần cấp tính được kiểm tra hai lần vào tuần trước và một lần vào tuần sau khóa Kiểm soát Tâm trí. Lưu ý sự giống nhau của hai điểm trước khi đào tạo SMC, so với điểm số sau
BIỂU ĐỒ F
Thêm một người trong nhóm bị rối loạn cao đã làm bài kiểm tra trong tuần trước và sau khóa đào tạo SMC
BIỂU ĐỒ G
Thêm một người trong nhóm bị xáo trộn cao đã thử nghiệm trong tuần trước và sau khóa đào tạo SMC