Chúng ta đang sống trong thời kỳ chuyển tiếp giữa thời đại Công nghiệp và thời đại Thông tin. Quy tắc mới của phát triển kinh tế là tri thức và thông tin, chứ không còn dựa trên vốn, vật tư và lao động nữa.
Việc dịch chuyển sang nền kinh tế dựa trên thông tin đặt ra những câu hỏi lớn cho một số nước. Họ sẽ tụt hậu, bị bỏ lại đằng sau, hay đây là cơ hội để nhảy vọt? Điều gì sẽ xảy ra cho lực lượng lao động kỹ năng thấp, những người quản lý cấp trung nếu việc làm của họ, vị trí của họ mất đi? Liệu họ có bị bỏ lại, hay đây là cơ hội để trau dồi thêm kỹ năng và nắm lấy cơ hội mới?
Chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi diễn ra ở một số nước châu Âu. Trong suốt nhiều năm, chính phủ các nước châu Âu đã sử dụng số lượng lớn nhân viên. Để trả tiền cho họ, các chính phủ phải vay tiền từ các nước châu Âu khác và dựa trên năng lực sản xuất sản phẩm và dịch vụ của mình để trả nợ. Khi kinh tế toàn cầu thay đổi, “tài sản lao động” dịch chuyển sang các nước Đông Âu có chi phí thấp hơn. Khi không thể vay thêm tiền, khi chi tiêu bị giới hạn, việc làm bị cắt giảm, nhân viên chính phủ bị sa thải. Tình trạng này bắt đầu bùng phát ở Bồ Đào Nha, lan tới Hy Lạp, rồi đến Italy, Tây Ban Nha. Cuộc khủng hoảng này nảy sinh từ nhiều yếu tố, nhưng hiển nhiên nhất là: quản lý yếu kém, quan liêu; sử dụng quá nhiều lao động; thu thuế không hiệu quả; và vay tiền nhưng không thể trả. Còn một yếu tố ít được biết đến là thiếu chuẩn bị cho việc chuyển từ “tài sản lao động” sang “tài sản tri thức”.
Nền kinh tế toàn cầu ứng dụng ngày càng nhiều công nghệ máy tính và viễn thông. Trong nền kinh tế số thức này, các giao tác doanh nghiệp có thể diễn ra tức thời ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Thay vì dựa vào những người quản lý cấp trung để chỉ đạo luồng thông tin, phần lớn các công ty đang chuyển sang cấu trúc phi tập trung, nơi các quyết định có thể được đưa ra dựa theo tri thức và kỹ năng của nhân công, do vậy khử bỏ vị trí quản lý cấp trung. Cấu trúc phẳng này đã diễn ra ở nhiều công ty, cuối cùng sẽ lan tỏa đến mọi doanh nghiệp, ngành nghề và chính phủ.
Ngày nay, các công ty cần nhân công có kỹ năng về công nghệ thông tin (CNTT) bởi vì CNTT là bản chất của tự động hóa và kiểm soát máy móc, cơ xưởng. Đây là sự khởi đầu cho làn sóng đầu tư thứ hai của toàn cầu hóa, trong đó kỹ năng sẽ là yếu tố then chốt để xác định nơi chế tạo sản phẩm.
Khi công nghệ thay đổi, các công ty cần phải trở nên linh hoạt hơn. Trước kia, nếu công ty của bạn là công ty Web hay công ty Internet, bạn sẽ không thể nào nghĩ đến việc chuyển sang điện thoại di động. Nhưng ngày nay các công ty này phải điều chỉnh lại theo sự thay đổi của thị trường. Điện thoại thông minh (smart phone) và máy tính bảng sẽ là nền tảng và các ứng dụng di động sẽ được tích hợp đầy đủ với quy trình của doanh nghiệp. Khi điều đó xảy ra, quốc gia nào có nhân công có kỹ năng CNTT sẽ thâu tóm thị trường; ý tưởng và thiết kế có thể được xây dựng và đưa ra thị trường nhanh hơn.
THẾ GIỚI ĐANG THAY ĐỔI
Xã hội đang biến chuyển
Xã hội loài người đã có nhiều biến chuyển trong suốt quá trình lịch sử.
Từ thời tiền sử cho đến năm ngàn năm trước Công nguyên là thời kỳ săn bắt và hái lượm, với thức ăn và chỗ ở là tài sản chính.
Từ năm ngàn năm trước Công nguyên cho đến thế kỷ 18 là thời kỳ nông nghiệp, với đất đai và mùa màng là tài sản chính của xã hội, và các cuộc chiến tranh diễn ra chủ yếu để xâm chiếm đất đai.
Từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20, các nước dần chuyển sang thời kỳ công nghiệp. Tài sản xã hội lúc này là xưởng máy và thiết bị. Tri thức con người bắt đầu được đưa vào quá trình sản xuất không phụ thuộc vào thiên nhiên như trong xã hội nông nghiệp. Các cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa trong thời kỳ này nhằm vơ vét tài nguyên thiên nhiên của các nước khác.
Thế kỷ 21 chứng kiến sự chuyển đổi của xã hội sang hình thái mới: xã hội thông tin và tri thức. Trong xã hội này, kỹ năng và tri thức của con người trở thành tài sản chính của mọi tổ chức. Thay vì chú trọng vào việc chiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên thì các công ty chuyển hướng chú trọng vào việc thu hút và chiếm dụng tài năng và chất xám của con người trên toàn thế giới.
Trong xã hội công nghiệp, nhân tố chính là kích cỡ (càng lớn càng tốt), tiêu thụ khối lượng lớn năng lượng (khí, dầu), khối lượng lớn vật tư thô để hỗ trợ cho việc sản xuất theo dây chuyền lớn, và lực lượng lao động đông đảo, đặc biệt là lao động giá rẻ. Còn trong xã hội tri thức, nhân tố chính là tốc độ (càng nhanh càng tốt) với các ngành sản xuất thay thế vật tư thô bằng vật tư mới và tiên tiến (như silicon và composites). Quá trình thu nhỏ – với việc phát triển các kỹ thuật dưới micro trong điện tử (LSI và VLSI) và quy trình chế tạo được phát triển ở mức nano – được kiểm soát bởi các robot thay vì con người. Vì vậy, việc chế tạo sẽ dùng ít năng lượng, ít lao động kỹ năng thấp mà tăng nhân công có kỹ năng cao với trình độ đại học.
Ngày nay, một quốc gia không thể dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên dư thừa của mình cùng lao động giá rẻ mạt mà phải tạo ra ưu thế kinh tế dựa trên phát kiến kỹ thuật và tri thức sáng tạo. Vào thế kỷ trước, các quốc gia đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất số lượng lớn, nơi một nhóm nhỏ người lao động có kỹ năng cao quản lý một nhóm đông đảo những người lao động có kỹ năng thấp. Trong nền kinh tế tri thức, sản phẩm được tạo ra thông qua nghiên cứu và phát minh được thực hiện trong phòng thí nghiệm, tạo ra các ngành dựa trên vật liệu mới, vi điện tử, thiết kế được máy tính hỗ trợ, công nghệ sinh học, kiểm soát quy trình tiên tiến, và các dịch vụ khác. Tất cả những điều này đòi hỏi nhân công phải có kỹ năng cao hơn và ít nhất cũng phải có bằng đại học.
Vậy tại sao chúng ta cần phải chuyển sang xã hội tri thức? Ngày nay, công nghệ thay đổi nhanh hơn khả năng chúng ta có thể xử lý. Loài người đã tồn tại trên trái đất từ hàng triệu năm trước, nhưng tám mươi phần trăm các tiến bộ trong công nghệ chỉ mới xuất hiện trong vòng một trăm năm qua. Tỷ lệ này đang tăng tốc, không chậm đi. Nhiều thông tin được tạo ra trong vòng ba mươi năm qua còn nhiều hơn trong năm ngàn năm trước đó. Nếu chúng ta không chấp nhận sự kiện này, chúng ta không bao giờ hiểu được tại sao chúng ta cần phải chuyển sang xã hội tri thức.
Doanh nghiệp đang biến chuyển
Doanh nghiệp “cổ điển” được hình thành theo kiến trúc mà Adams Smith nêu ra vào thế kỷ 17. Nguyên tắc mà Smith đưa ra là chia các quy trình công việc phức tạp thành các bước đơn giản hơn. Smith cũng chỉ ra rằng các bước đơn giản có thể được tổ hợp theo các cách khác nhau để tạo ra các quy trình mới. Doanh nghiệp truyền thống được thiết lập trên cơ sở tương tác giữa con người cụ thể với nhau thông qua quy trình xác định. Đến giữa thế kỷ 19, các công ty đã “tiến hóa” thành chuỗi phức tạp các quy trình thủ công.
Mô hình doanh nghiệp thế kỷ 20 dựa trên hai nguyên tắc: “Xưởng máy với dây chuyền lắp ráp chuyển động để sản xuất số lượng lớn”, và “Hệ thống quản lý lực lượng lao động lớn vận hành dây chuyền sản xuất”. Thành công của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào vốn, tài nguyên thiên nhiên, lao động và hệ thống quản lý. Mục đích căn bản của doanh nghiệp thế kỷ 20 là tìm mọi cách sinh lời bằng việc đưa ra những sản phẩm chất lượng, bất kể chi phí đầu vào cho sản xuất và việc sử dụng nguồn lực thiên nhiên. Nhân tố then chốt trong tăng trưởng kinh tế là công nghiệp chế tạo để phát triển và bán “sản phẩm công nghiệp hóa”. Thước đo xác định mức độ thành công là trọng lượng – càng lớn càng tốt.
Trong thế kỷ 21, mô hình doanh nghiệp đang thay đổi và dựa trên ba nguyên tắc: “Dùng công nghệ để tự động hóa sản xuất, chế tạo”, “Hệ thống quản lý công nhân tri thức”, và “Phát kiến để có sản phẩm tốt hơn và nhanh hơn”. Mục đích của các doanh nghiệp thế kỷ 21 không chỉ là sinh lời với sản phẩm có chất lượng cao mà còn phải với khối lượng lớn và chi phí thấp nhất. Nhân tố then chốt trong phát triển kinh tế ở thế kỷ 21 là phát triển công nghiệp tri thức để tạo ra và bán “sản phẩm thông tin và truyền thông”. Thước đo xác định mức độ thành công là tốc độ. Mọi trao đổi thông tin và dữ liệu đều được thực hiện qua Internet – càng nhanh càng tốt.
Internet ngày nay đã phát triển trên toàn cầu, tạo tiền đề cho kinh tế thị trường cũng phát triển mạnh ở quy mô toàn cầu. Điều đó dẫn đến chu kỳ kinh doanh ngày càng nhanh, theo tốc độ của Internet. Các doanh nghiệp bây giờ vận hành kinh doanh hai mươi bốn giờ một ngày, bảy ngày một tuần. Quá trình tư nhân hóa và hợp nhất các công ty diễn ra thường xuyên và nhanh chóng.
Ngày nay, với những tiến bộ của công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa đang nổi lên như một nhân tố chính chi phối các hoạt động của xã hội và xuyên qua biên giới quốc gia. Với toàn cầu hóa, vì công ty có thể vận hành ở bất cứ nơi đâu, cho nên đất đai không còn quan trọng nữa. Với toàn cầu hóa, công ty có thể thực hiện kinh doanh ở mọi nơi và có thể gọi vốn từ bất kỳ nguồn nào, không bị hạn chế bên trong hệ thống tài chính quốc gia, cho nên vốn cũng không còn là nhân tố quan trọng nữa. Các công ty có thể vận hành trên toàn cầu, không có vấn đề với lao động nữa bởi vì họ có thể thuê bất kỳ ai từ bất kỳ nước nào. Những điều này chứng tỏ các nguồn lực mà các công ty và quốc gia từ xưa vẫn coi là động lực cho sự phát triển nay đã không còn quan trọng bằng nguồn lực mới: tri thức và kỹ năng.
Doanh nghiệp toàn cầu là doanh nghiệp kinh doanh trên toàn cầu, doanh nghiệp được phối hợp và tích hợp trên cơ sở toàn thế giới, với tài nguyên được chia sẻ để tạo ra khối lượng cao nhất, sinh lời nhất và thị trường chất lượng.
Với toàn cầu hóa, doanh nghiệp đang dịch chuyển từ kinh tế cục bộ sang kinh tế toàn cầu, theo đó các công ty mở rộng ra toàn cầu, mở cơ sở chế tạo ở nơi có chi phí doanh nghiệp hợp lý, thuê nhân công ở bất cứ nơi nào họ cần, gọi vốn từ bất cứ nguồn nào có thể, nhưng doanh nghiệp sẽ đối diện với sự cạnh tranh khốc liệt trong thị trường mở rộng này. Nhân tố để phân biệt thành công và thất bại là tri thức về cách áp dụng công nghệ vào doanh nghiệp để tận dụng ưu thế. Toàn cầu hóa là quá trình tương tác và tích hợp giữa con người, công ty và chính phủ của các quốc gia khác nhau. Nó mở ra thị trường mới cả nội địa và quốc tế, tác động lên môi trường kinh doanh khắp thế giới.
Thông tin là nguồn tài nguyên then chốt cho mọi doanh nghiệp. Chẳng hạn như, thông tin tài chính là nguồn lực then chốt cho mọi quyết định doanh nghiệp, thông tin năng suất là nguồn lực then chốt cho mọi quyết định chế tạo, và thông tin chất lượng là nguồn lực then chốt cho các quyết định phát triển phần mềm. Trong quá khứ, phải mất vài giờ, vài ngày, thậm chí là vài tuần để đưa thông tin đến với người có thể ra quyết định. Ngày nay, với CNTT, chỉ mất vài giây, thông tin cốt yếu có thể được gửi đến người ra quyết định ngay lập tức. Đó là lý do tại sao vai trò của CNTT trong doanh nghiệp đã chuyển từ vai trò hỗ trợ sang vai trò chiến lược.
Năm 1965, Gordon Moore đã dự đoán rằng năng lực của chip máy tính sẽ tăng gấp đôi cứ sau mỗi mười tám tháng. Định luật Moore là nguyên lý trung tâm của ngành CNTT, nơi mọi thứ diễn ra với tốc độ của chip máy tính và nó đang tăng lên cứ sau mỗi mười tám tháng. Vào thời đó, giá của một máy tính IBM là vài triệu đô-la. Đến 1998, máy tính cá nhân (PC) đã làm thay đổi mọi thứ bằng việc giảm giá xuống còn vài nghìn đô-la. Đến 2010, điện thoại thông minh làm thay đổi mọi thứ lần nữa và giảm giá máy tính xuống còn vài trăm đô-la. Điều đáng kinh ngạc là ngày nay năng lực của chip máy tính trong điện thoại thông minh nhanh hơn và tốt hơn gấp hàng trăm lần so với máy tính lớn trị giá 15 triệu đô-la vào năm 1965 của IBM. Internet giúp cho việc truy nhập thông tin được dễ dàng, cho phép mọi người, từ học sinh tiểu học đến người quản lý cao nhất của công ty lớn, có được thông tin họ cần trong vòng vài giây.
Quản lý thông tin một cách trật tự, công ty bắt đầu nhận ra rằng họ phải tuân theo quy trình cho mọi thứ, nếu không thì với nhiều thông tin, dữ liệu như thế, mọi sự có thể trở nên hỗn độn. Quy trình doanh nghiệp là cách mọi người tổ chức công việc trong công ty để quản lý tốt hơn. Bằng việc có quy trình được xác định rõ ràng, công ty có thể nhận diện quy trình nào được tự động hóa để giảm thiểu lãng phí và làm cho công việc hiệu quả hơn. Với việc dùng robot, có ít việc hơn cho con người thực hiện, do đó ít tốn kém chi phí hơn và tạo ra nhiều lợi nhuận hơn cho công ty.
Vậy con người có thể làm gì? Nếu bạn nhìn vào ngành ô tô và dây chuyền lắp ráp, chế tạo, bạn sẽ thấy 70% công việc đã được tự động hóa. Dù công nghệ được áp dụng để đưa ra giải pháp hiệu quả về chi phí nhưng tự động hóa, robotics, máy thông minh không thể thay thế cho việc hiểu vấn đề thực tế và ra quyết định về giải pháp. Chúng không thể đưa ra phán đoán tốt cho nên mọi công ty vẫn cần đến con người. Những người này phải có tri thức về công nghệ để ra quyết định và quản lý hệ thống thông tin khổng lồ này.
CON NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI PHẲNG
Thế hệ V
Xã hội tri thức đã tạo ra một thế hệ mới, không thể xác định họ theo độ tuổi, giới tính, ngày sinh hay biến cố xã hội. Thành viên của thế hệ này có thể là doanh nhân năm mươi tuổi hay học sinh trung học mười lăm tuổi, nhưng họ đều có chung một điều: dùng phương tiện số thức trong thế giới ảo. Đây là những người ưa thích tham gia vào phòng chat trực tuyến để nói chuyện, chia sẻ các blog, chơi video game và các sở thích khác với những người có cùng mối quan tâm. Nhóm người này được gọi là “thế hệ V” (V là chữ viết tắt của Virtual).
Trong xã hội tri thức, công nghệ trở thành một phần tích hợp của xã hội và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc hình thành các hoạt động của con người, doanh nghiệp, ngành nghề và chính phủ. Việc truy nhập công nghệ dễ dàng, với khả năng trao đổi trên phạm vi toàn cầu, đã phá vỡ các ràng buộc địa lý trong trao đổi và tương tác. Đặc trưng của thế hệ V là sự sẵn lòng trong tương tác và cộng tác với người khác trong môi trường ảo, tạo ra cộng đồng toàn cầu với sức ảnh hưởng chưa từng có. Người thế hệ V bao giờ cũng tìm kiếm những người chia sẻ cùng ý tưởng, tri thức, mối quan tâm trong thế giới ảo, đó là lý do tại sao Facebook, My Page, hay Twitter lại phổ biến đến thế. Trong khi thế hệ X và thế hệ Y chủ yếu là “người tiêu thụ vật chất”, thì thế hệ V chủ yếu là “người tiêu thụ CNTT”, họ mua bất cứ thứ gì liên quan đến CNTT (như video game, điện thoại di động, laptop, notebook, v.v…). Trong khi những người của thế hệ Baby Boomer(*) đọc báo giấy, thì người của thế hệ V đọc báo trực tuyến. Trong khi người thế hệ X mua CD cho hệ thống âm thanh nổi của họ, người thế hệ V ưa thích tải nhạc về chiếc iPod. Trong khi người thế hệ Y mua DVD cho chiếc tivi màn hình phẳng của mình, thì người thế hệ V ưa thích xem YouTube trên laptop. Việc thay đổi trong thói quen mua sắm đã tạo ra khó khăn cho nhiều doanh nghiệp trên toàn thế giới. Các cửa hiệu âm nhạc, phương tiện mạng tivi, báo chí, tất cả đều chịu sự sụt giảm lớn trong kinh doanh, nhưng các website để tải nhạc, báo trực tuyến và truyền hình Internet lại kinh doanh phát đạt.
(*) Thế hệ Baby Boomer được sinh ra vào thời kỳ hậu chiến (1943 – 1960), khi tỷ lệ sinh gia tăng, có nhiều biến chuyển xã hội; thế hệ này chối bỏ các giá trị cũ, tái định nghĩa lại giá trị xã hội truyền thống.
Những người thuộc thế hệ V đều quen thuộc với công nghệ mới nhất và sử dụng nó hàng ngày để trao đổi. Họ mong muốn tham gia tích cực vào cộng đồng toàn cầu. Thế hệ V mong đợi “đối thoại” chứ không chỉ là “trao đổi”. Giá trị của thế hệ V rất khác so với các thế hệ trước đó, thế hệ X và thế hệ Y, bởi vì người thuộc thế hệ V có niềm tin vào giá trị của sự cộng tác, rằng “chúng ta” giá trị hơn “tôi”. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là kết quả của thế hệ “tôi” hay thế hệ ích kỷ, chỉ nghĩ cho bản thân mình chứ không nghĩ đến ai khác. Sự thức tỉnh này củng cố thêm niềm tin vững chắc của thế hệ V bởi vì họ chia sẻ cái gì đó có giá trị hơn chỉ là những thứ vật chất.
Trong xã hội tri thức, công nghệ trở thành nhân tố tạo khả năng vô hình và là chất xúc tác cho tương tác và thương mại. Thế hệ V bây giờ đang biến nó thành nền tảng cho ý thức tập thể, hình thành sự cân bằng quyền lực trong công nghệ, doanh nghiệp và cá nhân. Thực tế, một số người thế hệ V đe dọa mô hình kinh doanh truyền thống bởi vì nó đại diện cho ham muốn sáng tạo, tự thực hiện. Tuy nhiên, theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, ở những giai đoạn sau của cách mạng công nghệ, không phải là công nghệ mới dẫn lái sự tăng trưởng mà cách thức mới để triển khai công nghệ và cách thức mới để tiến hành kinh doanh, điều đó mới chuyển giao giá trị mới. Vào những ngày đầu của CNTT, chính IBM, Microsoft, Oracle và Google dẫn lái sự tăng trưởng; còn bây giờ, phần mềm như một dịch vụ (SaaS, Software as a Service) mới tạo ra giá trị mới.
Một số dữ liệu đáng quan tâm về thế hệ V:
1. 80% dùng “thông điệp tức khắc” xấp xỉ ba mươi giờ một tuần
2. 45% xem tin tức qua Internet chứ không qua tivi
3. 65% đọc báo trực tuyến và không mua báo giấy
4. 25% sở hữu và viết blog
5. 67% xem blog
6. 72% tải nhạc có trả tiền
7. 28% tải nhạc từ việc chia sẻ tệp chứ không trả tiền
Những người trẻ này rất khác với thế hệ trước và thế hệ của bố mẹ họ. Tất cả họ đều lớn lên cùng Internet, laptop, điện thoại di động cho nên họ thoải mái với công nghệ hơn bố mẹ họ. Chẳng hạn như, khi bố mẹ họ đi mua sắm tại cửa hàng địa phương hay siêu thị, thì họ lại ưa thích mua hàng trực tuyến và thường đưa ra quyết định nhanh chóng về điều họ muốn. Khi tôi hỏi: “Tại sao em mua mọi thứ trực tuyến?”, nhiều người bảo rằng họ hỏi bạn bè họ, đọc các bình luận trên Facebook về sản phẩm, hay chat trực tuyến với người khác về cái gì đó trước khi mua cho nên họ có thể đưa ra quyết định nhanh chóng. Họ coi trọng thời gian của mình và thích dùng laptop hay điện thoại di động thay vì “phí” thời gian đi chợ và mặc cả giá tiền như bố mẹ họ. Với họ, mua bán trực tuyến là tốt nhất vì họ có thể so sánh giá cả và chất lượng nhanh chóng. Bây giờ tôi hiểu tại sao Amazon là cửa hàng trực tuyến thành công nhất và lớn nhất với nhiều tỉ đô-la lợi nhuận hàng quý, họ hiểu thói quen mua sắm của thế hệ trẻ hơn.
Tôi hỏi: “Nhưng tại sao là Amazon chứ không phải công ty khác?”. Một sinh viên nói: “Amazon có giá tốt nhất và có thể giao sản phẩm trong vòng vài ngày. Họ có hệ thống vận tải riêng của họ. Đôi khi họ có thể giao sản phẩm trong ngày. Đó là điều chúng em muốn. Với chúng em, ‘theo nhu cầu’ là yếu tố quan trọng, Amazon sẽ sớm dùng trực thăng để giao hàng. Bất kỳ cái gì chúng em mua, chúng em có thể nhận được nó trong vòng nửa giờ. Với app di động, chúng em có thể mua và trả tiền qua điện thoại, thật dễ dàng và nhanh chóng”. Bây giờ, tôi biết tại sao thanh toán di động (như thanh toán Apple, Google Wallet, hay Samsung Pay) đang được sử dụng phổ biến. Tôi nghĩ các máy ATM sẽ sớm biến mất, cũng như điện thoại có dây, vì mọi thứ được kết nối bởi công nghệ không dây.
Tôi cũng thấy những người trẻ này nhanh hơn nhiều trong việc chấp nhận công nghệ mới (như Internet kết nối vạn vật (IoT), thực tế ảo,…). Khi tôi đọc bài giảng về các chủ đề này, quá nửa lớp đã biết về chúng, một số người đã dùng chúng. Tôi hỏi: “Dường như nhiều người trong số các em đã biết về những công nghệ này, các em học chúng bằng cách nào?”. Câu trả lời của họ làm tôi ngạc nhiên: “Chúng em học từ các môn học trực tuyến mở cho đại chúng (MOOCs), nhiều người trong chúng em thậm chí đã tham dự các lớp học ở đó. Vì các thầy cô trường trung học không biết về các môn học này, họ chỉ cho chúng em học các môn trực tuyến”. Bây giờ, tôi biết tại sao nhiều doanh nghiệp như bán lẻ, ngân hàng và cửa hàng truyền thống đang gặp vấn đề. Quá nửa các cửa hàng bị đóng cửa và nhiều công ty lớn đang nộp đơn xin phá sản. Tôi nghĩ nếu các công ty không thay đổi nhanh chóng bằng việc chấp nhận biến đổi số thức, nhiều công ty sẽ không thể tồn tại.
Xu hướng tri thức
Ngày nay, mọi người bắt đầu hiểu toàn cầu hóa có thể tác động đến mọi quốc gia, mọi chính phủ và mọi lĩnh vực. Thomas Friedman, tác giả cuốn The World is Flat đã tiên đoán rằng với toàn cầu hóa, bất kỳ việc gì cũng có thể dễ dàng thực hiện ở bất cứ nơi đâu – ở Bangalore, Ấn Độ hay Thượng Hải, Trung Quốc, hay ở Paris, Pháp – bởi vì thế giới đã phẳng và được kết nối qua Internet. Để tăng lợi nhuận, nhiều công ty đã chuyển đổi thành công ty toàn cầu để vận hành ở mọi nơi với những nhân công có kỹ năng mà họ thuê được từ nhiều nơi trên thế giới để đáp ứng các mục tiêu chiến lược của họ. Người điều hành của họ có thể ở New York, người quản lý của họ có thể ở London, nhân công có kỹ năng có thể ở Mumbai và các xưởng máy có thể ở Thượng Hải, nhưng sản phẩm của họ sẽ được bán trên khắp thế giới.
Như là một phần của thế giới đang thay đổi, hệ thống giáo dục sẽ không còn được cấu trúc như là một hệ thống cục bộ mà trở thành hệ thống giáo dục toàn cầu để giáo dục và huấn luyện cho học sinh ở mọi nơi trên địa cầu. Trong hệ thống mới này, học sinh có thể dự đoán các nhu cầu toàn cầu và theo đuổi nghề nghiệp giúp cho các em sống thoải mái. Nếu lý thuyết này là đúng, quốc gia với nền giáo dục tốt nhất sẽ có ảnh hưởng đến các quốc gia khác bởi vì nó có tiềm năng cung cấp các kỹ năng đáp ứng cho nhu cầu toàn cầu, do vậy giáo dục sẽ trở thành “doanh nghiệp xuất khẩu” để cung cấp dịch vụ giáo dục cho nơi có nhu cầu. Xu hướng này đã diễn ra khi các trường đại học mở chi nhánh ở các nước khác hay cấp phép chương trình huấn luyện cho các nước khác.
Với xã hội tri thức, nhu cầu và sự cạnh tranh về nhân công có kỹ năng sẽ trở thành vũ khí chính trong “cuộc chiến” kinh tế có thể xảy ra trong tương lai. Như vào thời thuộc địa, các nước đánh nhau để kiểm soát đất đai, mỏ khoáng sản và vật tư thô, nước có nhiều thuộc địa trở thành cường quốc thống trị. Trong thời đại Thông tin, các quốc gia sẽ cạnh tranh về nhân công có tri thức, và xu hướng này đã bắt đầu khi các nước phát triển ban hành các chính sách có lợi thu hút nhân công có kỹ năng vào nước họ làm việc và cuối cùng trở thành cư dân vĩnh viễn. Vào thời thuộc địa, các cường quốc có vũ khí hiện đại đi xâm lược và thuộc địa hóa các nước khác, còn người dân các nước thuộc địa trở thành nô lệ cho đến khi họ đấu tranh giành lại được độc lập. Tuy nhiên, trong thời đại Tri thức, các quốc gia không đi xâm lược bằng súng và bom mà lặng lẽ thâu tóm những nhân công giỏi nhất để xây dựng xã hội tri thức của họ và đặt các xưởng máy ở các nước có trình độ thấp để tận dụng ưu thế kỹ năng lao động thấp và đổ phế thải độc hại, chất gây ô nhiễm mà không bị vấn đề gì. Tất cả những điều này diễn ra dưới tên gọi “tiến bộ”, “hiện đại hóa”. Tình trạng bóc lột này đã xảy ra trong nhiều năm nhưng rất ít nước phàn nàn về điều đó.
Tri thức và kỹ năng là hai nhân tố then chốt cho sự phát triển kinh tế, tăng trưởng, và tính cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Ngày nay, không một quốc gia nào có thể dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên dư thừa của mình cùng lao động giá rẻ mà phải tạo ra ưu thế kinh tế dựa trên công nghệ và tri thức sáng tạo. Vào thế kỷ trước, các nước đã tiến bộ với việc áp dụng khoa học vào sản xuất số lượng lớn, nơi mà một nhóm nhỏ người lao động có kỹ năng cao quản lý một nhóm đông đảo những người lao động có kỹ năng thấp. Trong nền kinh tế tri thức ngày nay, sản phẩm được tạo ra bởi nghiên cứu và phát minh được thực hiện trong phòng thí nghiệm đang tạo ra các ngành công nghiệp tri thức, nơi công nghệ dựa trên các vật liệu mới, vi điện tử, thiết kế được máy tính hỗ trợ, công nghệ sinh học, kiểm soát quy trình tiên tiến, và các dịch vụ chuyên môn khác đòi hỏi nhân công phải có kỹ năng cao hơn nhiều, ít nhất cũng phải có bằng đại học.
CÁC DOANH NGHIỆP TRONG THẾ GIỚI PHẲNG
Quản lý bằng hệ thống thông tin
Mọi người chủ công ty đều cần có thông tin để ra quyết định, để nhận diện vấn đề, và để kiểm soát vận hành. Trước khi có CNTT, người chủ phải đi quanh công ty để quan sát cách mọi sự vận hành và có hành động khi cần thiết. Tuy nhiên, người chủ không thể dành ra toàn bộ thời gian để quan sát cho nên ông ta phải dựa vào người quản lý để báo cáo mọi thứ cho mình. Không may là không phải tất cả các báo cáo đều chính xác vì người quản lý thường che giấu sai lầm của họ hay sửa đổi báo cáo để làm cho mọi sự có vẻ tốt hơn. Không có thông tin chính xác, người chủ không thể đưa ra quyết định tốt hay biết về vấn đề mãi cho đến khi quá trễ. Bằng việc áp dụng CNTT để tự động hóa các quy trình doanh nghiệp và thu thập dữ liệu, người chủ có thể có được thông tin chính xác nhanh hơn, và ra quyết định nhanh chóng, hiệu quả.
Quản lý hệ thống thông tin (ISM) là hệ thống thu thập và xử lý dữ liệu về vận hành của công ty, rồi báo cáo thông tin có ý nghĩa giúp cho người chủ và người quản lý đưa ra quyết định, giải quyết vấn đề và kiểm soát vận hành công ty một cách hiệu quả. Ngày nay, các hệ thống thu thập và xử lý dữ liệu từ nhiều nguồn (như giao tác doanh nghiệp, vận hành công ty, và dữ liệu liên quan khác từ thị trường, thông tin công cộng, đối thủ cạnh tranh) tạo ra báo cáo trinh sát doanh nghiệp cho người chủ và người quản lý.
Trước khi có máy tính, phần lớn việc thu thập và phân tích dữ liệu đều được con người thực hiện. Hệ thống thủ công như vậy đòi hỏi nhiều tuần để đưa ra báo cáo và cũng rất hay phát sinh lỗi. Ngày nay, máy tính có thể thu thập và xử lý tất cả các dữ liệu này, làm phân tích kỹ lưỡng và đưa ra báo cáo trong vài phút. Tất nhiên, máy tính xử lý dữ liệu theo chỉ đạo bởi chương trình phần mềm do con người viết ra. Chương trình này có thể ra lệnh cho máy tính phân tích cùng một dữ liệu theo những cách khác nhau và tạo ra các loại báo cáo khác nhau. Những người quản lý khác nhau lấy dữ liệu được phân tích theo những cách khác nhau tùy theo vai trò và trách nhiệm của họ. Chẳng hạn như, người quản lý về chế tạo sẽ có báo cáo về vận hành hàng ngày hay hàng tuần về năng suất, vấn đề và tài nguyên cần sử dụng; người quản lý bán hàng và tiếp thị có thể có được báo cáo về doanh số bán, đối thủ cạnh tranh và xu hướng thị trường; người chủ công ty có thể có được báo cáo về thu nhập, lợi nhuận, chi phí và các vấn đề chính. Việc thu thập dữ liệu kỹ lưỡng, xử lý và phân tích như vậy sẽ là không thể nếu không có hệ thống thông tin tính toán.
Một công ty bảo hiểm có nhiều người bán hàng, những người bán hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng; người bán phải viết báo cáo bán hàng cho người quản lý đơn vị bán hàng; người quản lý đơn vị bán hàng phải kiểm tra lại các hợp đồng rồi đệ trình một đơn hàng cho đơn vị làm hóa đơn; người quản lý làm hóa đơn kiểm tra đơn hàng rồi gửi hóa đơn bán hàng cho khách hàng; khách hàng nhận được hóa đơn và gửi séc cho đơn vị tài chính; người quản lý tài chính xác nhận việc trả tiền và đệ trình báo cáo trả tiền cho bộ phận làm hợp đồng bảo hiểm. Bất kỳ lỗi nào xảy ra trong cấu trúc chức năng truyền thống này đều sẽ bị gửi lại cho bước trước cho đến khi nó được sửa đúng vì từng đơn vị chức năng chỉ chịu trách nhiệm cho chức năng riêng của nó. Trung bình mất khoảng một tuần để hoàn thành giao tác này. Bằng việc có quy trình chuẩn trải khắp mọi đơn vị và kiểm soát bởi hệ thống thông tin, hợp đồng bảo hiểm có thể được đặt vào máy tính bởi người bán. Hợp đồng bảo hiểm được phần mềm kiểm tra về độ chính xác trong vài giây, rồi tất cả thông tin được thu thập, phân tích và lưu giữ. Đồng thời, một hóa đơn tính tiền có thể được gửi theo email hay tin nhắn cho khách hàng về việc trả tiền. Khách hàng có thể gõ số thẻ tín dụng vào qua việc hồi đáp email hay gửi một tin nhắn trở lại. Thẻ tín dụng bị tính tiền vào tài khoản ngân hàng và nếu nó hợp thức, hợp đồng bảo hiểm được ban hành. Toàn thể quy trình này chỉ mất chưa đầy mười phút. Bằng việc ứng dụng CNTT, công ty bảo hiểm vận hành nhanh hơn, tốt hơn, chính xác hơn, và có được tiền nhanh chóng. Với việc giảm tính quan liêu và không hiệu quả của mô hình vận hành cũ, nó có thể giảm bớt số người trong xử lý giao tác vì mọi thứ được quản lý và kiểm soát bằng máy tính.
Trước khi dùng hệ thống thông tin, hãng hàng không bán vé cho khách hàng và số vé bán được thu thập hàng ngày, được phân tích và gửi lên cấp quản lý cao hơn để kiểm tra. Có thể mất vài ngày để ra quyết định có nên tăng hay giảm giá vé. Chậm trễ về thời gian trong thị trường thay đổi có thể làm cho công ty mất đi một số cơ hội. Với hệ thống thu thập dữ liệu, phân tích và báo cáo nhanh chóng, những quyết định có thể được đưa ra trong vài phút. Chẳng hạn như, vài tuần trước chuyến bay, giá vé được giữ thấp để hấp dẫn mọi người mua vé và để lấp đầy chỗ trên máy bay. Tùy theo số vé được bán, giá sẽ tự động được điều chỉnh lên hay xuống dựa trên công thức kinh doanh được người chủ đặt ra. Nếu nhiều vé được bán, giá sẽ tăng lên; và nếu ít vé được bán, giá sẽ vẫn còn thấp. Khoảng một tuần trước chuyến bay, nếu chỉ mới có 40% số vé được bán, hệ thống thông tin được lập trình để hạ thấp giá vé để hấp dẫn nhiều người mua vé cho chuyến bay đó. Nếu chuyến bay đã bán được 80% số vé, nó sẽ tăng giá vé lên. Bằng việc cho phép hệ thống thông tin tự động điều chỉnh giá lên xuống, hãng hàng không có thể gia tăng thêm lợi nhuận. Cách thức tương tự có thể được áp dụng cho khách sạn, vận tải, cũng như những dịch vụ khác.
Việc sử dụng hiệu quả hệ thống thông tin như công cụ chiến lược để giúp cải thiện tình hình kinh doanh của công ty là điều bình thường trong kinh doanh ngày nay. Nó là “vũ khí mới” cho công ty mở rộng thành công thị trường. Để làm điều đó, cần có tư duy mới, quan niệm mới, và kiểu người quản lý mới, những người biết cách ứng dụng CNTT để giải quyết những vấn đề của doanh nghiệp.
Lập kế hoạch quản lý
Với toàn cầu hóa, đào tạo quản lý cần thay đổi. Thay vì dựa vào bản kế hoạch cứng nhắc để quản lý doanh nghiệp, người quản lý phải học cách ra quyết định nhanh chóng để thích ứng với thị trường thay đổi nhanh. Khái niệm cũ về kế hoạch năm năm hay mười năm từng được dạy ở hầu hết các trường kinh doanh đã trở nên lạc hậu, vì công nghệ thay đổi nhanh, thậm chí khó mà dự đoán điều gì sẽ xảy ra trên thị trường vào năm tới và không thể nào dự báo, lập kế hoạch cho năm hay mười năm.
Việc lập kế hoạch quản lý ngày nay tối đa hóa cơ hội thành công bằng việc thâu tóm thị phần và mở rộng sang thị trường mới. Điều đó làm thay đổi hoàn toàn khái niệm về lập kế hoạch quản lý từng được dạy. Với toàn cầu hóa, những đối thủ cạnh tranh đang nổi lên nhanh chóng và họ có thể đến từ bất kỳ nơi nào. Trước năm 2000, IBM và Accenture chi phối thị trường dịch vụ CNTT toàn cầu nhưng trong vòng chưa đầy mười năm, họ phải cạnh tranh với các công ty dịch vụ CNTT Ấn Độ như Infosys, TCS, Wipro và HCL.
Kế hoach năm năm cứng nhắc sẽ không bao giờ có tác dụng khi cạnh tranh xảy ra, công nghệ mới nổi lên, hay thị trường mới cần được nhận diện. Bây giờ, hơn lúc nào trong lịch sử, những người quản lý phải giám sát thị trường để điều chỉnh nhanh chóng. Vài năm trước, Nokia, Blackberry, Sony, Panasonic và Ericsson chi phối thị trường di động. Tất cả họ đều có kế hoạch năm năm để phát triển công nghệ di động dựa trên phần cứng. Không ai trong số họ chú ý đến phần mềm. Khi Apple và Google tham gia thị trường di động với việc tập trung vào phần mềm, những công ty “đàn anh” này đã không phản ứng đủ nhanh vì họ đi theo kế hoạch dài hạn và không giám sát những đe dọa trên thị trường. Việc chậm đáp ứng của họ đã cho phép Apple và Google thâu tóm và chi phối thị trường di động trong chưa đầy một năm. Điều gì đã xảy ra cho những công ty khổng lồ này? Họ đang vật lộn với thị phần nhỏ hơn nhiều, và một số đã không thể sống sót.
Không lâu trước đây, thị trường PC bị chi phối bởi Dell và HP, nhưng ngày nay hai người khổng lồ này đang phải chật vật cạnh tranh với Asus, Apple, Lenovo và Samsung. Vài năm trước khi công nghệ máy tính bảng nổi lên, Apple đã kiểm soát thị trường này với iPad khi các công ty khác đang vật lộn để cạnh tranh vì họ không có kế hoạch cho công nghệ mới này. Điều quan trọng là thúc đẩy CNTT để giám sát và nhận diện cơ hội mới. Việc quản lý công ty ngày nay đòi hỏi phải giám sát hoạt động hàng ngày và hàng tuần chứ không theo hàng năm hay kế hoạch năm năm nữa. Khái niệm về lập kế hoạch chiến lược cần được kiểm tra mỗi năm một lần sẽ không có tác dụng trong môi trường cạnh tranh thay đổi nhanh chóng này.
Một nhà phân tích cấp cao Phố Wall nói: “Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu này, không có cơ hội thứ hai. Nếu bạn bỏ lỡ một cơ hội, bạn sẽ thua. Đó là lý do tại sao suy nghĩ kiểu cũ về việc lập kế hoạch cho hoàn hảo, lập kế hoạch chi tiết, và lập kế hoạch cẩn thận là chướng ngại chính cho nhiều công ty đã thiết lập vững chãi”. Một nhà phân tích khác nói: “Trong môi trường công nghệ đang thay đổi nhanh chóng này, việc đoán chuyện gì có thể xảy ra trong năm là đã khó rồi, cho nên việc dự đoán và lập kế hoạch năm năm hay mười năm là không thể được và gần như bao giờ cũng sai. Nếu bạn không thể dự đoán điều gì sẽ xảy ra trong năm tới, làm sao bạn có thể dự đoán được năm năm hay mười năm?”.
Để đi trước đối thủ cạnh tranh, cần có một cấu trúc mới để đáp ứng sự đòi hỏi của thị trường. Hệ thống quản lý hiện thời dựa trên khái niệm phân cấp lãnh đạo từ trên xuống, trong đó cấp quản lý bảo nhân viên cái gì phải làm và cách làm mọi sự. Nhân viên được phân công cho các vai trò theo chức năng của họ. Không có sự cam kết hay động viên vì họ chỉ làm điều họ được bảo. Người quản lý làm theo kế hoạch dài hạn để tránh rủi ro và kiểm soát cẩn thận công ty. Mọi quyết định đều được người điều hành đưa ra. Cấu trúc này chỉ phát huy tác dụng trong môi trường tĩnh khi mọi sự thay đổi chậm qua thời gian, nhưng sẽ không có tác dụng trong thị trường thay đổi nhanh như hiện nay.
Với việc ứng dụng CNTT, nhiều công ty đang tái cấu trúc thành “cấu trúc phẳng”, nơi không có sự tách rời giữa các nhóm chức năng. Nhân viên và người quản lý cộng tác để đưa ra quyết định nhanh chóng. Nhân viên thực hiện công việc tương ứng với vai trò và trách nhiệm của họ với sự giám sát tối thiểu của cấp quản lý. Nhân viên cam kết làm việc và sẵn sàng học hỏi thêm để giữ cho công ty mở rộng và tăng trưởng. Chiến lược của doanh nghiệp dựa trên sự thay đổi liên tục và tiến hóa khi thị trường thay đổi. Các quyết định được dựa trên thông tin hợp thức và năng lực thay vì quyền lực cá nhân.
Bởi vì thay đổi là khó, đặc biệt với các công ty có cấu trúc rõ ràng và thiết lập vững chắc, các công ty trẻ hơn và xông xáo hơn đang nhanh chóng chiếm lấy ưu thế. Nếu bạn nhìn vào một trăm công ty toàn cầu, 72% là công ty trẻ (được thiết lập chưa đến hai mươi năm).
Cửa hàng trực tuyến
CNTT có thể đem lại nhiều ưu thế cho doanh nghiệp. Với Internet, mọi người có thể làm kinh doanh ở bất kỳ đâu và bất kỳ lúc nào. Chẳng hạn như, mọi người có thể thực hiện giao dịch ngân hàng và không lệ thuộc vào vị trí của ngân hàng. Họ có thể mở tài khoản trực tuyến với bất kỳ ngân hàng nào, nộp tiền và rút tiền từ máy ATM ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới. Với cửa hàng trực tuyến, mọi người có thể mua gần như mọi thứ mà không phải rời khỏi nhà. Với trường học trực tuyến, sinh viên có thể truy nhập vào bài học qua laptop của họ hay điện thoại di động.
Trong thời đại Công nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp vận hành tại thị trường địa phương; chỉ các công ty rất lớn mới có thể bành trướng ra thị trường toàn cầu. Trong thời đại Thông tin, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có thể vận hành trong thị trường toàn cầu, bất kể quy mô doanh nghiệp hay sản phẩm họ bán. Ngày nay, kinh doanh trực tuyến đang tăng trưởng nhanh chóng và có giá trị hàng nghìn tỉ đô-la. Lý do đơn giản là thị trường toàn cầu lớn hơn thị trường nội địa nhiều lần. Bằng việc đi vào trực tuyến, các doanh nghiệp có nhiều khách hàng hơn, bán nhiều sản phẩm hơn với chi phí ít hơn và tạo ra lợi nhuận nhiều hơn. Nói cách khác, toàn cầu hóa là quá trình mà kinh tế địa phương được tích hợp với phần còn lại của thế giới và làm cho việc kinh doanh toàn cầu trở nên dễ dàng hơn đối với những ai biết cách vận dụng sức mạnh của CNTT.
Toàn cầu hóa là việc tích hợp con người, công nghệ thông tin và tài chính với nhau, xuyên biên giới quốc gia. Chính việc nổi lên của CNTT đã làm cho thế giới trở thành một “ngôi làng”. Vài năm trước, mọi người phải mua sản phẩm địa phương với chất lượng thấp và giá thành cao, nhưng với kinh doanh trực tuyến, họ có thể mua sản phẩm với chất lượng tốt hơn và giá thành thấp hơn với một cái nhấp chuột. Vài năm trước, người mua phải đi đến cửa hàng, đôi khi là vài cửa hàng để có được cái họ cần, nhưng bằng kinh doanh trực tuyến, họ có thể có mọi thứ được giao tận nhà chỉ bằng một cái nhấp chuột. Vài năm trước, doanh nghiệp phải trả tiền thuê mặt bằng để mở cửa hàng, nhưng với kinh doanh trực tuyến, họ có thể có “cửa hàng ảo” để bán mọi thứ và họ có thể có nhiều khách hàng hơn trên khắp thế giới thay vì chỉ những người địa phương.
Hai mươi năm trước, Amazon từng là một cửa hàng sách nhỏ, “vô danh tiểu tốt” ở Seattle. Jeff Bezos đã nhìn thấy tiềm năng của Internet và kinh doanh trực tuyến cho nên ông đã bắt đầu bán sách trực tuyến. Vào thời đó, chỉ sinh viên biết dùng máy tính mới mua sách trực tuyến. Để thu hút nhiều sinh viên, Jeff cũng bán CD nhạc và DVD phim. Ngày nay, Amazon là một trong những cửa hàng trực tuyến lớn nhất trên thế giới với thu nhập hàng năm lên đến vài tỉ đô-la và làm cho Jeff Bezos trở thành một trong những người giàu nhất trên thế giới.
Một trong những người đã mua sách giáo khoa từ Amazon là Pony Ma, một sinh viên ở Trung Quốc. Hai mươi năm trước, thật khó mà mua sách tiếng Anh ở Trung Quốc, đặc biệt là sách về máy tính. Pony bị ấn tượng bởi ý tưởng về cửa hàng trực tuyến cho nên anh ta bắt đầu xây dựng công ty của riêng mình ở Trung Quốc. Cùng với ba người bạn thân ở Đại học Thâm Quyến, họ bắt đầu hình thành một cửa hàng trực tuyến nhỏ để bán sách cho sinh viên có tên là Tencent. Ngày nay, Tencent là cửa hàng trực tuyến lớn nhất và sinh lời nhất ở Trung Quốc với doanh số bán hàng năm lên đến hơn 3 tỉ đô-la. Tương tự như Amazon, Tencent bây giờ bán trên 700.000 mặt hàng trực tuyến và đã bành trướng vào nhiều lĩnh vực kinh doanh. Pony Ma trở thành một trong những người giàu nhất ở Trung Quốc và thường được coi là “Bill Gates” của Trung Quốc.
Akumah là một sinh viên CNTT gốc Phi, người đã mua CD nhạc từ Amazon và bị ấn tượng với khái niệm về cửa hàng trực tuyến, nhưng thay vì bán sách, anh muốn bán quần áo và giày dép thời trang. Anh đã bắt đầu xây dựng cửa hàng trực tuyến của mình ở Nam Phi, rồi bành trướng sang các nước láng giềng. Cửa hàng trực tuyến của anh, Zando, đạt được thành công lớn ở Nam Phi, và Sabunta là cửa hàng thời trang lớn nhất ở Nigeria. Những cửa hàng trực tuyến này có bộ sưu tập lớn nhất các thương hiệu thời trang, nhiều hơn bất kỳ cửa hàng nào ở châu Phi. Nhiều người châu Phi có thể không có máy tính kết nối Internet, nhưng nhiều người có điện thoại di động cho nên các cửa hàng này đã tập trung vào mua bán trên nền tảng di động hay m-commerce và đã rất thành công.
TOÀN CẦU HÓA
Ba làn sóng toàn cầu hóa
Một số người quản lý cho rằng họ không cần quan tâm đến vấn đề toàn cầu hóa vì doanh nghiệp của họ chỉ là doanh nghiệp địa phương. Song, thực tế là cạnh tranh có thể đến từ bất cứ nơi đâu, khi các công ty hiện giờ đang vận hành trong môi trường toàn cầu. Do đó, mọi doanh nghiệp đều phải được chuẩn bị để đối mặt với thực tế này, bằng không thì sẽ quá muộn.
Ngày nay, với Internet và hệ thống chuyển phát nhanh, bất kỳ công ty nào cũng có thể cạnh tranh trên toàn cầu mà không cần phải đặt trụ sở ở những khu vực đặc thù. Những gì họ cần là website để bán sản phẩm và ký hợp đồng với công ty vận chuyển để chuyển giao cho khách hàng. Chẳng hạn như, khi doanh nghiệp trực tuyến xuất hiện vài năm trước ở Hàn Quốc, các công ty toàn cầu lớn bán hàng rẻ hơn các công ty địa phương và “quét sạch” 80% doanh nghiệp nhỏ đặt trụ sở ở các thành phố nhỏ. Trước năm 2000, Mỹ có trên hai mươi bảy nghìn hiệu sách, ngày nay nó có ít hơn tám nghìn hiệu sách và con số này vẫn tiếp tục giảm khi nhiều người đang mua sách qua các hiệu sách trực tuyến như Amazon và làm cho Jeff Bezos, ông chủ của Amazon, trở thành một trong những người giàu nhất thế giới.
Ngày nay, với luật di trú mở, nhân công có thể dễ dàng chuyển đến làm việc ở nhiều nơi. Chẳng hạn như, hai mươi năm trước đây, công nhân xây dựng ở Trung Đông thường xuyên bãi công, đòi mức lương tốt hơn. Khi việc thương lượng không mang lại kết quả, các công ty xây dựng đã đưa công nhân từ Ấn Độ, Pakistan và Philippines đến để làm việc thay vì tăng lương. Hệ quả là hàng trăm nghìn công nhân bản địa hoặc phải chấp nhận mức lương thấp hơn hoặc bị thất nghiệp.
Toàn cầu hóa đang thay đổi cách thức kinh doanh của các công ty và tác động nhiều đến các nước. Chẳng hạn như, việc khoán ngoài đang gia tăng ở mọi nơi mặc cho mối quan ngại về mất việc làm. Các nước phát triển sẽ tiếp tục khoán ngoài công việc cho các nước có chi phí thấp hơn để tăng lợi nhuận vì chi phí cho nhân công ở nước nhà tiếp tục tăng lên. Không may là nhiều người không hiểu tác động này và không chuẩn bị để kịp thời ứng phó. Với sự tiến bộ của viễn thông và vận tải, doanh nghiệp không còn bị giới hạn trong một vùng, một thành phố hay một quốc gia, mà mở rộng ra toàn cầu. Với sự thiếu hụt lực lượng lao động có kỹ năng và luật di trú mở, nhân công có kỹ năng có thể chuyển đến bất kỳ nơi nào có cơ hội. Hiện tượng “chảy máu chất xám” vẫn đang diễn ra ở nhiều nước. Vậy điều gì sẽ xảy ra cho một nước mất đi các tài năng của họ? Điều gì sẽ xảy ra cho xã hội với số lượng ít hơn các bác sĩ, nhà khoa học, giáo viên, kỹ sư hay nhà chuyên môn? Điều gì sẽ xảy ra cho nền kinh tế nơi người có tài không còn muốn ở lại để cống hiến? Sớm muộn gì họ cũng sẽ rơi vào trạng thái nghèo nàn cùng cực và bị những nước khác bóc lột. Ngược lại, một số nước được chuẩn bị tốt để giữ chân lực lượng lao động có kỹ năng của mình ở lại. Họ có chính sách và luật pháp để tạo ra môi trường kinh doanh tốt hơn, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như, trong vòng hai mươi năm, Ấn Độ đã trở thành trung tâm CNTT khi nhiều công ty khoán ngoài công việc CNTT cho Ấn Độ với doanh thu lên đến 97 tỉ đô-la vào năm 2010. Trong khi đó, Trung Quốc lại trở thành trung tâm chế tạo, sản xuất nhiều sản phẩm với chi phí thấp và tạo ra hàng trăm triệu việc làm cho công dân của mình.
Toàn cầu hóa mở ra nhiều cơ hội hơn nhưng cũng nhiều cạnh tranh hơn giữa các quốc gia, công ty và cá nhân. Các công ty không tích hợp yếu tố toàn cầu hóa vào chiến lược của mình sẽ không thể đáp ứng nhanh chóng với sự cạnh tranh và có thể không tồn tại nổi. Với toàn cầu hóa, cơ hội để tăng trưởng là vô hạn cho nên những người quản lý cấp cao phải lập kế hoạch chiến lược của họ tương ứng. Thay vì sợ hãi, họ phải dùng toàn cầu hóa như là yếu tố tạo sự khác biệt cho công ty của họ, bằng không đối thủ cạnh tranh sẽ làm điều đó. Điều tương tự cũng xảy ra với những người lao động không trau dồi kỹ năng của mình. Họ có thể không có khả năng giữ được việc làm lâu. Với toàn cầu hóa, cơ hội việc làm là vô hạn. Người lao động cần có thái đội học tập suốt đời, hiểu thị trường việc làm cần gì và chuẩn bị để đáp ứng. Thay vì có thái độ thụ động, họ phải chủ động và dùng kỹ năng của mình như là yếu tố tạo sự khác biệt, bằng không người khác sẽ làm điều đó.
Toàn cầu hóa là cách tiếp cận động, luôn thay đổi qua thời gian. Nó bao gồm nhiều pha, các nhà kinh tế gọi đó là những làn sóng.
Làn sóng thứ nhất của toàn cầu hóa liên quan đến yếu tố chi phí – các công ty chuyển công việc sang nước có chi phí thấp hơn để gia tăng lợi nhuận. Chi phí là yếu tố chính của mọi quyết định khoán ngoài. Bởi vì những công việc này chỉ cần nhân công được đào tạo trong thời gian ngắn nên sự cạnh tranh sẽ hết sức gay gắt. Phần lớn công việc sẽ được chuyển từ nước có chi phí thấp sang nước có chi phí thấp hơn, cho nên một số nước sẽ tiếp tục hạ thấp chi phí hơn nữa để thu hút vốn đầu tư. Nhưng lợi ích sẽ giảm dần qua thời gian. Ví dụ về làn sóng đầu tư thứ nhất là đầu tư nước ngoài vào các ngành dệt may, giày dép, chế tạo nhẹ, v.v... Phần lớn các nhà kinh tế học đều tiên đoán làn sóng thứ nhất kéo dài từ mười đến hai mươi năm.
Làn sóng thứ hai của toàn cầu hóa liên quan đến chất lượng và tính hiệu quả. Để chuẩn bị cho làn sóng thứ hai, cải tiến giáo dục là yếu tố quan trọng, nhưng chỉ vài nước có thể thực hiện thành công. Làn sóng thứ hai được coi là sự “bùng phát kinh tế”, thúc đẩy nền kinh tế đạt đến chuẩn cao hơn. Việc trả lương cao hơn có thể đem lại ích lợi lớn hơn cho nền kinh tế. Theo một số nghiên cứu, một công việc trong lĩnh vực công nghệ cao có thể sinh ra tám đến mười hai công việc gián tiếp, tùy theo môi trường địa phương. Thay vì gia công với lao động trình độ thấp, các công ty toàn cầu sẽ đầu tư để tận dụng lực lượng lao động có kỹ năng. Ví dụ về làn sóng đầu tư thứ hai là đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, kinh doanh, thương mại, dịch vụ CNTT v.v… Hầu hết các nhà kinh tế học đều dự đoán làn sóng thứ hai có thể kéo dài từ hai mươi đến năm mươi năm.
Làn sóng thứ ba của toàn cầu hóa liên quan đến việc đạt hiệu quả và canh tân ở nơi mà các công ty tận dụng ưu thế thành công của các pha trước. Kỹ năng chuyên sâu là yếu tố chính của mọi quyết định cộng tác. Pha này là pha tối thượng của toàn cầu hóa vì giá trị được đặt trên sự cộng tác lẫn nhau giữa các nước, các công ty, nơi mối quan hệ chuyển từ khách hàng và nhà cung cấp thành đối tác. Nó dựa trên tính sẵn có của kỹ năng chuyên sâu ở nước được đầu tư. Trong pha này, toàn cầu hóa đi vào trạng thái cân bằng, nơi cả hai bên hình thành liên minh để tận dụng ưu thế của toàn cầu hóa. Liên minh sẽ cạnh tranh và chi phối các công ty khác trong nhiều lĩnh vực. Là đối tác, mức lương sẽ là như nhau vì luồng công việc và nghiên cứu chảy tự do từ đối tác này sang đối tác khác. Ví dụ về làn sóng đầu tư thứ ba là đầu tư nước ngoài vào phòng thí nghiệm nghiên cứu và phát triển (R&D) sản phẩm, định vị lại chiến lược của đối tác kinh doanh v.v… Phần lớn các nhà kinh tế học đều dự đoán làn sóng này kéo dài lâu, có thể hàng trăm năm hoặc hơn.
Không phải mọi công ty đều chuyển sang làn sóng đầu tư thứ hai hay thứ ba. Một số công ty thỏa mãn với việc tập trung vào chi phí - ích lợi và sẽ tiếp tục chuyển công việc sang các nước chi phí thấp. Tuy nhiên, chi phí chuyển việc và tiếp tục tìm vị trí mới sẽ giảm ưu thế chi phí, và cuối cùng sẽ không còn mấy lợi ích. Công ty chỉ nhìn vào chi phí sẽ thu được lợi ích giới hạn và sẽ bị vỡ mộng trong dài hạn. Các nhà cung cấp chỉ tập trung vào ưu thế về chi phí lao động sẽ không phát đạt được lâu. Tất nhiên, không phải mọi công ty đều sẽ hoàn thành cả ba đợt sóng này, một số sẽ không thực hiện và biến mất vì cạnh tranh sẽ gay gắt hơn khi các công ty chuyển từ pha này sang pha kế tiếp. Việc đạt đến giai đoạn cuối cùng của “làm chủ toàn cầu” nên là mục đích của mọi công ty.
Ngày nay, một số công ty giữ vai trò lãnh đạo toàn cầu, nhưng nhiều công ty khác đang trải qua thử thách. Với công nghệ mới, xu hướng mới, không ai có thể tự tin được lâu vì mọi sự cứ thay đổi. Không ai có thể duy trì được vị thế mà không cập nhật kỹ năng. Cũng như những đợt sóng trên đại dương không bao giờ dừng, sự tiến bộ tùy thuộc vào nhận biết, hiểu biết và sẵn lòng hành động để đi cùng với thời gian thay đổi.
Làn sóng toàn cầu hóa thứ hai
Trong hơn hai mươi năm qua, công nghiệp khoán ngoài của Ấn Độ đã được xây dựng dựa trên các kỹ sư phần mềm “chi phí thấp”. Bắt đầu từ năm 2013, các công ty Ấn Độ thuê hàng nghìn kỹ sư phần mềm “chi phí cao” trên khắp thế giới. Sự dịch chuyển này phản ánh việc hướng đến làn sóng thứ hai của toàn cầu hóa và việc tăng độ phức tạp của công việc tri thức yêu cầu kỹ năng cao hơn vốn không tìm thấy được ở Ấn Độ. Vì cầu tăng lên nhưng cung bị giới hạn, các công ty Ấn Độ đang phái các đại diện đi tìm nhân công có kỹ năng ở bất kỳ nơi nào họ có thể tìm được người. Đồng thời, các công ty Mỹ như Hewlett-Packard, IBM, Microsoft, Google, Facebook và Accenture cũng tuyển mộ ồ ạt để tìm các tài năng ở nước ngoài. Cuộc cạnh tranh toàn cầu về nhân công có kỹ năng đã bắt đầu.
Khi các công ty công nghệ Mỹ bắt đầu tuyển mộ các kỹ sư phần mềm ở Đông Âu, thì nhiều công ty Ấn Độ đã có mặt ở đó, ít nhất cũng vài tháng trước họ. Ngày nay, các công ty CNTT Ấn Độ đang cạnh tranh gay gắt với các công ty Mỹ về kinh doanh toàn cầu, và chìa khóa trong cuộc chiến này là thuê tài năng giỏi nhất với bất cứ giá nào.
Khi các công ty Ấn Độ năng nổ thuê người và sẵn lòng trả nhiều tiền hơn, nhiều công ty Mỹ đột nhiên thấy họ lâm vào thế phòng ngự. Những công ty như Google lập tức tuyên bố một đợt tăng lớn về lương cho mọi nhân viên để ngăn cản việc ra đi của nhân viên sang đối thủ cạnh tranh. Các công ty tăng trưởng nhanh như Facebook, Twitter cũng gặp khó trong việc tìm nhân công có kỹ năng. Mặc cho suy thoái và thất nghiệp cao ở những lĩnh vực khác, công nghiệp phần mềm vẫn tăng trưởng với mức cao. Nhiều công ty CNTT Ấn Độ bây giờ thiết lập trung tâm phát triển phần mềm ở Mỹ và châu Âu vì nhu cầu tăng lên nhanh chóng.
Một nhà quản lý cấp cao trong lĩnh vực CNTT của Ấn Độ nói: “Trò chơi chi phí thấp đã qua rồi. Bây giờ là cuộc chơi về kỹ năng. Chúng tôi không còn là công ty ‘lao động chi phí thấp’ nữa mà muốn là công ty giỏi nhất. Chúng tôi muốn thách thức IBM, Microsoft, Oracle và Google. Chúng tôi muốn là công ty phần mềm lớn nhất trong ngành này”.
Trong những năm qua, số lượng triệu phú và tỉ phú người Ấn Độ tăng lên. Trong năm mươi người giàu nhất thế giới, có mười người xuất thân từ Ấn Độ và sáu người làm trong lĩnh vực CNTT. Một quan chức điều hành cấp cao của Ấn Độ nói với báo chí địa phương rằng: “Vài năm trước đây, nhiều công ty đến với chúng tôi bởi vì họ muốn chi phí thấp của chúng tôi. Bây giờ họ đến với chúng tôi bởi vì họ cần kỹ năng của chúng tôi. Vài năm trước, chúng tôi coi hợp đồng vài trăm nghìn đô-la là tốt. Bây giờ, chúng tôi tập trung vào các hợp đồng trị giá hàng triệu đô-la trở lên. Vài năm trước, lợi nhuận hàng triệu đô-la là tin mừng. Ngày nay, chúng tôi tính toán lợi nhuận theo tỉ đô-la. Khi mà kỹ năng cao hơn được cần đến, chúng tôi còn tập trung vào lao động giá rẻ nữa vì khách hàng sẵn lòng trả nhiều tiền hơn cho dịch vụ của chúng tôi”.
Với lực lượng lao động có kỹ năng cao ở Mỹ, các công ty Ấn Độ đang ngăn cản luồng chảy ra của công việc CNTT sang các nước khác. Một chuyên gia dự báo: “Nếu các công ty Ấn Độ có thể thực hiện điều đó ở Mỹ và châu Âu, sẽ rất khó cho bất kỳ ai cạnh tranh với họ. Bạn không thể kiên nhẫn chờ đợi khách hàng tìm đến bạn bởi vì bạn có chi phí thấp hơn. Đối thủ cạnh tranh đã ở trong nhà khách hàng của bạn và nắm bắt toàn bộ sự việc, họ có thể đưa ra cả kỹ năng cao và chi phí thấp. Nếu Trung Quốc và các nước khác không có nước đi tương tự, sẽ không còn lại gì cả”.
Tác động của toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa có thể được định nghĩa như việc dịch chuyển của sản phẩm, dịch vụ, công nghệ, thông tin và nhân công trên khắp thế giới. Trước khi áp dụng CNTT, những giao tác này chủ yếu ở dạng xuất khẩu và nhập khẩu; nhưng khi công nghệ phát triển, những giao tác này trở nên dễ dàng hơn và nhanh hơn nhiều. Với CNTT và vận tải nhanh hơn, thế giới đã bắt đầu co lại thành một “ngôi làng toàn cầu”, nơi mọi sự diễn ra với tốc độ của Internet.
Ngày nay, mọi người có thể làm kinh doanh trên khắp thế giới. Những gì bạn cần là một website. Bạn không cần mở cửa hàng, website chính là cửa hàng của bạn. Bạn không cần đi bất cứ nơi đâu để mua hàng vì bạn có thể làm điều đó ở nhà; cái bạn cần là chiếc máy tính có thể truy nhập vào Internet. Bạn có thể tới thăm nhiều cửa hàng trong vài phút; bạn có thể mua hầu hết mọi thứ chỉ bằng cú nhấp chuột. Ngày nay, người bán có thể bán sản phẩm của họ trực tiếp cho người mua mà không phải qua trung gian. Người mua có thể được lợi dưới dạng giá tốt hơn và chi phí thấp hơn. Với CNTT, người bán ở châu Phi có thể bán sản phẩm cho người mua ở châu Âu qua website của mình. Với vận tải hàng không tốt, người mua ở châu Âu có thể nhận được sản phẩm chỉ trong vài giờ. Với cú nhấp chuột, người mua ở châu Âu có thể chuyển tiền cho một ngân hàng ở châu Phi và người bán có thể có số tiền đó trong tài khoản ngân hàng của mình trong vòng vài giây. Thương mại điện tử đã giúp tạo ra trên sáu mươi triệu việc làm mới ở các nước đang phát triển trong những năm qua.
Ngày nay, nhân công có kỹ năng có thể làm việc ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào mà không phải rời khỏi nhà. Người lập trình giỏi không cần làm việc cho một công ty, người đó có thể truy cập vào website, làm việc trên đó, gửi kết quả công việc cho khách hàng và nhận thanh toán ngay trong ngày.
Từ góc độ kinh tế, toàn cầu hóa có thể dẫn đến năng suất cao, tính sẵn có của sản phẩm và dịch vụ cho mọi người trên thế giới. Nó có thể dẫn đến chuyên môn hóa trên phạm vi toàn cầu. Quốc gia có đất đai màu mỡ có thể chuyên môn hóa về nông nghiệp và tập trung vào việc sản xuất lương thực, trong khi quốc gia có đất đai kém màu mỡ có thể tập trung chế tạo máy móc và trang thiết bị.
Toàn cầu hóa cũng có nghĩa là mua và bán trên thị trường toàn cầu. Trong hoàn cảnh lý tưởng, bất kỳ nước nào cũng có thể bán không chỉ sản phẩm mà cả lao động và dịch vụ của nó cho cả thế giới. Điều này dẫn đến tiền lương tốt hơn ở nhiều nước nghèo, giúp cải thiện điều kiện kinh tế và tạo sức mua cao hơn trong thị trường toàn cầu. Cạnh tranh toàn cầu cũng có thể dẫn đến hiệu quả cao hơn và chất lượng tốt hơn. Các nước không chú ý đến chất lượng sẽ không thể cạnh tranh với nước có chất lượng cao hơn trong thị trường toàn cầu. Các nước dựa vào chi phí thấp không thể duy trì điều đó, sẽ có các nước khác có chi phí thấp hơn.
Từ góc độ doanh nghiệp, toàn cầu hóa tác động lớn đối với con người và thị trường việc làm địa phương. Khi chế tạo và việc làm chuyển từ các nước có chi phí cao sang các nước có chi phí thấp, việc làm bị mất đi ở các nước phát triển. Mất việc làm cũng trở thành vấn đề chính trị ở các nước phát triển. Mặc dù các nước đang phát triển thu hút được việc làm trong lĩnh vực chế tạo do lao động chi phí thấp nhưng họ cũng bị tác động theo cách khác. Nông dân ở các nước đang phát triển không thể cạnh tranh với nông phẩm từ các nước phát triển với giá thấp hơn và chất lượng tốt hơn vì họ có những nông trại lớn hơn, trang thiết bị tốt hơn và thực hành nông nghiệp hiện đại. Các doanh nghiệp nhỏ ở các nước đang phát triển không thể cạnh tranh với các công ty lớn từ các quốc gia phát triển. Các công ty xuất nhập khẩu, tài chính, ngân hàng sẽ sớm bị xóa sổ khi các tập đoàn khổng lồ về ngân hàng, tài chính và xuất nhập khẩu chuyển vào nước của họ.
Từ góc độ môi trường, toàn cầu hóa có tác động lớn đến môi trường: ô nhiễm và chất thải độc hại. Vì phần lớn các nước đang phát triển không có quy định chặt chẽ cho vấn đề môi trường, nên các công ty từ các nước phát triển có thể tận dụng tình hình này dẫn đến ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng. Phần lớn những hư hại này là vĩnh viễn và không thể đảo ngược. Đất bị ô nhiễm bởi chất thải độc không thể được dùng cho nông nghiệp hay thậm chí để ở. Nó có thể gây ra nhiều bệnh (như ung thư), tỷ lệ tử vong trẻ em cao, v.v…
Từ góc độ vận hành, toàn cầu hóa tác động lớn đến việc quản lý doanh nghiệp vì doanh nghiệp sẽ phải vận hành trên quy mô toàn cầu. Cấu trúc tổ chức sẽ phải thích ứng với sự thay đổi của thị trường, văn hóa địa phương. Với việc tích hợp CNTT, nhiều tổ chức sẽ trở nên phẳng ra để gia tăng hiệu quả. Điều đó có nghĩa là nhu cầu về quản lý cấp trung sẽ ít đi, đặc biệt các chỉ đạo và quyết định mang tính cá nhân sẽ bị thay thế bằng các quy trình chuẩn của tập đoàn. Kiểm soát tập trung hóa từ đỉnh xuống sẽ bị thay thế bằng cấu trúc phi tập trung mới, nơi quyết định có thể được đưa ra ở mức thích hợp dựa trên vai trò và trách nhiệm. Nhiều hoạt động như kế toán, tài chính sẽ được tự động hóa bằng phần mềm. Trao đổi giữa mọi người sẽ được thay thế bằng email, tin nhắn văn bản, thậm chí bằng Facebook hay Twitter. Năng suất của nhân viên sẽ được thu thập bởi phần mềm, có thể phân tích và tóm tắt cho người chủ công ty hàng giờ, thay vì hàng tuần hay hàng tháng.
Với toàn cầu hóa, các công ty toàn cầu đã tìm cách thức mới để bành trướng thị trường của họ bằng việc nhanh chóng chuyển việc bán sản phẩm cho các nước đang phát triển. Dùng nguồn vốn mạnh của mình, quảng cáo thông minh và kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp, họ xóa sổ các công ty địa phương nhỏ hơn và kiểm soát thị trường ở đó. Một số công ty yêu cầu tài nguyên không sẵn có hay quá đắt ở nước họ bằng việc khai thác tài nguyên, phá rừng làm sản phẩm gỗ, đánh bắt cá sông và biển với các đội tàu cho đến khi chẳng còn lại gì, rồi chuyển sang nước khác. Một số công ty khai thác lao động giá rẻ để hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận trong môi trường làm việc kém, nơi công nhân phải làm việc nhiều giờ không nghỉ. Một số công ty dời cơ xưởng chế tạo gây ô nhiễm sang các nước đang phát triển không có quy chế kiểm soát môi trường chặt chẽ và hủy hoại những vùng đất này mãi mãi.
Đây là tình trạng đang diễn ra trên khắp thế giới. Tất nhiên, giải pháp không phải là dừng toàn cầu hóa mà là nhận biết ưu điểm cũng như nhược điểm, và ra quyết định đúng. Một quyết định tốt không chỉ cho tình huống kinh tế hiện thời, mà còn cho tương lai, và thế hệ tương lai những người sẽ phải sống cùng với quyết định mà chúng ta đưa ra hôm nay.
Xu hướng toàn cầu hóa mới
Về mặt lịch sử, Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc tất cả đều đã cải tiến nền kinh tế của họ dựa trên công nghệ và tiếp tục thịnh vượng. Đi theo xu hướng đó, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Nam Mỹ đều có kế hoạch cải tiến nền kinh tế của họ dựa trên chế tạo, nhưng nhiều nước đã thất bại mặc dù họ có nhiều nhân công lao động thấp. Lý do là vì ngày nay, mọi thứ đã thay đổi khi công nghệ chi phối mọi thứ. Việc tự động hóa cơ xưởng đang làm giảm nhu cầu về nhân công không kỹ năng. Ngay cả Trung Quốc, nước đã đầu tư vào số lượng lớn các cơ xưởng và nhân công lao động chi phí thấp cũng gặp khó khăn vì xu hướng tự động hóa này.
Trong ba mươi năm qua, mô hình cơ xưởng lao động chi phí thấp là cách nhanh nhất để cải tiến nền kinh tế, nhưng ngày nay nó không còn phát huy tác dụng do ít có nhu cầu về nhân công không kỹ năng. Theo một báo cáo của chính phủ Mỹ, đến năm 2025, robotics sẽ chi phối phần lớn các cơ xưởng và công việc chế tạo, làm giảm ít nhất là 45% số lượng việc làm. Ngày nay, doanh số bán các robot công nghiệp đã tăng 35%, đạt mức kỷ lục gần 250.000 đơn vị và được mong đợi sẽ giữ đà gia tăng này, 500.000 đơn vị đến năm 2020.
Theo báo cáo này, đến năm 2020, Mỹ sẽ vượt qua Trung Quốc trở thành quốc gia có tính cạnh tranh nhất trên thế giới, do đầu tư của Mỹ vào công nghệ tự động hóa chế tạo. Nước thứ hai có thể là Đức vì Đức đang thúc đẩy nhanh chóng trong sản xuất công nghiệp và phát triển tự động hóa. Mặc dù ngày nay Trung Quốc vẫn là trung tâm chế tạo, nhưng nước này đang vật lộn với dân số lớn của mình vì tự động hóa có thể khiến hàng trăm triệu người mất việc làm.
Theo tờ Wall Street Journal, ba mươi năm trước, Levi Strauss & Co. bắt đầu khoán ngoài chế tạo quần jean cho Trung Quốc, xu hướng này cũng đã thúc đẩy hàng trăm công ty quần áo khác chuyển công việc của họ sang Trung Quốc để tận dụng ưu thế về nhân công chi phí thấp. Bây giờ xu hướng đó đang thay đổi. Ngày nay, chi phí lao động cao hơn ở Trung Quốc và chi phí thấp hơn của tự động hóa cơ xưởng bằng robot làm cho công việc đổi ngược lại xu hướng này. Ngày nay, Levi và nhiều công ty phương Tây bắt đầu đóng các cơ xưởng của họ ở Trung Quốc và chuyển trở về Mỹ.
Những thay đổi này đánh dấu một xu hướng mới trong lịch sử của toàn cầu hóa, nơi tự động hóa hoàn toàn đẩy các nước với lao động chi phí thấp vào tình trạng hỗn loạn. Một nhà kinh tế giải thích: “Ngày nay giá lao động đang trở nên đắt hơn, và công nghệ như robot đang rẻ đi, bằng việc đầu tư vào công nghệ, công ty có thể tăng lợi nhuận gấp ba lần so với những năm trước”.
Nhận thấy việc đóng cửa các cơ xưởng đang diễn ra, nhiều người lãnh đạo các công ty Trung Quốc lập tức đầu tư vào tự động hóa cơ xưởng nhưng chính phủ thì lại ngần ngại chấp nhận xu hướng này vì sợ rằng đất nước có thể rơi vào tình trạng thất nghiệp. Một nhà kinh tế cấp cao giải thích: “Chúng tôi đang đối diện với sự thay đổi trong chính cách chúng tôi sống và làm việc do tốc độ của phát kiến công nghệ. Tiến bộ của robot và trí thông minh nhân tạo tác động lên mọi lĩnh vực, ngành nghề”.
Người ta dự đoán rằng đến 2025, robotics sẽ là thị trường trị giá 150 tỉ đô-la, với robot thực hiện 45% nhiệm vụ chế tạo so với 10% như hiện nay. Các nhà kinh tế dự đoán: “Robot và trí thông minh nhân tạo đang trở thành phần tích hợp của cuộc sống thường ngày của chúng ta”. Mọi người sẽ du hành trên xe tự lái, nhận hàng được chuyển bằng máy bay trực thăng, và phần lớn việc làm sẽ yêu cầu người lao động được đào tạo về Khoa học, Công nghệ, Kỹ nghệ và Toán học (STEM).
Ngày nay, nhiều người đang nêu ra câu hỏi khi nào robot đạt đến điểm thông minh hơn người. Nhiều nhà lãnh đạo các nước đang lo lắng về tác động của robot lên xã hội. Nếu robot làm mọi công việc của người lao động, điều đó sẽ tạo ra chấn động xã hội và sụp đổ. Một nhà khoa học nói: “Bất kỳ ai kiểm soát những robot này sẽ trở thành người lãnh đạo thế giới. Quốc gia với phát kiến công nghệ mạnh sẽ là quốc gia mạnh nhất trên trái đất”.
KHOÁN NGOÀI TOÀN CẦU
Tổng quan về khoán ngoài toàn cầu
Ngày nay, Ấn Độ vẫn còn là quốc gia khoán ngoài CNTT mạnh, với 87 tỉ đô-la xuất khẩu phần mềm so với 2,6 tỉ đô-la của Trung Quốc và 1,1 tỉ đô-la của Nga (dữ liệu năm 2009). Thị trường khoán ngoài ước lượng cỡ hai nghìn tỉ đô-la đang tăng trưởng mặc cho cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nhiều nước đang đi theo mô hình của Ấn Độ vì: loại hình kinh doanh này không tốn kém nhiều, đây là ngành công nghiệp sạch, lợi nhuận cao, tạo ra nhiều việc làm, và chỉ cần đầu tư vào giáo dục và đào tạo.
Theo Gartner, hãng tư vấn chuyên về CNTT, “chín mươi phần trăm của những giao dịch khoán ngoài trên thị trường ngày nay được cấu trúc quanh lực lượng lao động có kỹ năng và giảm chi phí. Cứ ba đến bốn năm, sau khi giảm mọi chi phí có thể, các công ty sẽ tìm vị trí mới và nhà cung cấp mới với chi phí thấp hơn các nhà cung cấp trước”. Tuy nhiên, việc chuyển phần mềm sang các nước có chi phí thấp hơn mang rủi ro lớn với sự khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa, nhưng rủi ro lớn nhất là tri thức và kỹ năng của nhà cung cấp mới. “Nếu họ không có kinh nghiệm và không làm tốt, điều đó có thể phủ định mọi quyết định giảm chi phí”.
Ngày nay, Đông Âu là đích đến chính cho nhiều công ty châu Âu cần nhân công kỹ năng cao và chi phí thấp. Các nước như Ba Lan, Romania, Hungary rất năng nổ trong việc kiếm kinh doanh khoán ngoài. Khi Bob Gett, CEO của Optaros, một công ty ở Boston, quyết định khoán ngoài ra nước ngoài, ông ấy đã đến thăm bảy nước và cuối cùng đã dừng lại ở Bucharest, Romania. Gett thấy sự hấp dẫn của Romania bởi vì hệ thống giáo dục tốt, người dân dùng đa dạng ngôn ngữ và nhiều tài năng kỹ thuật. Giao tác khoán ngoài giúp giảm chi phí đến 60% và cho phép Optaros đưa ra giá tốt hơn cho khách hàng của mình.
Nga cũng là một lựa chọn khác cho khoán ngoài do hệ thống giáo dục tuyệt hảo của họ. Nhân công phần mềm của họ đắt hơn Ấn Độ và Trung Quốc nhưng họ có các kỹ năng mà các nước khác không có. Giá nhân công của Ấn Độ và Trung Quốc rẻ hơn nhưng có giới hạn về điều họ có thể làm. Nếu công ty cần các nhà khoa học hàng đầu, các kỹ sư hàng đầu với nhiều kinh nghiệm, Nga chính là lựa chọn.
Ở Trung Quốc, Đại Liên đang trở thành trung tâm lý tưởng cho khoán ngoài, vì sự gần gũi của nó đối với Hàn Quốc và Nhật Bản, có số đông kỹ sư CNTT có thể nói lưu loát tiếng Nhật và Hàn. Đại Liên cũng là đối thủ cạnh tranh với Bangalore, Ấn Độ bởi vì nó có lực lượng lao động phần mềm có kỹ năng, chi phí thấp hơn và đặc biệt dễ làm kinh doanh. Chính quyền địa phương đã hợp lý hóa mọi công việc giấy tờ để các công ty nước ngoài đầu tư vào Đại Liên. Công ty nước ngoài được phép mở doanh nghiệp trong vòng hai ngày, so với sáu mươi ngày ở Bangalore, Ấn Độ. Năm 2009, có ba nghìn công ty nước ngoài đầu tư hay tái đầu tư vào Đại Liên làm thành phố này trở thành “thành phố tăng trưởng nhanh nhất ở Trung Quốc” với ba triệu việc làm phần mềm được tạo ra trong chưa tới một năm.
Nam Mỹ cũng là nơi hấp dẫn bởi vì múi giờ tương tự với Mỹ và có kết cấu hạ tầng mạnh. Brazil chỉ mới xuất khẩu được 300 triệu đô-la phần mềm nhưng đang tăng trưởng nhanh. Các công ty đổ về Brazil, với những cảng hàng không và xa lộ hạng nhất. Vận tải tốt, hệ thống giáo dục mạnh, ngay cả nhân công phần mềm ở Brazil cũng đắt hơn ở Ấn Độ hay Trung Quốc.
Châu Phi có lẽ là người chơi mới nhất. Vài nước châu Phi đang thiết lập kết cấu nền của họ và sẵn sàng cho kinh doanh khoán ngoài. Có lẽ họ có chi phí kinh doanh thấp nhất vì nhân công phần mềm của họ sẵn lòng làm việc với ít tiền hơn. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục của họ vẫn cần nhiều cải tiến trước khi họ có thể thực sự cạnh tranh.
Trong khi công nghiệp khoán ngoài đang tăng trưởng nhanh và cạnh tranh ở mọi nơi, bức tranh này lại không tốt cho Philippines. Vài năm trước, Philippines chiếm phần chính của thị trường do ưu thế về ngôn ngữ nhưng hệ thống giáo dục của họ chậm chạp thay đổi, làm cho lực lượng lao động của họ bị lạc hậu về công nghệ. Ngày nay, nhiều công ty đang rời bỏ Philippines khi hợp đồng của họ chấm dứt và đi tìm những chỗ tốt hơn và nhân công có kỹ năng tốt hơn. Bây giờ nhân công Philippines phải đương đầu với nhân công trên khắp thế giới có giáo dục tốt hơn và kỹ năng tốt hơn.
Thu hút doanh nghiệp khoán ngoài
Các công ty toàn cầu đã ứng dụng CNTT như là chiến lược để cải thiện tính hiệu quả, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và cải tiến chất lượng. Về tổng thể, chiến lược này đã rất hiệu quả trong việc làm tăng nhu cầu về nhân công CNTT. Tuy nhiên, có sự khan hiếm lưu lượng này ở các nước phát triển. Để lấp đầy lỗ hổng này, nhiều nước đã ban hành luật di trú đặc biệt cho phép nhân công có kỹ năng từ nước khác đến để đáp ứng nhu cầu đang gia tăng của họ.
Các nước đang phát triển rất cần những nhân công này ở nước họ để họ có thể cải thiện nền kinh tế, nhưng nhiều nước không biết làm thế nào để ngăn việc “chảy máu chất xám”. Một trong những giải pháp tốt nhất là thúc đẩy phát triển công nghiệp khoán ngoài, để những người có kỹ năng có thể làm việc cho các công ty nước ngoài nhưng vẫn sống ở quê nhà. Đây là điểm thành công của Ấn Độ trong suốt hàng chục năm qua.
Lúc ban đầu, phần lớn việc làm được chuyển đến Ấn Độ là những công việc kỹ năng thấp nhưng điều đó đã thay đổi. Khi người lao động học các kỹ năng chất lượng cao (như kiến trúc và thiết kế, ngân hàng và tài chính, công nghệ máy bay và nghiên cứu y dược), các công việc yêu cầu kỹ năng cao bắt đầu chảy về Ấn Độ. Ngày nay, các công ty hàng không như Boeing và Airbus đang sử dụng hàng nghìn người Ấn Độ trong những công việc có tính thách thức (như viết phần mềm cho buồng lái máy bay và hệ thống ngăn cản đụng độ trên không). Các ngân hàng đầu tư như Morgan Stanley đang thuê hàng nghìn người Ấn Độ để phân tích thị trường chứng khoán toàn cầu, công việc mà thông thường phải trả lương hàng trăm nghìn đô-la ở Phố Wall. Công ty y dược, như Eli Lilly, gần đây đã chuyển nhiều bằng phát minh nghiên cứu cho các công ty Ấn Độ để chế tạo thuốc bởi vì loại công việc này sẽ tốn kém khá nhiều nếu được làm ở Mỹ hay châu Âu.
Theo nhiều nghiên cứu, trong mười năm qua, các công ty toàn cầu đang sử dụng hàng triệu người Ấn Độ có kỹ năng cao làm việc ở Ấn Độ. Điều này đã tạo ra những việc làm phụ vượt quá hàng trăm triệu đô-la để hỗ trợ cho nền công nghiệp khoán ngoài tăng trưởng nhanh, và cải thiện GDP của Ấn Độ trên 25%. Thành công này cũng cho phép nhiều công ty xem Ấn Độ như là tổng hành dinh thứ hai, phái những quan chức điều hành cấp cao đến làm việc ở đó. Chẳng hạn như, Cisco Systems đã quyết định 20% lực lượng lao động của mình phải ở Ấn Độ trong vòng năm năm tới; gần đây công ty đã chuyển một trong những quan chức điều hành cấp cao nhất tới Bangalore. Accenture, công ty tư vấn toàn cầu khổng lồ, cũng có quan chức điều hành toàn thế giới làm việc ở Bangalore vì nó đã có nhiều nhân viên ở Ấn Độ hơn ở Mỹ.
Gần đây, luồng công việc đến Ấn Độ đột nhiên vấp phải vài vấn đề chính: sự chậm chạp cải tiến hệ thống giáo dục và kết cấu hạ tầng của Ấn Độ. Ngày nay, thiếu hụt nước và nguồn điện là “bệnh” ở Ấn Độ. Điều này đã làm đình trệ nhiều công việc khoán ngoài ở đó. Có sự thiếu hụt gay gắt nhân công có kỹ năng CNTT vì trường đại học không thể tạo ra đủ nhân công để đáp ứng cho nhu cầu cao, và chính phủ dự báo rằng Ấn Độ sẽ cần thêm năm trăm ngàn kỹ sư phần mềm mỗi năm. Tuy nhiên các vấn đề ở Ấn Độ mở ra nhiều cơ hội cho các nước khác như Trung Quốc, Brazil và Đông Âu.
Mối quan tâm đang tăng lên của các công ty phương Tây đối với nhân công có kỹ năng đã dẫn đến cuộc cạnh tranh giữa các nước như Trung Quốc, Brazil và Mexico. Tiến sĩ Blinder, giảng viên ở Đại học Princeton, bình luận về sự dịch chuyển trong việc làm từ phương Tây sang các nước đang phát triển: “Cho đến giờ, chúng ta đã thấy rõ tảng băng của việc thuê làm ở nước ngoài. Trong tương lai gần, nhiều công ty phương Tây sẽ gửi nhiều công việc hơn (như kế toán, tài chính, phát triển phần mềm và chế tạo) sang các nước khác bởi vì làm điều đó dễ dàng và rẻ hơn nhiều. Toàn cầu hóa dứt khoát sẽ thay đổi mọi thứ và tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các nước đang phát triển nếu họ biết cách tận dụng ưu thế của nó. Nếu bạn hỏi làm thế nào để thu hút doanh nghiệp khoán ngoài vào nước của bạn, câu trả lời của tôi là cần có hệ thống giáo dục tốt có thể tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng cao, chi phí kinh doanh thấp, kết cấu hạ tầng tốt và sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chính phủ”.
Vấn đề liên quan đến khoán ngoài
Trong hai mươi năm qua, những công ty sản xuất muốn giảm chi phí sẽ khoán ngoài cho các nước có chi phí thấp như Trung Quốc, Malaysia, hay Thái lan. Ngày nay, nhiều công ty đang nhận ra rằng khoán ngoài không phải là điều họ nghĩ họ sẽ thu được và kinh doanh ở nước ngoài có nhiều rắc rối hơn.
Một người chủ công ty giải thích: “Nhiều nước không sẵn sàng làm kinh doanh toàn cầu. Khoán ngoài là việc kinh doanh dài hạn nhưng họ chỉ nhìn trong ngắn hạn. Họ hứa hẹn nhiều nhưng không bao giờ giữ lời hứa, phần lớn các sản phẩm có chất lượng thấp, nhiều vật tư bị mất hay bị đánh cắp. Việc lạm dụng nhân công lao động cũng tạo ra hình ảnh xấu cho công ty chúng tôi, và nhiều quan chức chính phủ đòi hối lộ. Đó không phải là điều chúng tôi mong đợi”.
Một đại diện công nghiệp phàn nàn: “Như là một chiến lược dài hạn, chúng tôi đào tạo họ, đầu tư cho họ, giúp họ xây dựng sản phẩm và chúng tôi hy vọng có thể làm ăn với họ như là đối tác trong thời gian dài. Nhưng sau tất cả những cuộc đầu tư khởi đầu này, họ sao chép sản phẩm của chúng tôi, rồi lập công ty riêng cạnh tranh với chúng tôi. Họ bán sản phẩm với giá thấp hơn để thâu tóm thị trường. Bây giờ chúng tôi nhận ra rằng khoán ngoài là một hình thức kinh doanh tồi. Đó là lý do tại sao chúng tôi đem cơ xưởng trở về Mỹ”.
Một người chủ công ty giải thích: “Những công ty này không có tầm nhìn dài hạn. Họ chỉ làm bất cứ điều gì làm tăng lợi nhuận cho bản thân họ, kể cả gian lận và làm giả tài liệu. Hầu hết các công ty khoán ngoài đều phải giải quyết vấn đề chất lượng. Năm 2003, công ty chúng tôi khoán ngoài công việc cho công ty Trung Quốc để làm mạch điện tử. Nhưng mỗi lần chuyển hàng lại bị lỗi, với nhiều bo mạch được làm từ vật liệu sai, hay được dán nhãn giả “đã xác nhận”. Chúng tôi đòi hỏi bo mạch chất lượng cao cho các trang thiết bị điện tử của chúng tôi. Chúng tôi cần hàng triệu bo mạch vào một lúc nhưng chúng tôi đã phải bỏ khoảng một nửa do chất lượng kém. Họ cứ nói rằng: “Nó tốt rồi, và chẳng ai biết đâu”. Vì chúng tôi bán hầu hết sản phẩm vào dịp lễ Giáng sinh, nếu không có đủ bo mạch điện tử, chúng tôi không thể sản xuất đủ sản phẩm để bán và bỏ lỡ việc bán hàng. Sau vài năm, chúng tôi mất nhiều tiền, khách hàng của chúng tôi rất không hài lòng về chất lượng cho nên chúng tôi thôi khoán ngoài”.
Một người chủ công ty khác nói: “Khi kinh doanh ở nước ngoài, anh sẽ gặp phải các vấn đề liên quan đến hậu cần, ngôn ngữ và văn hóa. Anh phải xử lý chuyện trộm cắp và hối lộ nữa, nhưng điều tệ nhất là qua thời gian, đối tác của anh trở thành đối thủ cạnh tranh của anh. Sớm hay muộn, anh sẽ thấy họ sao chép sản phẩm của anh và bán chúng với giá thấp hơn. Anh không thể kiện họ, đưa họ ra tòa vì luật pháp bảo vệ họ. Khoán ngoài là một câu chuyện kinh hoàng”.
Những vấn đề này đã buộc nhiều công ty chuyển sản xuất trở lại Mỹ và châu Âu. Đưa việc làm về nhà không chỉ cải thiện chất lượng mà còn làm cho kinh doanh bớt rủi ro hơn. Hai mươi năm trước, lương trung bình ở Trung Quốc bằng khoản một phần mười của Mỹ, và các công ty Trung Quốc thường nói: “Tại sao phải thuê một người Mỹ khi chúng ta có thể thuê mười người Trung Quốc”. Ngày nay, chi phí kinh doanh ở Trung Quốc đã tăng từ 10 - 25% một năm, lương trung bình bằng khoảng một nửa của Mỹ. Khi cộng thêm chi phí vận chuyển và chi phí nhiên liệu cao thì chế tạo khoán ngoài không còn là món hời.
Việc đưa sản xuất trở về Mỹ và châu Âu có thể tạo ra cơ hội mới cho hàng nghìn nhân công thất nghiệp. Tuy nhiên, khi nhiều công ty đem công việc trở lại, nó tạo ra sự không chắc chắn và sợ hãi cho các nước có chi phí thấp, nơi nền kinh tế phụ thuộc vào chế tạo khoán ngoài như Trung Quốc, Malaysia và Thái lan. Một số nhà kinh tế cảnh báo rằng việc rút công việc về sẽ làm cho nền kinh tế của những nước này trở nên không ổn định, do số nhân công thất nghiệp cao. Một nhà kinh tế nói: “Chính phủ có thể giải quyết được hàng nghìn hay hàng trăm nghìn công nhân thất nghiệp, nhưng khi con số này lên đến vài triệu thì sẽ có bạo loạn. Điều đó sẽ tạo ra nhiều vấn đề cho bất kỳ chính phủ nào. Trong nhiều năm, người của họ tận hưởng sự thịnh vượng về kinh tế, rồi đột nhiên nó mất đi. Nếu bạn không chuẩn bị đối phó với tình huống này, có thể là quá trễ”.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Cách mạng Công nghiệp 4.0 không thể trì hoãn
Lý do chúng ta gọi đây là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vì đã có ba cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra trước đó. Cách mạng công nghiệp thứ nhất dựa trên việc phát minh ra động cơ hơi nước, nhờ đó máy móc có thể được dùng trong nhiều ngành để tăng năng suất. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai dựa trên việc phát minh ra điện, tạo khả năng phát triển công nghiệp chế tạo lớn (như ô tô, dầu, khí v.v…). Cách mạng công nghiệp lần thứ ba dựa trên việc phát minh ra các cấu phần điện tử và máy tính, tạo khả năng phát triển công nghiệp phần cứng và phần mềm, liên lạc di động và Internet. Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư lại KHÔNG dựa trên những phát minh mới như ba cuộc cách mạng đầu, mà tích hợp nhiều phát minh trước đây vào trong phát kiến mới (như Robotics, trí thông minh nhân tạo, công nghệ nano, công nghệ sinh học v.v…). Cần phân biệt rõ, “phát minh” là tạo ra cái gì đó mới, nhưng “phát kiến” là tạo ra giá trị cho phát minh đã có. Chẳng hạn như, bộ vi xử lý là phát minh nhưng nó chỉ là một cấu phần điện tử trên bảng mạch. Song, việc áp dụng bộ vi xử lý hay “phát kiến của phát minh này” đã tạo ra hàng nghìn sản phẩm, từ máy tính đến điện thoại di động và nhiều sản phẩm khác mà chúng ta đang dùng ngày nay.
Bằng cách kết nối những phát kiến này, chúng có thể phá vỡ các doanh nghiệp và nền công nghiệp hiện thời bằng việc tối ưu hóa năng suất và lợi nhuận cho những người có thể tận dụng ưu thế của chúng. Nói cách khác, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là về việc “ÁP DỤNG” công nghệ để tạo ra nhiều “PHÁT KIẾN” cho những người biết cách tận dụng ưu thế của cơ hội này.
Ngày nay, mọi quốc gia đều bị tác động bởi cuộc cách mạng này. Lý do mọi người không nhìn thấy nó là vì họ đã dùng chúng một cách vô ý thức. Chẳng hạn như, khi bạn gửi cho tôi một email, bạn đã dùng công nghệ rồi, phải không? Bạn đã bao giờ hỏi điều gì xảy ra khi nhiều người dùng email không? Điều gì xảy ra cho bưu điện? Điều gì xảy ra cho những người đưa thư? Ngày nay, mọi người đều dùng điện thoại di động, điện thoại hữu tuyến sẽ sớm mất đi. Bạn có hỏi điều gì xảy ra cho những người làm việc trong ngành điện thoại hữu tuyến không? Ngày nay, mọi người đọc báo trực tuyến, xem tin tức trên YouTube và chia sẻ thông tin trên Facebook. Điều gì sẽ xảy ra cho báo giấy? Về căn bản, những phát kiến mới phá vỡ các ngành công nghiệp, các doanh nghiệp, và cuộc sống của những người làm việc ở đó. Khi bạn dùng máy tính, điện thoại di động, xem tin tức trên YouTube hay chia sẻ thông tin trên Facebook, bạn là “NGƯỜI TIÊU THỤ” những phát kiến này. Bạn đã bao giờ hỏi ai sẽ được lợi từ những phát kiến này không? Tôi chắc chắn bạn quen thuộc với Microsoft, Apple, Facebook, hay Bill Gates, Steve Jobs, Mark Zuckerberg v.v…
Không lâu trước đây, mọi người chụp ảnh bằng máy chụp phim, nhưng ngày nay họ chụp ảnh bằng máy ảnh kỹ thuật số hay điện thoại di động. Điều gì xảy ra cho những người làm việc trong ngành phim ảnh? Ngày nay, 35% số người trên thế giới đang mua hàng trực tuyến, nhưng con số này sẽ sớm lên đến 60% và nhiều hơn. Đến lúc đó, nhiều cửa hàng truyền thống sẽ biến mất. Điều gì sẽ xảy ra cho những người kiếm sống hay làm việc trong các cửa hàng này? Khi bạn dùng những sản phẩm và dịch vụ này, bạn là “KHÁCH HÀNG” của những phát kiến mới, nhưng bạn có bao giờ hỏi ai sẽ được lợi từ những phát kiến này không? Tôi chắc bạn đã nghe nói đến Amazon, Alibaba, Tencent v.v…
Ngày nay, bạn có lẽ đã nghe nói về xe hơi và xe tải tự lái. Người ta dự báo đến năm 2030, phần lớn các xe hơi và xe tải sẽ là xe tự hành, vậy điều gì sẽ xảy ra cho tài xế taxi và tài xế xe tải? Ba mươi năm trước, nhiều công ty chế tạo đã “khoán ngoài” công việc của họ cho các nước có chi phí lao động thấp như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia để giữ cho chi phí của họ hạ xuống và lợi nhuận tăng lên. Ngày nay, với phát kiến như robot thông minh và máy in 3D, nhiều công ty “khoán trong” công việc của họ trở lại chính quốc vì chi phí máy móc thấp hơn chi phí cho con người nhiều. Điều đó đẩy hàng triệu nhân công ở Trung Quốc và Ấn Độ vào danh sách thất nghiệp. Người ta dự báo rằng đến năm 2030, phần lớn các cơ xưởng sẽ dùng robot và hệ thống tự động hóa thông minh. Vậy thì điều gì sẽ xảy ra?
Trong thế giới được dẫn lái bởi công nghệ này, thông tin là sẵn có gần như ở mọi nơi và gần như mọi lúc, máy tính có ở mọi nơi, liên lạc là tức khắc và năng lực lưu giữ là vô hạn. Nhưng tất cả các công nghệ này chỉ làm lợi cho những người biết dùng chúng một cách hiệu quả. Đó là lý do tại sao tôi tin mọi người đều cần có tri thức và kỹ năng cơ bản để dùng các công nghệ này một cách hiệu quả, và mọi hệ thống giáo dục đều phải tái định hướng để tập trung nhiều hơn vào khoa học và công nghệ để sản sinh ra những người có kỹ năng kỹ thuật.
Theo một báo cáo công nghiệp, đến năm 2020, ước lượng sẽ có 50 tỉ thiết bị được kết nối trên thế giới. Từ điện thoại thông minh, nhà thông minh, thành phố thông minh, các thiết bị nhà bếp thông minh, xe hơi tự lái, xe tải tự lái, bộ giám sát sức khỏe, cơ xưởng thông minh, robot thông minh, v.v... Tổ hợp này là bản chất cho cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một lực mạnh sẽ tác động đến mọi thứ, mọi công ty và mọi quốc gia. Giá trị thị trường của Internet kết nối vạn vật (IoT) được ước lượng là từ 11 nghìn tỉ đô-la Mỹ, và nó có thể cung cấp khoảng mười hai triệu việc làm mới trên toàn cầu.
Mặc dù có sự cạnh tranh giữa các công ty và các quốc gia về thị trường khổng lồ này, nhưng chìa khóa để thực hiện thành công IoT là có hệ thống giáo dục mạnh để tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng cho cuộc cách mạng công nghệ này. Với ưu thế kinh tế khổng lồ, mọi quốc gia đều đang đổ xô vào để nắm lấy cơ hội vì sợ mất thị trường khổng lồ này. Một nhà phân tích công nghệ viết: “Thị trường IoT có thể lớn hơn cả tổ hợp thị trường PC, điện thoại di động và Internet. Nếu thị trường PC tạo ra Microsoft, thị trường điện thoại di động tạo ra Apple, và thị trường Internet tạo ra Google và Facebook, thì chẳng mấy chốc chúng ta sẽ thấy việc nổi lên của công ty công nghệ lớn nhất thế giới. Công ty này là ai và nó đến từ nước nào vẫn là câu hỏi, nhưng cách nhìn thông thường là ai kiểm soát thị trường IoT sẽ kiểm soát cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư”.
Chẳng hạn như, bằng việc áp dụng IoT vào cơ xưởng, máy móc có thể vận hành và cộng tác với nhau để gia tăng chất lượng.Mọi quy trình chế tạo sẽ trở nên thấy được và kiểm soát được bởi máy móc. Là thành viên của tổ các giáo sư robotic, tôi đã đến thăm cơ xưởng xe máy Harley-Davidson, nơi mọi máy móc trong dây chuyền lắp ráp được kết nối đầy đủ. Tôi đã thấy hàng trăm robot làm việc và “trao đổi” với robot khác để sản xuất ra chiếc xe máy. Các quy trình chế tạo được đo và phân tích, rồi gửi đến các robot để chúng có thể học làm công việc tốt hơn. Một người quản lý bảo tôi rằng những robot này đang làm việc cùng nhau một cách nhịp nhàng vì tất cả chúng đều có phần mềm trí thông minh nhân tạo, cho phép chúng nghĩ, học, và phối hợp công việc để tối thiểu hóa các ngắt quãng. Ngày nay, cơ xưởng này có thể sản xuất xe máy mới sau mỗi tám mươi sáu giây, so với nhiều ngày hoặc hơn một tuần trong quá khứ. Tôi hỏi người quản lý: “Điều gì xảy ra cho công nhân lao động?”. Ông ấy giải thích: “Nhiều người được đào tạo để trở thành người phát triển phần mềm để lập trình cho robot, một số người được đào tạo để trở thành người phân tích dữ liệu, thu thập và phân tích dữ liệu cơ xưởng để đảm bảo các robot đang làm việc đúng”. Ông ấy giải thích thêm: “Không có công nhân lao động nhưng có các công nhân công nghệ ở đây. Họ kiểm soát các robot và để robot làm hầu hết công việc. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi hoàn toàn cơ xưởng của chúng tôi”. Người quản lý khác nói: “Mô hình cơ xưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 này đang được sao chép trên khắp thế giới. Nhiều công ty bắt đầu đi theo sự dẫn dắt của chúng tôi, và chẳng bao lâu toàn thể ngành công nghiệp chế tạo sẽ thay đổi”.
Chúng ta cũng bắt gặp cách nhìn này trong ngành công nghiệp bán lẻ. Ngày nay, phần lớn các cửa hàng đều bị thách thức bởi cửa hàng trực tuyến vì nhiều khách hàng sử dụng điện thoại thông minh để mua bán thay vì đến thăm cửa hàng. Mọi cửa hàng trực tuyến đều dùng phần mềm trí thông minh nhân tạo (AI) để nhận ra điều khách hàng muốn và đưa ra đề nghị cho họ. Chẳng hạn như, Amazon tạo ra Dash Button, một thiết bị đặc biệt được ánh xạ tới các sản phẩm đặc biệt để khách hàng có thể nhấn nút và sản phẩm sẽ được chuyển giao cho họ trong vòng vài giờ. Khách hàng cũng có thể dùng Alexa để đặt mua bất kỳ món gì họ muốn bằng tiếng nói, thay vì dùng bàn phím. Ngày nay, Amazon là một trong những cửa hàng trực tuyến lớn nhất trên thế giới và Jeff Bezos, người chủ của Amazon, là một trong những người giàu nhất thế giới. Một nhà phân tích công nghiệp viết: “Amazon có viễn kiến rõ ràng và năng lực lãnh đạo của họ để biết cách tận dụng ưu thế của công nghệ mới. Họ chấp thuận công nghệ mới rất nhanh chóng. Chẳng bao lâu công ty này sẽ cất cánh là một trong những công ty công nghệ lớn nhất trên thế giới”.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ buộc mọi người, mọi công ty, và mọi quốc gia phải xem xét lại hệ thống giáo dục của họ và hỏi: “Cách giáo dục hiện thời có thích hợp cho cuộc cách mạng này không? Hệ thống giáo dục hiện thời có chuẩn bị cho sinh viên tri thức và các kỹ năng tương hợp với cuộc cách mạng này không? Sinh viên có thể tìm thấy kỹ năng đúng ở đâu để đáp ứng cho nhu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 này?”. Có nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt ở những quốc gia mà cách nhìn truyền thống vẫn còn chi phối. Nhiều người không thấy sự khẩn thiết hay vẫn có thái độ “đợi xem sao”, thay vì tiến hành những thay đổi cần thiết.
Những cơ hội mà Cách mạng Công nghiệp 4.0 mang lại
Năm mươi năm trước, Gordon Moore đã dự báo: “Năng lực tính toán sẽ tăng gấp đôi cứ sau hai năm”. Điều đó đã làm thay đổi hoàn toàn ngành công nghiệp điện tử và tính toán, bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, mang đến cho chúng ta máy tính cá nhân, điện thoại thông minh và Internet. Ngày nay, có dự đoán cho rằng: “Bất kỳ cái gì có thể được kết nối sẽ được kết nối” và nó tích hợp mọi thứ thuộc về vật lý, số thức và sinh học để bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nó sẽ làm thay đổi nhiều thứ, nhiều việc làm, nhiều ngành và nhiều quốc gia.
Trong những năm qua, chúng ta đã chứng kiến sự tăng trưởng nhanh của Internet do có nhiều thiết bị kết nối wifi, làm cho việc truy nhập vào Internet dễ dàng hơn. Với trên hai tỉ điện thoại thông minh đang được dùng và hàng triệu thiết bị thông minh kết nối với nhau, chúng ta bắt đầu thấy các thiết bị này có thể “nói chuyện” với nhau và trở nên “thông minh hơn” mà không có sự can thiệp của con người. Với tiến bộ của trí tuệ nhân tạo, robotics, in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ nano, tốc độ của phát kiến đã được tăng tốc nhanh hơn. Tất cả những phát kiến này sẽ tạo ra cơn lốc tác động đến mọi người, mọi nhà, mọi thành phố, mọi công ty và mọi quốc gia.
Theo công ty phân tích Gartner, đến năm 2020, sẽ có trên 26 tỉ thiết bị được kết nối, có thể “nói chuyện” với nhau và tạo ra “mạng lưới khổng lồ các vật được kết nối”. Mối quan hệ giữa con người và các thiết bị này, giữa các thiết bị với các thiết bị, sẽ thay đổi hoàn toàn bản chất của công việc và xã hội. Chẳng hạn như, bạn đi làm trên xe hơi tự lái, bạn bảo xe nơi đi, thế là nó sẽ đưa bạn đến đó. Tuy nhiên, nếu có tai nạn giao thông trên đường, mọi xe tự lái sẽ “nói chuyện” với xe khác để tránh chỗ đó để bạn không bị kẹt xe. Nhưng nếu giao thông vẫn còn bị tắc nghẽn, xe tự lái của bạn kiểm tra lịch biểu của bạn, rồi báo với người quản lý của bạn rằng bạn sẽ đến muộn vì vấn đề giao thông. Nó cũng lập lại lịch biểu các cuộc họp của bạn vào ngày đó, vì bạn sẽ bị muộn. Nếu bạn đang trên đường từ chỗ làm việc về nhà, xe của bạn sẽ “nói chuyện” với nhà thông minh của bạn rằng bạn sẽ không về đến nhà đúng giờ. Vợ và con bạn sẽ nhận được tin nhắn liên quan đến tình huống của bạn, cho nên họ không phải lo nghĩ. Nhà thông minh sẽ “nói chuyện” với bếp của bạn để khoan nấu thức ăn cho đến khi bạn về tới nhà.
Khái niệm về kết nối mọi thiết bị bằng trí thông minh nhân tạo, từ điện thoại thông minh, vật dụng nhà bếp, máy giặt, đèn, các thiết bị đeo được và nhiều thứ khác sẽ thay đổi hoàn toàn cách mọi người sống. Quan niệm này cũng áp dụng cho chế tạo, cơ xưởng, văn phòng, mua bán, giải trí, lữ hành, chăm sóc sức khỏe, v.v… Khi nhiều thứ được kết nối, có nhu cầu cao về những người có thể làm cho các thiết bị này làm việc thông minh hơn, học nhanh hơn, và tích hợp vào hoạt động thường ngày của con người. Chẳng hạn như, các thiết bị đeo được của bạn có thể kiểm tra tình trạng sức khỏe của bạn, nếu có gì đó bất thường xảy ra, nó sẽ phân tích để đảm bảo sức khỏe của bạn ở trong miền chấp nhận được, nếu không nó sẽ liên hệ với bác sĩ của bạn để nhận chỉ dẫn thêm. Nếu cần, nó sẽ gọi xe cứu thương đưa bạn đến bệnh viện. Tủ lạnh của bạn có thể “nói chuyện” với bếp của bạn để đảm bảo thứ bạn muốn ăn vào hôm đó là sẵn có, và nếu cần, nó sẽ đặt hàng trực tuyến, và thức ăn có thể được gửi đến nhà bạn bằng xe tự lái hoặc máy trực thăng vào lúc có người ở nhà để nhận hàng.
Internet kết nối vạn vật (IoT) có thể tạo ra vô vàn cơ hội khi nhiều thiết bị được kết nối. Ba mươi năm trước, Steve Jobs đã dự đoán: “Với phát kiến công nghệ, bất kỳ cái gì cũng có thể được tạo ra, sẽ được tạo ra”. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ mở ra cánh cửa cơ hội cho mọi người, mọi quốc gia.