
Trẻ con - một thực thể không thể đoán trước
Trẻ con là gì? Bạn có biết vì sao đến giờ tôi mới đưa ra câu hỏi này không? Trong các bạn độc giả có lẽ cũng có những người cho rằng mình đã hiểu rõ bản chất của trẻ, song tôi nghĩ các bạn nên xem xét lại.
Trẻ con đó là một thực thể không đoán trước được.
Trẻ con đó là một thực thể ẩn chứa ở bên trong những khả năng không giới hạn.
Đây chính là kết luận của tôi sau 50 năm nghiên cứu về trẻ em. Càng nghiên cứu sâu, tôi càng cảm nhận rõ ràng điều đó.
Giả sử có em học sinh mơ màng nhìn ra cửa sổ trong giờ học. Trong tình huống này có lẽ các giáo viên sẽ yêu cầu em thôi mơ màng và tập trung nghe giảng ngay. Nhưng có đúng là em ấy mơ màng không? Hay là do em không hứng thú với giờ học? Cũng có thể bởi đời sống nội tâm của em ấy rất phong phú. Có khi em chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm hai chú chim sẻ đang chụm đầu vào nhau trò chuyện. Và có thể rằng, khung cảnh này sau đó sẽ được chuyển tải thành những bài viết giàu chất thơ trong bài tập làm văn của em.
Các giáo viên thường hay nhận xét học sinh rằng “Em ấy không nghe giảng trong giờ”, nhưng liệu có phải do giờ học không đủ hấp dẫn để các em nghiêm túc lắng nghe hay không? Giáo viên cần tự kiểm điểm mình để từ đó hiểu được bản chất của trẻ. Ngay cả giáo viên, nếu đi tập huấn gặp phải bài giảng thiếu hấp dẫn, các bạn sẽ tỏ ra thế nào? Tôi biết rằng những giáo viên có sự khéo léo để che đậy sự thiếu tập trung của mình nhưng trẻ em thì chưa làm được điều đó, vì thế các em sẽ ngay lập tức thể hiện trạng thái chán nản. Nếu có những trẻ cố gắng nghe kể cả không chút hứng thú, thì đó là những người lớn thu nhỏ, đang dùng vỏ bọc để che đậy bản chất trẻ con.
Ở điểm này, quan sát trẻ tự kỷ ta sẽ thấy chúng là số một trong việc bày tỏ cảm xúc thật của mình.
Chúng thể hiện sự nhiệt thành trước những vấn đề mà chúng thấy quan tâm. Chúng tập trung chú ý và thể hiện khả năng học hỏi tuyệt vời. Ngược lại, chúng hoàn toàn không hào hứng với những giờ học chúng không quan tâm, thậm chí đi lại lờ đờ trong lớp hoặc bỏ ra ngoài. Những hành động như vậy nếu xét trên phương diện tập thể là không thể chấp nhận. Đúng là ý thức tập thể rất quan trọng, nhưng chính giáo viên cũng cần nhìn nhận bản chất trung thực của trẻ khi chúng thẳng thắn thể hiện thái độ nếu chúng thấy giờ học không thú vị, từ đó tự kiểm điểm bản thân mình.
Nhìn lại thời tiểu học của mình, có thể nói rằng hầu như không có giờ học nào để lại ấn tượng trong tôi. Tất cả những gì tôi nhớ được là những lúc cùng bạn bè chạy quanh trường trong giờ ra chơi, hay những lần đánh nhau vì ganh đua trong giờ thể dục… Hơn nữa, tôi cũng nhớ rõ đã bị giáo viên mắng như thế nào, bắt đứng góc lớp ra sao, có điều tôi không có ấn tượng rằng lúc đó mình đã mắc lỗi.
Giáo viên đối với tôi là gì?
Câu chuyện tôi còn nhớ rõ nhất hồi học tiểu học là vào năm tôi học lớp 3. Khi ấy tôi thường xuyên bị giáo viên nhắc nhở là “thiếu tập trung”, “không chú ý nghe giảng”. Đúng là tôi cũng thiếu tập trung thật, nhưng cũng có nguyên nhân cả. Hồi đó mẹ tôi bị bệnh nặng phải nhập viện, cứ hết người này đến người khác thay nhau chăm sóc chúng tôi. Khi anh em tôi đánh nhau, những người đó thường dọa chúng tôi rằng: “Làm thế là mẹ chết đấy”. Ở trường, chỉ nghe chuyện về một người mẹ nào đó cũng khiến tôi trở nên lo lắng, sợ rằng có lẽ mẹ chết mất rồi. Những lúc như vậy, nhiều khi tôi còn cầm bút gõ cốc cốc lên đầu nữa.
Tôi nhớ rõ như vậy vì sau đó chừng 1 tháng, giáo viên chủ nhiệm gọi tôi ở lại sau giờ học. Các bạn vừa nhìn tôi chằm chằm vừa rời khỏi phòng học. Phòng học rộng lớn trở nên vắng lặng. Đứng bên bàn giáo viên ở góc phòng, giáo viên chủ nhiệm nói với tôi: “Thầy xin lỗi con. Hóa ra mẹ con đang phải nằm viện. Thế nên con mới không tập trung học được”. Tôi chưa bao giờ cảm thấy nhẹ nhõm như lúc đó. Dù mặt cúi gằm nhưng tôi chỉ mong được lao vào lòng thầy. Từ đó, hình ảnh người thầy trở nên rất đỗi thân thương trong lòng tôi. Nó giống như ngọn đuốc soi sáng trái tim tôi từ bấy đến giờ.
Mối gắn kết giữa trẻ và giáo viên là gì?
Bản chất của trẻ sẽ tỏa sáng khi được chấp nhận, yêu thương. Chính việc chấp nhận nguyện vọng của trẻ, yêu thương trẻ sẽ là chất gắn kết giữa trẻ và giáo viên. Chỉ khi có sự gắn kết đó, quá trình giáo dục mới thực sự bắt đầu. Nhưng trong nền giáo dục ngày nay, sự gắn kết đó có tồn tại hay không và nó có thực sự là nền tảng để triển khai các hoạt động giáo dục hay không?
Tôi đoán là sẽ có những người trả lời rằng khi nhận dạy hơn 40 đứa trẻ thì không thể nào quan tâm đến từng trẻ được. Thế nhưng, tôi tin rằng với những giáo viên như vậy, dù số trẻ có ít đi thì họ cũng không thể nào đón nhận, yêu thương từng trẻ một. Những giáo viên luôn nỗ lực đón nhận, yêu thương từng trẻ dù cho phải nhận nhiều cháu, nhất định sẽ không nói như vậy. Trẻ thường thích và gắn bó với những giáo viên này hơn.
Vậy chấp nhận trẻ là như thế nào?
Yêu trẻ là như thế nào?
Chấp nhận có thể hiểu theo nhiều cách. Đầu tiên phải kể đến việc thừa nhận những điểm tốt của đứa trẻ đó. Đứa trẻ nào cũng có điểm tốt. Chấp nhận là tìm ra và trân trọng điều đó.
Vậy còn yêu thương là gì? Để trả lời được câu hỏi này, tôi phải lặp lại cách diễn đạt nghèo nàn như sau: Yêu là chuyển động tâm hồn vi tế nhất trong nhân cách của con người. Thật khó để diễn đạt thành lời, chính tôi cũng không hiểu rõ nó như thế nào.
Khi tôi được hỏi: “Anh có yêu trẻ không?”, câu trả lời bật ra là: “Chắc chắn rồi”. Nhưng khi bị dồn ép: “Có yêu thực sự không?” thì khó có thể nói nên lời. Tuy nhiên tôi nghĩ cần phải nỗ lực để trả lời câu hỏi này trước khi bắt tay vào dạy trẻ. Bởi yêu thương là nền tảng của giáo dục.
Liệu bạn có sai lệch trong cách nhìn bản chất của trẻ không?
Những đứa trẻ tự kỷ đã đặt ra câu hỏi này cho tôi. Nhiều lần tôi bị chúng hỏi dồn: “Bác sĩ có thực sự yêu con không?”. Những đứa trẻ tự kỷ, chúng sẽ quay lưng lại với ta nếu ta không thực sự hết lòng vì chúng. Tình cảm thật lòng của tôi đã bị thử thách như vậy.
Có thể nói rằng trẻ tự kỷ là những trẻ khó đối phó nhất. Mà cũng không riêng trẻ tự kỷ, bất kỳ đứa trẻ khó đối phó nào cũng là thử thách cho những người làm giáo dục. Đứng trước những thử thách đó, bản chất của chúng được thể hiện rõ ràng. Trong giới giáo dục cũng có phong trào loại trừ những đứa trẻ khó đối phó. Người giáo viên càng hẹp hòi lại càng có xu hướng loại trừ những đứa trẻ này. Mà số lượng những giáo viên như vậy không hề nhỏ.
Không chỉ dừng lại ở việc loại trừ trẻ, trong giới giáo dục còn có không ít phong trào chỉ trích phụ huynh. Tất nhiên cũng có những phụ huynh không tốt, tuy nhiên chính bản thân họ cũng có nhiều lo lắng, bất an. Họ giống như “những con cừu đi lạc” vậy. Nếu hiểu hình ảnh ẩn dụ sau câu nói này, rằng đã là con người thì ít nhiều đều có lúc lầm lỡ, thì tôi nghĩ người giáo viên cần chung sức chung lòng với các bậc phụ huynh để giúp họ ít phạm sai lầm hơn.
Có rất nhiều người sau khi trở thành giáo viên đã để mình lạc lối trong cái suy nghĩ bề trên rằng mình là kẻ dạy dỗ người khác. Những người này dễ có xu hướng coi mình là người tốt, còn đứa trẻ và gia đình chúng là người không tốt. Hay nói cách khác, họ bị “biến chất”. Họ sai lệch trong cách nhìn nhận bản chất của trẻ. Tôi nghĩ đã đến lúc mỗi người làm trong ngành giáo dục đều phải một lần nữa nhìn nhận lại xem trẻ em là gì, giáo viên có vai trò như thế nào đối với các em, có như vậy mới làm tăng số lượng giáo viên biết nhìn thấu bản chất của trẻ. Đó là con đường duy nhất dẫn tới nền giáo dục tương lai.
Việc tìm ra điểm tốt của trẻ là điều quan trọng
Trong vòng 1 tháng nay, có hai trẻ được mẹ dẫn tới chỗ của tôi. Một trẻ được giáo viên chỉ định “cho làm kiểm tra IQ”, còn một trẻ được chỉ định “kiểm tra sóng não”. Trẻ đầu có thành tích học tập không cao, còn trẻ thứ hai đôi khi hay gây mất trật tự trong lớp. Tại sao các em lại được giáo viên khuyên làm các bài kiểm tra này? Có thể để giáo viên hiểu hơn về trẻ thông qua các bài kiểm tra khoa học, song mặt khác có thể giáo viên muốn gắn cho các em cái mác yếu kém về tinh thần hoặc có tổn thương về não. Ẩn đằng sau việc gắn mác ấy có cả mong muốn gạt bỏ các em khỏi lớp học.
Chúng ta cần phải tìm hiểu những phương pháp khoa học giúp hiểu trẻ. Kết quả kiểm tra trí tuệ hay sóng não đều có vẻ là mang tính khách quan. Tuy nhiên, những xét nghiệm này quả thực là những công cụ nghèo nàn để hiểu được bản chất của trẻ. Hơn nữa, chúng ta cần phải biết rằng những phương pháp này được sử dụng để đánh giá trẻ trên quan điểm bệnh lý. Đáng tiếc rằng, những người phụ trách cũng như bác sĩ tâm lý lâm sàng, người không mấy khi được tiếp xúc với những trẻ bình thường, lại có thói quen nhìn trẻ từ góc độ bệnh lý. Trong mắt họ, ngay cả trẻ em bình thường cũng có bệnh. Bởi theo họ, không có đứa trẻ nào hoàn toàn không khiếm khuyết nên không ít trường hợp trẻ chỉ có một vấn đề nhỏ cũng bị biến thành người có bệnh. Cũng bởi người ta luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của những phán đoán chuyên môn nên họ lại càng nhanh chóng “dán nhãn” cho trẻ. Có thể nói, trẻ thực sự bất hạnh khi cùng lúc gặp phải người bác sĩ thích kết luận bệnh tình và người thầy muốn loại bỏ mình ra khỏi lớp học.
Chẩn đoán mang tính giáo dục đó là cách để mô tả về nhiệm vụ tìm ra điểm tốt của trẻ. Ghép những điểm tốt của trẻ lại với nhau, đưa ra hình ảnh của đứa trẻ đó mới chính là chẩn đoán mang tính giáo dục, và người được giao thực hiện nhiệm vụ cao cả đó chính là người giáo viên. Đó là thứ quý giá mà không một lần kiểm tra trí tuệ hay đo sóng não nào có thể so sánh được. Tôi nghĩ rằng chỉ có chẩn đoán giáo dục mới làm rõ được bản chất của từng trẻ và chỉ có những người giáo viên luôn tự dặn mình phải yêu thương và chấp nhận trẻ thì mới có khả năng thực hiện những chẩn đoán giáo dục này.
Coi trọng những đứa trẻ khó đối phó
Tôi suy nghĩ về những đứa trẻ có vấn đề xuất hiện tại phòng khám hằng ngày nhiều đến mức tôi cảm thấy các nhà giáo dục đã đưa ra yêu cầu quá tàn nhẫn. Tuy nhiên, cũng chính những nhà giáo dục, những người thực sự hiểu trẻ, tìm hiểu cách dạy trẻ dựa trên lập trường của trẻ lại có khả năng triển khai giáo dục chân chính. Không biết từ bao giờ chúng ta lại có một nền giáo dục lấy người giáo viên làm trung tâm, đều đều mỗi ngày kết thúc bài giảng không hề vất vả, và nếu như họ có phải vất vả hơn, đó lại là lỗi của học sinh và phụ huynh. Những giáo viên như thế chỉ làm tăng thêm nỗi bất hạnh của trẻ mà thôi. Các giờ học cũng ngày càng trở nên kém hấp dẫn. Và nếu như thể hiện sự phản kháng bằng hành động, các em sẽ bị quy chụp là trẻ có vấn đề.
Đồng thời các bạn cũng cần biết rằng, chặng đường phát triển của trẻ không chỉ dừng lại ở mốc “trẻ ngoan”. “Trẻ ngoan” là trẻ thành thực, sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng, thân thiện với bạn bè hay biết giữ an toàn… Có nhiều trẻ phải thực hiện những nghĩa vụ đạo đức này tại trường. Nếu như trẻ xây dựng được hình tượng “trẻ ngoan” như trên, động lực tự thân của trẻ sẽ không thể hình thành, trẻ dễ bỏ học hay thực hiện các hành vi có vấn đề khác khi trở thành học sinh trung học, hoặc trở thành một người không thú vị khi trưởng thành.
Trẻ chỉ thực sự được là trẻ con khi có cơ hội hết lần này đến lần khác thể hiện sự chống đối, nghịch ngợm, không giữ vệ sinh, không gọn gàng, cãi vã/đánh nhau với bạn hay làm những chuyện, liều lĩnh…
Thông qua những hành động này, động lực tự thân sẽ phát triển, đồng thời năng lực chế ngự bản thân cũng được bồi đắp. Động lực tự thân là năng lực tự suy nghĩ, tự quyết định, tự hành động; còn năng lực chế ngự bản thân là khả năng suy xét về những quy tắc, chuẩn mực đạo đức một cách chủ động tùy vào tình hình. Năng lực này sẽ dẫn tới sự phát triển tấm lòng “biết quan tâm”.
Nền giáo dục ngày nay đã tạo ra một khái niệm “trẻ ngoan” sai lệch do sự kìm hãm động lực tự thân cộng thêm những lời khen “ngoan” từ các tác nhân bên ngoài. Ban đầu, khuynh hướng này chỉ xuất hiện trong lĩnh vực giáo dục nhưng gần đây nó ngày một được hưởng ứng mạnh mẽ hơn. Vì vậy, số lượng trẻ có vấn đề cũng ngày một tăng lên nhiều.
Thế nhưng có lẽ số lượng những người làm giáo dục biết coi trọng những đứa trẻ “khác biệt” đó lại không tăng lên. Những nhà giáo ấy biết coi trọng những đứa trẻ khó đối phó, không bao giờ nghĩ đến việc loại bỏ những đứa trẻ này và luôn đón nhận mọi đứa trẻ. Và cuối cùng tôi mong rằng phương pháp “giáo dục đặc thù”1 sẽ biến mất.
1 Hình thức giáo dục áp dụng riêng cho trẻ khuyết tật và những trẻ có bệnh tâm lý (BT ).
Ngành giáo dục đã nghĩ ra phương pháp này với hy vọng giúp trẻ được hạnh phúc. Thế nhưng chẳng hiểu từ bao giờ, các giáo viên lại trở thành người có thói quen gán cho trẻ mác “đặc biệt”, đẩy những trẻ khó đối phó vào “cấp đặc đặc” và cố gắng loại bỏ những trẻ ấy.
Từ đáy lòng mình, tôi luôn mong mỏi ngày mà mỗi đứa trẻ được yêu, được chấp nhận bởi các thầy cô, ngày mà chúng cảm nhận được niềm vui đến trường tới càng sớm càng tốt.