Xưa xửa xừa xưa, thời mà mọi thứ đều tốt đẹp, có một chú ùm bò đi dọc đường làng, đang đi thì gặp một cậu bé xinh trai tên là bé chim cúc cù cu1…
1 Tác giả dùng từ moocow, tuckoo theo lối phát âm trẻ con. (Từ đây mọi cước chú đều do người dịch tổng hợp từ nhiều nguồn).
Bố cậu bé kể cho cậu nghe chuyện đó: bố nhìn cậu qua kính một tròng - ông có bộ mặt đầy lông lá.
Cậu là bé chim cúc cù cu ấy. Chú ùm bò đi dọc đường nhà bà Betty Byrne - bà ấy bán kẹo chanh.
Ôi, những đóa hồng dại
Nở trong khoảnh vườn xanh
Cậu hát vang bài đó - bài hát của cậu.
Ôi, những đóa hồng xanh2
2 Nguyên tác “O, the green wothe botheth” tức nhân vật nhập hai câu thơ làm một, biến hồng đỏ thành xanh. Xanh lục cũng là màu truyền thống của Ireland. Tác giả hàm ý liệu Ireland có thể giành độc lập khỏi Anh.
Khi bạn tè dầm, ban đầu nước tiểu ấm, sau sẽ lạnh. Mẹ cậu thay ga giường bằng tấm vải dầu. Tấm vải có mùi thật kỳ quặc.
Mẹ cậu thơm hơn bố cậu. Bà chơi một điệu nhảy của thủy thủ trên đàn dương cầm cho cậu nhảy. Thế là cậu nhảy:
Tralala lala,
Tralala tralaladdy,
Tralala lala,
Tralala lala.
Ông Charles và cô Dante3 vỗ tay. Họ lớn tuổi hơn bố mẹ cậu nhưng ông Charles lớn tuổi hơn cô Dante.
3 Ông Charles là chú của bố Stephen. Cô Dante hay Mrs. Riordan là gia sư của Stephen.
Cô Dante có hai cây cọ trong chiếc tủ đựng đồ. Cây cọ có cán bọc nhung nâu đỏ dành cho Michael Davitt còn cây cọ có cán bọc nhung xanh lục dành cho Parnell4. Mỗi lần cậu lấy khăn giấy cho cô Dante, cô đều cho cậu một viên kẹo the.
4 Michael Davitt (1846-1906) người sáng lập Liên hiệp Đất mẹ Ireland, có tư tưởng bạo động hơn Parnell nên từng ngồi tù bảy năm vì tội tuồn vũ khí vào Ireland. Charles Stewart Parnell (1846-1891) là nghị sĩ Hạ viện Anh, “thủ lĩnh” phong trào đấu tranh dân tộc Ireland tới khi bị tố ngoại tình vào năm 1889.
Gia đình Vance ở nhà số bảy. Họ khác cha khác mẹ. Họ là bố mẹ Eileen. Lớn lên, cậu sẽ lấy Eileen làm vợ. Cậu trốn dưới gầm bàn. Mẹ cậu bảo:
- Ồ, Stephen sẽ xin lỗi đấy. Cô Dante lên tiếng:
- Nếu nó không xin lỗi, chim ó sẽ tới móc mắt nó ra.
Móc mắt nó ra,
Xin lỗi đi,
Xin lỗi đi,
Móc mắt nó ra.
Xin lỗi đi,
Móc mắt nó ra,
Móc mắt nó ra,
Xin lỗi đi.
Sân chơi rộng đầy học trò. Tất cả đều la hét còn các thầy Giám quản gào lên giục giã. Không khí buổi chiều lợt lạt, lạnh lẽo, và sau mỗi lượt giao bóng, các cầu thủ chạy bình bịch đuổi theo còn quả bóng da trơn tuột bay vèo đi như con chim nặng nề bay vụt qua tia sáng màu xám. Stephen đứng gần chỗ đám bạn cùng trang lứa, ngoài tầm nhìn của thầy Giám quản, ngoài tầm với của những cặp giò thô lỗ, thỉnh thoảng cậu giả bộ chạy tới chạy lui. Cậu thấy cơ thể mình nhỏ bé, yếu ớt giữa đám cầu thủ, còn mắt cậu mờ mịt, đẫm nước. Rody Kickham không như thế: bọn trẻ bảo nó sẽ cầm trịch đám sơ trung5.
5 Nguyên văn: third line, lower line và higher line, tương đương cách gọi bậc học ở ta thời xưa là sơ trung, trung và cao trung. Trường Clongowes Wood là trường dòng nội trú cấp 2-3 nổi tiếng dành cho nam sinh ở Ireland, có sáu bậc học: elements (năm 1), rudiments (năm 2), grammar (năm 3), syntax (năm 4), poetry (năm 5), rhetoric (năm 6). Năm 1-2 xếp vào third line tức 12-14 tuổi, tương đương lớp 7, 8; năm 3-4 là lower line tức 15-16 tuổi, tương đương lớp 9, 10; năm 5-6 là higher line tức 17-18 tuổi, tương đương lớp 11, 12.
Rody Kickham là đứa tử tế nhưng Roche Tởm là thằng thối khắm6. Rody Kickham có tấm bảo vệ chân trong tủ đựng đồ và chiếc làn mây có nắp đậy trong nhà ăn. Roche Tởm có đôi bàn tay to. Nó gọi món bánh ngọt chiều thứ Sáu là chó-trốn-trong-chăn. Một hôm nó hỏi:
- Mày tên gì?
6 Rody và Roche là một người nhưng theo cách gọi của Stephen thì Rody tốt còn Roche xấu.
Stephen trả lời:
- Stephen Dedalus7. Roche Tởm hỏi tiếp:
7 Stephen Dedalus có họ lấy theo tên một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, Daedalus, một nghệ sĩ tài hoa và thợ thủ công lành nghề, người đã tạo ra mê cung nhốt Minotaur và cặp cánh cho cậu con trai Icarus.
- Tên kiểu gì vậy?
Stephen chưa biết trả lời thế nào thì Roche Tởm lại hỏi:
- Bố mày là ai? Stephen đáp:
- Một quý ông. Roche Tởm lại hỏi:
- Ông ta là thẩm phán à?
Stephen lượn chỗ này chỗ nọ quanh đám bạn, thỉnh thoảng chạy một đoạn ngắn. Tay cậu hơi tái đi vì lạnh. Cậu đút tay vào túi của bộ đồ màu xám có dây buộc. Đó là sợi dây thắt quanh túi. Sợi dây cũng để đưa cho đám bạn. Một hôm có thằng bảo Cantwell:
- Tao sẽ cho mày một sợi như thế. Cantwell trả lời:
- Đi mà tìm thằng nào ngang cơ ấy. Cho thằng Cecil Thunder một sợi. Tao thích xem mày cho nó thế nào. Nó sẽ cho mày một cú vào đít.
Nói năng thế không hay chút nào. Mẹ Stephen bảo cậu không được nói chuyện với đám thô tục ở trường. Mẹ thật hay ho! Ngày đầu tiên trong đại sảnh của trường, khi từ biệt con trai, bà đã gập đôi tấm mạng che mặt lên để hôn cậu: mắt mũi bà đều đỏ ửng. Nhưng Stephen giả vờ không thấy mẹ khóc. Bà là người mẹ hay ho nhưng khi khóc, trông bà không hay ho cho lắm. Còn bố cho cậu hai đồng năm xi-linh để tiêu vặt. Rồi bố bảo nếu cần gì cứ viết thư gửi ông, và làm gì thì làm cũng đừng tâu tội của bạn với thầy giáo. Ở cửa lâu đài, thầy hiệu trưởng bắt tay bố mẹ cậu, tấm áo thầy tu của thầy bay phần phật trong gió, rồi cỗ xe chở bố mẹ cậu rời đi. Họ ngồi trong xe vừa khóc vừa vẫy tay chào cậu:
- Tạm biệt, Stephen, tạm biệt con!
Bị cuốn vào cuộc ẩu đả giành bóng và sợ hãi trước những cặp mắt lóe sáng, những đôi ủng lấm bùn, cậu cúi xuống nhìn đám bạn qua mấy cẳng chân. Đám bạn vẫn tranh bóng, vừa làu bàu, cọ quẹt, vừa đá đạp, giẫm cả lên nhau. Rồi Jack Lawton chân mang ủng màu vàng đoạt được bóng, thế là mấy đứa khác đuổi theo. Cậu chạy theo chúng một đoạn rồi dừng lại. Bọn trẻ sẽ sớm về nhà nghỉ lễ. Sau bữa tối trong đại sảnh, cậu sẽ đổi con số dán trong hộc bàn từ bảy mươi bảy thành bảy mươi sáu.
Ngồi trong đại sảnh tốt hơn ở ngoài trời lạnh. Ngoài trời lợt lạt, lạnh lẽo còn trong lâu đài có đèn. Cậu tự hỏi Hamilton Rowan8 đã ném mũ xuống bờ tường từ cửa sổ phòng nào và có luống hoa nào dưới cửa sổ phòng đó không? Một hôm Stephen bị gọi vào trong lâu đài, nhưng thầy Giám quản chỉ muốn cho cậu xem mấy vết đạn mà lính bắn ghim trên cửa gỗ và cho cậu một mẩu bánh quy bơ mà học trò thường ăn. Ánh đèn trong lâu đài mới đẹp đẽ, ấm áp làm sao. Giống thứ gì đó trong sách. Có lẽ Tu viện Leicester cũng thế. Có mấy câu rất hay trong sách tập đọc của Tiến sĩ Cornwell. Chỉ là mấy câu dạy đánh vần nhưng nghe như thơ ấy.
8 Một nhà chủ nghĩa dân tộc Ireland, người đã trốn khỏi đám bắt giữ người Anh và ẩn nấp ở Clongowes. Ông ném mũ đi để người Anh tin là ông đã rời khỏi lâu đài.
Wolsey mất trong Tu viện Leicester
Nơi các thầy cả chôn cất ông.
Thối rữa là bệnh của cây,
Còn ung thư là bệnh của thú.
Sẽ rất tuyệt khi nằm trên thảm trải trước lò sưởi, tựa đầu vào tay, nghĩ ngợi về mấy câu thơ trên. Cậu rùng mình như có dòng nước nhớp nháp, lạnh lẽo chạm vào da. Đó là do thằng Wells đẩy cậu ngã xuống đường hào nhà xí vì cậu không đổi hộp thuốc ngửi của mình lấy hạt dẻ khô dạn dày kinh nghiệm trận mạc của nó, cái hạt dẻ đã thắng bốn mươi trận tung hạt liền9. Nước dưới đường hào mới lạnh lẽo, nhớp nháp làm sao! Có đứa còn thấy một con chuột cống to nhảy vào lớp váng bẩn. Mẹ cậu ngồi trước lò sưởi cạnh cô Dante và đợi Brigid mang trà lên. Bà kê chân lên thanh chắn lò, đôi dép nạm đá của bà nóng rực, tỏa ra mùi ấm áp dễ chịu! Cô Dante biết rất nhiều. Cô đã dạy Stephen kênh đào Mozambique nằm ở đâu, con sông nào dài nhất châu Mỹ, và tên ngọn núi cao nhất trên mặt trăng. Cha Arnall biết còn nhiều hơn cô Dante vì ông là tu sĩ, nhưng bố cậu lẫn ông Charles đều bảo cô Dante là một phụ nữ thông minh, hiểu biết rộng. Và khi cô Dante tạo ra tiếng ồn sau bữa chiều, rồi lấy tay che miệng lại thì đó là tiếng ợ nóng.
9 Trò tung hạt (conkers) là trò chơi truyền thống của trẻ con Anh. Hạt dẻ tươi được buộc vào sợi dây rồi tung vào nhau cho tới khi một hạt vỡ trước, người giữ hạt còn nguyên sẽ thắng.
Một giọng nói vang lên trên sân chơi:
- Tất cả vào lớp!
Rồi những giọng nói khác vang lên từ đám sơ trung và cao trung:
- Tất cả vào lớp! Tất cả vào lớp!
Các cầu thủ tụ tập lại, mặt mũi đỏ gay, người đầy bùn đất, Stephen đi cùng chúng, vui mừng được về lớp. Rody Kickham giữ quả bóng ở chỗ sợi dây buộc trơn tuột. Một đứa đòi Rody cho đá cú cuối nhưng Rody cứ đi thẳng, chẳng trả lời. Simon Moonan bèn bảo thằng nhóc đừng đòi nữa vì thầy Giám quản đang nhìn đấy. Thằng nhóc bèn quay sang Simon bảo:
- Cả bọn đều biết vì sao mày nói thế. Mày là đồ bợ đít thầy McGlade.
Bợ đít là một từ kỳ quặc. Simon Moonan bị gọi bằng từ đó vì nó hay cột ống tay áo giả cho thầy McGlade và thầy hay làm bộ giận dữ. Nhưng từ đó nói lên nghe rất chướng.
Có lần Stephen rửa tay trong nhà vệ sinh của khách sạn Wicklow xong, bố cậu kéo sợi xích buộc nút chặn để nước bẩn thoát ra qua cái lỗ ở đáy bồn rửa. Nước chảy chậm qua cái lỗ ấy, tạo ra tiếng ồn y hệt: bợợợ…đííít…10 Chỉ to hơn mà thôi.
10 Nguyên văn: suck (đọc là xấc-khờ), nghe như tiếng thoát nước.
Nhớ lại chuyện đó và vẻ trắng dã của nhà vệ sinh làm Stephen thấy hết lạnh lại nóng. Có hai vòi để bạn mở cho nước chảy ra - một nóng, một lạnh. Stephen thấy lạnh rồi hơi nóng và cậu có thể thấy những cái tên được in trên vòi. Thật là chuyện vô cùng kỳ quặc.
Không khí trong hành lang cũng làm cậu rét cóng. Thật kỳ quặc và hơi ẩm ướt. Nhưng chẳng mấy chốc người ta sẽ đốt đèn và khi cháy, khí đốt sẽ tạo ra tiếng ồn nho nhỏ hệt một bài hát. Cũng thế, khi bọn bạn ngừng nói chuyện trong phòng tập, ta có thể nghe thấy tiếng ồn đó.
Còn giờ là tiết học Đại số. Cha Arnall viết một bài toán khó lên bảng rồi bảo:
- Coi nào, ai giải được nào? Nhà York, tiến lên! Nhà
Lancaster, tiến lên!
Stephen cố hết sức, nhưng bài toán khó quá nên cậu thấy bối rối. Huy hiệu nhỏ bằng lụa có hình đóa hồng trắng đính trên ngực áo cậu bắt đầu bay phần phật11. Stephen không giỏi tính toán, nhưng cậu cố hết sức để đội York không thua.
11 Stephen đeo hồng trắng, gia huy nhà York. Gia huy nhà Lancaster có hình hồng đỏ. Đây là hai dòng họ quý tộc tham gia trận chiến Hoa Hồng nổi tiếng ở Anh (1485).
Mặt Cha Arnall sạm đen, nhưng ông không giận - ông đang cười. Rồi Jack Lawton bẻ khớp tay, Cha Arnall nhìn vào vở nó và bảo:
- Đúng rồi, hoan hô nhà Lancaster! Hồng đỏ thắng. Cố lên nhà York! Vượt lên trước nào!
Jack Lawton nhìn khắp đội mình. Cái huy hiệu nhỏ bằng lụa có hình đóa hồng đỏ đính trên áo nó thật sang, vì Jack có thêm hình thủy thủ đính bên trên. Stephen thấy mặt mình cũng đỏ, khi nghĩ về tất cả những lần cá cược rằng ai sẽ dẫn đầu mọi môn học12, Jack Lawton hay cậu. Jack giữ thẻ hạng nhất vài tuần, rồi đến lượt Stephen. Cái huy hiệu bằng lụa màu trắng của cậu bay phần phật khi cậu làm phép tính tiếp theo và nghe tiếng Cha Arnall nói. Rồi toàn bộ sự háo hức của cậu trôi đi, cậu thấy mặt mình khá lạnh. Cậu nghĩ mặt mình chắc phải trắng bệch vì nó lạnh toát. Cậu không thể tìm ra lời giải cho bài toán nhưng chuyện này không quan trọng. Hồng trắng và hồng đỏ: nghĩ tới những màu đó thật đẹp. Tấm thẻ hạng nhất, hạng nhì, hạng ba cũng có màu đẹp: màu hường, màu kem, màu oải hương. Nghĩ tới hoa hồng màu hường, màu kem, màu oải hương cũng thật đẹp. Có lẽ đóa hồng dại cũng giống những màu sắc ấy và cậu nhớ tới bài hát về đóa hồng dại nở trong khoảnh vườn xanh. Nhưng bạn không thể có hồng xanh, dẫu đâu đó trên thế gian này bạn có thể có.
12 Vào thời tác giả, học sinh lớp 7 học năm môn là tiếng Anh, tiếng La-tinh, Toán, Địa lý và Lịch sử.
Chuông reo và học sinh các lớp ùa ra khỏi phòng học, tràn khắp hành lang hướng về phía phòng ăn. Stephen ngồi nhìn hai miếng bơ trên đĩa của mình nhưng không nuốt nổi mẩu bánh mì hẩm. Khăn trải bàn ẩm rình rình, bèo nhèo. Cậu uống hết cốc trà nhạt nóng mà anh phụ bếp vụng về, đeo tạp dề trắng, đã rót cho cậu. Cậu tự hỏi liệu tạp dề của anh phụ bếp có ẩm rình rình hay mọi thứ màu trắng đều lạnh lẽo, ẩm ướt? Roche Tởm và thằng Saurin uống ca cao trong hộp thiếc do người nhà gửi cho. Chúng bảo mình không nuốt nổi trà, thứ đó lợn cợn như cám lợn. Chúng bảo, bố chúng là thẩm phán cơ mà.
Với Stephen, tất cả đám bạn đều kỳ lạ. Chúng có cha mẹ, quần áo, giọng nói khác nhau. Cậu muốn được ở nhà, gối đầu vào lòng mẹ. Nhưng cậu không thể làm thế - nên cậu muốn chơi bóng, học bài, cầu nguyện cho chóng để lên giường đi ngủ.
Cậu uống một cốc trà nóng nữa và thằng Fleming bảo:
- Chuyện gì thế? Mày bị đau hay có chuyện gì thế?
- Tao không biết. – Stephen đáp.
- Chắc bị đau bụng rồi, vì mặt mày trắng bệch. – Flemming nói – Nhưng mày sẽ khỏi thôi.
- Ừ mong là thế. – Stephen đáp.
Nhưng Stephen không đau bụng. Nếu ốm, cậu nghĩ mình phải đau tim cơ. Fleming đã rất tử tế khi hỏi thăm cậu.
Cậu muốn khóc. Cậu chống khuỷu tay lên bàn và khép, mở vành tai. Rồi cậu nghe thấy tiếng ồn trong phòng ăn mỗi lần mở vành tai ra. Tiếng ồn đó gầm lên y như tàu hỏa đi trong đêm tối. Và khi cậu khép vành tai lại thì tiếng ồn đó tắt ngúm y như tàu hỏa chui vào đường hầm. Tối nọ ở Dalkey, con tàu đã gầm lên như thế và rồi, khi nó chui vào đường hầm, tiếng gầm dừng lại. Cậu nhắm mắt và con tàu tiếp tục, gầm lên rồi dừng lại. Thật tuyệt khi nghe tiếng nó gầm lên rồi dừng lại, rồi gầm lên rồi dừng lại khi ra khỏi đường hầm.
Đám cao trung bắt đầu đi dọc tấm thảm trải giữa phòng ăn - là Paddy Rath, Jimmy Magee, một thằng Tây Ban Nha được phép hút xì gà và một thằng Bồ Đào Nha nhỏ thó đội mũ len. Rồi đến bàn dành cho đám trung và sơ trung. Mỗi thằng đều có tướng đi riêng của mình.
Stephen ngồi ở góc phòng chơi, giả bộ xem trò đô-mi-no và một hai lần, trong tích tắc cậu có thể nghe thấy bài hát nho nhỏ của khí đốt. Thầy Giám quản đứng ở cửa với mấy đứa con trai còn Simon Moonan đang cột ống tay áo giả cho thầy. Thầy bảo chúng điều gì đó về Tullabeg.
Rồi thầy đi ra, Wells tới chỗ Stephen và bảo:
- Dedalus bé, nói cho bọn tao hay, mày có hôn mẹ mày trước khi đi ngủ không?
Stephen trả lời:
- Có.
Wells quay qua bọn con trai rồi bảo:
- Ồ, tao bảo này, ở đây có thằng bảo nó hôn mẹ mỗi tối trước khi đi ngủ đấy.
Mấy đứa con trai khác dừng chơi, quay đầu lại, cười to. Stephen đỏ mặt tía tai:
- Không phải tao. Wells bảo:
- Ồ, tao bảo này, ở đây có thằng bảo nó không hôn mẹ mỗi tối trước khi đi ngủ đấy.
Cả đám lại cười to. Stephen gượng cười cùng chúng. Cậu thấy người nóng ran và bối rối một lúc. Câu đó trả lời thế nào cho đúng? Cậu đã trả lời hai lần mà Wells vẫn cười cợt. Nhưng chắc nó biết câu trả lời đúng vì nó học lớp Chín. Cậu thử nghĩ tới mẹ Wells nhưng không dám ngước lên nhìn nó. Cậu không thích mặt Wells. Nó là đứa hôm trước đã đẩy cậu rơi xuống đường hào nhà xí vì cậu không chịu đổi hộp thuốc ngửi của mình để lấy hạt dẻ khô bách phát bách trúng của nó, cái hạt dẻ thắng bốn mươi trận liền ấy. Làm thế thật xấu xa, cả đám con trai đều nói thế. Mà nước dưới đường hào mới lạnh lẽo, nhớp nháp làm sao! Có đứa còn thấy một con chuột cống to nhảy vào lớp váng bẩn nữa.
Chất lỏng lạnh lẽo dưới đường hào phủ lên người cậu và khi chuông reo báo vào học, đám nam sinh ùa ra khỏi phòng chơi, cậu cảm thấy không khí lạnh ngoài hành lang và cầu thang nằm lại trong quần áo mình. Cậu vẫn gắng nghĩ trả lời thế nào cho đúng. Hôn hay không hôn mẹ là đúng? Hôn có ý nghĩa gì cơ chứ? Bạn giơ mặt ra, nói chúc ngủ ngon rồi mẹ bạn cúi xuống. Thế là hôn. Mẹ cậu đặt môi lên má cậu, môi mẹ mềm và làm ướt má cậu, chúng tạo ra tiếng động nhỏ xíu: ấy là hôn. Sao người ta làm thế với mặt họ nhỉ?
Cậu vẫn ngồi trong đại sảnh, giở nắp bàn lên và thay con số trong hộc bàn từ bảy mươi bảy thành bảy mươi sáu. Lễ Giáng Sinh còn lâu mới tới, nhưng Trái Đất vẫn quay đều nên thể nào ngày đó cũng tới.
Có hình Trái Đất ở trang đầu cuốn Địa lý của cậu: một quả cầu to lơ lửng giữa mây. Fleming có hộp bút màu sáp và tối nọ, trong giờ tự học, nó đã tô Trái Đất màu xanh lục còn các đám mây màu nâu đỏ. Tô thế giống hai cây cọ trong tủ treo tường của cô Dante, cây cọ có cán bọc nhung xanh lục dành cho Parnell và cây cọ có cán bọc nhung nâu đỏ dành cho Michael Davitt. Nhưng cậu không bảo Fleming tô thế. Nó tự tô đấy.
Cậu mở sách Địa lý ra học bài nhưng cậu không thể nhớ tên các địa danh ở châu Mỹ. Đó là những vùng đất có tên gọi khác nhau. Đó là những đất nước khác nhau, ở các châu lục trên thế giới và thế giới thì nằm trong vũ trụ.
Cậu giở tờ giấy trắng ở đầu cuốn sách và đọc những gì mình viết trên đó: bản thân cậu, tên cậu và nơi cậu đang ở.
Stephen Dedalus
Lớp Bảy
Trường Clongowes
Wood
Thị trấn Sallins
Hạt Kildare
Ireland
Châu Âu
Thế giới
Vũ trụ
Đó là phần cậu viết, còn Fleming tối nọ đã trêu cậu bằng cách viết vào chỗ đối diện như sau:
Stephen Dedalus là tên tôi,
Ireland là quốc gia của tôi.
Clongowes là nơi tôi đang ở
Thiên đường là nơi tôi mong tới.
Cậu đọc những câu thơ từ sau ra trước nhưng đó đâu phải thơ. Rồi cậu đọc trang giấy từ dưới lên trên cho tới tên mình. Đó là cậu: rồi cậu đọc từ trên xuống dưới lần nữa. Sau vũ trụ là gì nhỉ?
Chả có gì. Nhưng phải có thứ gì bao quanh vũ trụ để chỉ cho ta thấy đây là vũ trụ rồi mới tới chả có thứ gì chứ?
Đó không thể là một bức tường nhưng có thể có một lằn ranh mỏng ơi là mỏng bao quanh mọi thứ. Nghĩ về mọi nơi, mọi thứ thì to tát quá. Chỉ Chúa mới có thể làm thế. Cậu cố nghĩ thế nào là tư tưởng lớn nhưng cậu chỉ có thể nghĩ tới Chúa. Chúa là tên Chúa y như Stephen là tên cậu. Dieu là Chúa trong tiếng Pháp và đó cũng là tên Chúa. Khi ai đó cầu nguyện Chúa và nói Dieu thì Chúa biết đó là người Pháp đang cầu nguyện. Nhưng dù có tên gọi khác nhau bằng tất cả ngôn ngữ khác nhau trên thế gian này, Chúa vẫn hiểu những gì mọi người cầu nguyện bằng các ngôn ngữ khác nhau ấy, Chúa vẫn là Chúa và tên thật của Ngài là Chúa.
Nghĩ thế làm cậu mệt. Cậu thấy đầu mình nặng trĩu. Cậu giở trang giấy và mệt mỏi nhìn Trái Đất tròn màu xanh lục lơ lửng giữa những đám mây màu nâu đỏ. Cậu tự hỏi cái nào đúng, xanh lục hay nâu đỏ, vì một hôm cô Dante đã dùng kéo phá nát cây cọ có cán bọc nhung xanh lục dành cho Parnell và bảo Parnell là kẻ xấu xa. Cậu tự hỏi liệu mọi người ở nhà có bàn cãi về chuyện này không. Đó là chính trị. Nhà cậu chia làm hai phe: cô Dante một phe, bố và chú Casey một phe, còn mẹ cậu và ông Charles không ở phe nào cả. Ngày nào báo chí chẳng đăng gì đó về chính trị.
Stephen thấy đau lòng khi không hiểu rõ chính trị là gì và không biết rõ vũ trụ kết thúc ở đâu. Cậu cảm thấy mình nhỏ bé yếu ớt. Khi nào cậu mới giống bọn lớp Mười Một, Mười Hai? Bọn chúng ăn to nói lớn, đi ủng to và học lượng giác. Chuyện đó còn lâu mới tới. Đầu tiên là nghỉ lễ rồi tới học kỳ sau, rồi nghỉ lễ rồi tới học kỳ sau, rồi lại nghỉ lễ nữa. Chuyện đó giống như tàu hỏa chui vào rồi chui ra khỏi đường hầm và cũng giống tiếng ồn bọn trẻ tạo ra lúc ngồi trong phòng ăn khi bạn hết mở rồi khép vành tai lại. Học kỳ, nghỉ lễ; vào đường hầm, ra khỏi đường hầm; tiếng ồn, dừng lại. Chuyện đó còn lâu lắm! Tốt hơn nên đi ngủ. Chỉ cầu nguyện rồi đi ngủ. Cậu rùng mình và ngáp. Thật tuyệt khi đi nằm sau lúc ga giường đã ấm lên. Lúc mới chui vào thì ga giường lạnh lắm. Cậu rùng mình khi nghĩ nó lạnh thế nào. Nhưng nó sẽ ấm lên rồi cậu có thể ngủ. Mệt mỏi cũng hay. Cậu lại ngáp. Đọc kinh tối rồi lên giường ngủ: cậu rùng mình và muốn ngáp. Thật thích khi chỉ còn vài phút nữa thôi. Cậu cảm thấy hơi ấm đang tỏa ra từ đống chăn ga lạnh lẽo, ấm dần, ấm dần lên tới khi cậu thấy cả người ấm sực, ấm chưa từng thấy dù cậu hơi run và vẫn muốn ngáp.
Chuông báo đến giờ cầu kinh tối và cậu đi ra đại sảnh, nối đuôi những đứa học trò khác rồi xuống cầu thang, đi dọc hành lang dẫn tới nhà nguyện. Hành lang mờ tối, nhà nguyện mờ tối. Chẳng mấy chốc tất cả sẽ tối đen và mọi người sẽ đi ngủ hết. Không khí ban đêm trong nhà nguyện thật lạnh, các phiến đá cẩm thạch có màu của biển cả trong đêm. Cả ngày lẫn đêm, biển đều lạnh, nhưng ban đêm biển còn lạnh hơn. Biển lạnh và tối bên dưới đê biển gần nhà bố cậu. Nhưng muốn có rượu punch uống thì ta phải đặt ấm lên ngăn hâm nóng trong lò.
Cha quản nhà nguyện tụng kinh trên đầu cậu và cậu vẫn nhớ mấy câu phụ họa:
Chúa ơi xin hãy mở môi con
Rồi miệng con sẽ vang lời ngợi ca Chúa.
Xin Ngài hãy cứu giúp chúng con!
Xin Ngài mau đến cứu chúng con!
Có mùi buổi đêm lạnh lẽo trong nhà nguyện. Nhưng mùi đó linh thiêng. Không giống mùi của những nông dân già cả quỳ gối ở cuối nhà nguyện trong lễ Mi-sa ngày Chủ nhật. Mùi này là mùi của không khí, mưa, đất cỏ và nhung kẻ. Nhưng họ là những nông dân rất mộ đạo. Họ thở vào gáy cậu và thở dài mỗi khi cầu nguyện. Một học trò bảo họ sống ở Clane, có mấy túp lều nhỏ ở đó và nó đã thấy một phụ nữ ôm con đứng trước cánh cửa khép hờ, khi những cỗ xe từ Sallins đi ngang qua. Thật tuyệt khi được ngủ một đêm trong túp lều đó, trước lò sưởi được nhóm bằng đất cỏ, trong bóng tối nhờ ánh lửa soi tỏ, trong bóng tối ấm áp, hít thở mùi của những người nông dân, không khí, mưa, đất cỏ và nhung kẻ. Nhưng con đường giữa những hàng cây tối tăm lắm! Bạn sẽ bị lạc trong bóng tối. Cậu sợ khi nghĩ tới bóng tối.
Cậu nghe cha quản nhà nguyện tụng câu kinh cuối. Cậu cũng cầu nguyện chống lại bóng tối dưới những hàng cây ngoài kia!
Lạy Chúa, con cầu xin Ngài hãy tới đây và xua đi mọi cạm bẫy của kẻ thù. Cầu xin các thiên thần linh thiêng hãy ngự lại bảo vệ con trong yên bình và lời chúc phúc của các ngài qua Jesus là Chúa của chúng con sẽ ở mãi bên con. Amen.
Ngón tay Stephen run lên khi cậu cởi quần áo trong phòng ký túc xá. Cậu giục ngón tay mình hãy nhanh lên. Cậu phải cởi bỏ quần áo, quỳ xuống cầu nguyện rồi mới lên giường trước khi khí đốt còn quá ít, để khi chết, cậu không phải xuống địa ngục. Cậu tháo tất ra, mau chóng tròng bộ đồ ngủ vào người rồi run rẩy quỳ cạnh giường, mau mắn lặp lại lời cầu nguyện vì sợ khí đốt sẽ hết. Cậu thấy vai run lên khi mình thầm thì nói:
Xin Chúa ban phúc lành cho bố mẹ con và thi ân cho con!
Xin Chúa ban phúc lành cho các em trai em gái con và thi ân cho con!
Xin Chúa ban phúc lành cho cô Dante, ông Charles và thi ân cho con!
Cậu làm dấu thánh rồi mau mắn leo lên giường, kéo áo ngủ trùm kín chân, cuộn người lại dưới tấm ga trắng lạnh toát, run lẩy bẩy. Nhưng khi chết, cậu không phải xuống địa ngục và sự run sợ sẽ chấm dứt. Một giọng nói cất lên chúc bọn trẻ trong ký túc xá ngủ ngon. Cậu thò đầu ra khỏi tấm khăn phủ giường một lúc, thấy chiếc rèm màu vàng bao quanh và phía trước giường mình đã được kéo ra, che chắn tứ bề. Ánh đèn lặng lẽ tắt.
Tiếng chân thầy Giám quản xa dần. Thầy đi đâu nhỉ? Xuống cầu thang, đi dọc hành lang hay tới phòng thầy ở cuối dãy? Cậu thấy bóng tối. Có phải tối đến có con chó mực lảng vảng ngoài kia, mắt to như ngọn đèn gắn trên xe ngựa không nhỉ? Người ta bảo đó là hồn ma của kẻ sát nhân. Người cậu run lên vì sợ. Cậu thấy sảnh vào tối om của lâu đài. Những người hầu già vận đồ kiểu cũ ở trong phòng ủi đồ phía trên cầu thang. Xưa lắm rồi. Những người hầu già lặng im. Ở đó có lửa nhưng trong sảnh vẫn tối om. Một người đi từ sảnh lên cầu thang. Ông ta mặc áo choàng trắng của Thống chế; mặt ông ta nhợt nhạt, kỳ lạ, ông ta ép một tay vào mạng sườn. Ông ta đưa cặp mắt kỳ lạ nhìn những người hầu già. Họ nhìn ông và thấy mặt chủ nhân mình cùng tấm áo choàng trắng và biết rằng ông vừa lãnh một vết thương chí mạng. Nhưng chỗ họ nhìn chỉ là bóng tối, chỉ có không khí tối tăm tĩnh mịch ở đó. Chủ nhân họ vừa lãnh một vết thương chí mạng trong trận Prague ở nơi xa tít mù khơi. Ông đứng giữa chiến trường, tay ép vào mạng sườn, mặt nhợt nhạt, kỳ lạ và mặc áo choàng trắng của Thống chế.
Nghĩ thế mới lạnh lẽo và kỳ lạ làm sao! Mọi thứ tối tăm đều lạnh lẽo và kỳ lạ. Có những gương mặt nhợt nhạt kỳ lạ, những đôi mắt to tướng trông như ngọn đèn gắn trên xe ngựa. Đó là hồn ma của những kẻ sát nhân, bóng ma của các vị thống chế vừa lãnh một vết thương chí mạng trên chiến trường ở nơi xa tít mù khơi. Họ muốn nói gì mà mặt họ kỳ lạ vậy?
Lạy Chúa, con cầu xin Ngài hãy tới đây và xua đi mọi thứ…
Về nhà nghỉ lễ! Đám học trò bảo thế mới tuyệt làm sao. Leo lên những cỗ xe ngựa thuê bên ngoài cửa lâu đài trong một buổi sớm mùa đông. Những cỗ xe sẽ lăn bánh trên con đường rải sỏi. Thầy Hiệu trưởng hết ý!
Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!
Những cỗ xe chạy ngang qua nhà nguyện và bọn trẻ tung mũ lên. Chúng vui vẻ đi dọc đường làng. Xà ích dùng roi chỉ cho bọn trẻ thấy Bodenstown. Bọn trẻ hò reo. Chúng đi qua nông trại Jolly Farmer. Hò reo nối tiếp hò reo. Chúng đi qua Clane, chúng hò reo và mọi người cũng hò reo đáp lại. Những phụ nữ nông dân đứng trước cánh cửa khép hờ, những người đàn ông đứng rải rác đó đây. Có mùi hương dịu ngọt trong không khí mùa đông: mùi của Clane - mùi của mưa, không khí mùa đông, đất cỏ cháy âm ỉ và nhung kẻ.
Tàu hỏa chất đầy học trò: một con tàu dài ơi là dài, màu sô-cô-la có phủ kem bên trên. Nhân viên bảo vệ tàu đi tới đi lui hết mở lại đóng cửa, hết cài lại tháo chốt. Họ mặc đồ màu xanh đen và trắng bạc; họ có những chiếc còi ánh bạc và chùm chìa khóa tạo ra tiếng nhạc lẹ làng - lách cách, lách cách.
Rồi con tàu phóng qua những vùng đất bằng phẳng, vượt qua đồi Allen. Những cột điện tín cứ lùi lại, lùi lại. Con tàu cứ đi tiếp, đi tiếp. Nó biết. Có những ngọn đèn treo trong sảnh nhà bố cậu và những vòng cây xanh. Đó là cành ô rô và dây thường xuân bao quanh chiếc gương lớn, là quả ô rô đỏ và dây thường xuân xanh kết quanh ngọn đèn chùm. Những tấm chân dung treo trên tường cũng đính đầy ô rô và thường xuân. Ô rô và thường xuân dành cho cậu và Giáng Sinh.
Thật tuyệt…
Mọi người đều ở đó. Mừng con đã về, Stephen! Những tiếng reo chào đón. Mẹ hôn cậu. Làm thế có đúng không nhỉ? Bố cậu giờ là Thống chế - chức cao hơn cả thẩm phán. Mừng con đã về, Stephen!
Những tiếng động…
Có tiếng khoen móc cạ lên thanh treo rèm ngủ, tiếng nước xả trong bồn rửa mặt. Có tiếng người nhỏm dậy, thay quần áo, rửa ráy trong ký túc xá. Tiếng vỗ tay khi thầy Giám quản đi tới đi lui nhắc đám học trò tỏ ra tươi tỉnh. Ánh nắng nhạt cho thấy những tấm rèm màu vàng đã được kéo ra, những chiếc giường nhàu nhĩ, lộn xộn. Giường cậu rất nóng, mặt và người cậu cũng rất nóng.
Cậu nhỏm dậy, ra mé giường ngồi. Cậu thấy người yếu xìu. Cậu cố mang tất. Cảm giác thật mệt mỏi khó chịu. Ánh nắng thật kỳ quặc và lạnh lẽo.
Fleming hỏi:
- Mày không khỏe à?
Cậu không biết nữa. Fleming bảo:
- Về giường nằm đi. Tao sẽ bảo thầy McGlade là mày không khỏe.
- Nó bệnh rồi.
- Ai bệnh?
- Bảo thầy McGlade đi.
- Về giường nằm đi.
- Nó bệnh à?
Một đứa nắm tay cậu trong lúc cậu tuột chiếc tất lủng lẳng ở chân ra và quay lại chiếc giường nóng hổi nằm.
Cậu chui vào giữa đống chăn ga, mừng rỡ trước tia sáng ấm áp của chúng. Cậu nghe đám bạn nói về mình trong lúc chúng thay quần áo chuẩn bị cho lễ Mi-sa. Chúng bảo, thật xấu xa khi đẩy cậu xuống đường hào nhà xí.
Rồi giọng nói dừng lại, bọn trẻ đi ra. Một giọng nói cất lên cạnh giường cậu:
- Dedalus, đừng tâu tội tao, mày chắc sẽ không làm thế chứ?
Mặt thằng Wells ở đó. Cậu nhìn mặt nó và thấy Wells đang sợ.
- Tao không định đẩy mày. Mày sẽ không mách nhé?
Bố cậu đã bảo, làm gì thì làm cũng đừng tâu tội của bạn với thầy giáo. Cậu lắc đầu, bảo mình sẽ không làm thế và thấy vui trong bụng.
Wells bảo:
- Tao không định đẩy mày, thề danh dự đấy. Tao chỉ muốn trêu mày thôi. Tao xin lỗi.
Gương mặt và giọng nói đó biến mất. Nó xin lỗi vì sợ. Sợ cậu bị bệnh gì đó. Thối rữa là bệnh của cây, ung thư là bệnh của thú, hoặc một bệnh gì đó. Lâu lắm rồi trong ánh chiều trên sân chơi, cậu lượn chỗ này chỗ nọ quanh đám bạn, một con chim nặng nề bay sà xuống xuyên qua tia sáng màu xám. Tu viện Leicester lên đèn. Wolsey mất ở đó. Các thầy cả tự tay chôn cất ông.
Giờ không phải mặt thằng Wells, mà là mặt thầy Giám quản. Nó không giả vờ. Không, nó ốm thật. Nó không giả vờ. Và cậu thấy tay thầy Giám quản đặt lên trán cậu. Cậu thấy trán mình nóng bừng, ẩm ướt dưới bàn tay ẩm ướt của thầy. Đó là cách một con chuột cống cảm thấy - nhớp nháp, ẩm ướt và lạnh lẽo. Con chuột nào cũng có hai mắt để ngó chừng. Bộ lông bóng mượt nhớp nháp, bốn chân bé tí, hai mắt ướt rượt để ngó chừng. Chúng biết nhảy. Nhưng tâm trí chúng không biết thế nào là lượng giác. Khi chết, chúng nằm vật sang một bên. Lông chúng sẽ khô đi. Chúng chỉ là những sinh vật chết.
Thầy Giám quản lại xuất hiện và bảo cậu phải ngồi dậy, rằng Đức Cha bảo cậu phải ngồi dậy, thay quần áo rồi tới bệnh xá. Trong khi cậu cố thay quần áo thật nhanh thì thầy Giám quản bảo:
- Ta phải gửi Stephen sang chỗ sư huynh Michael vì nó bị sôi bụng.
Thầy rất nghiêm túc khi nói điều này nên Stephen suýt phì cười. Nhưng cậu không cười nổi vì má và môi đều lạnh run. Thế rồi thầy Giám quản tự phì cười.
Thầy kêu:
- Mau lên nào! Đi đều bước! Một hai, một hai!
Họ cùng xuống cầu thang, đi dọc hành lang, băng qua nhà tắm. Khi đi ngang cửa nhà tắm, cậu nhớ tới nỗi sợ mơ hồ về thứ nước lầy lội ấm áp có màu đất cỏ, thứ không khí ấm áp ẩm ướt, tiếng ồn của những cú nhảy vào bể nước, mùi khăn tắm y như thuốc.
Sư huynh Michael đứng ở cửa bệnh xá, và phía tay phải anh, từ cánh cửa của căn phòng tối đen phả ra mùi y như thuốc. Mùi đó phả ra từ đám chai lọ trên kệ. Thầy Giám quản nói chuyện với Michael và anh đáp lại, gọi thầy là thầy. Sư huynh Micheal có mái tóc hung đỏ pha xám và ánh nhìn kỳ quặc. Thật kỳ quặc khi cứ làm sư huynh. Cũng thật kỳ quặc khi bạn gọi anh ấy là thầy vì anh ấy là sư huynh và có ánh nhìn khác lạ. Bộ anh ấy không đủ mộ đạo hay theo kịp người khác sao?
Phòng bệnh có hai giường, một giường đã có người nằm. Khi họ đi vào thì cu cậu nằm đó kêu lên:
- Xin chào! Là Dedalus bé à? Có chuyện gì thế?
- Có con cù kỳ á! – Sư huynh Michael đáp.
Đó là một thằng học lớp 9-3 và trong lúc Stephen cởi quần áo ra thì nó đòi sư huynh Michael mang cho mình một khoanh bánh mì phết bơ.
- Lấy giùm em đi! – Thằng đó bảo.
- Tự đi mà lấy! – Sư huynh Michael bảo – Sáng mai, bác sĩ sẽ tới khám và cấp giấy ra viện cho mày.
- Mai à? Nhưng em chưa khỏi hẳn. – Thằng đó đáp. Sư huynh Michael nhắc lại:
- Mai mày sẽ có giấy. Tao bảo rồi đấy.
Đoạn anh cúi xuống cời lửa. Anh có cái lưng dài y như lưng ngựa kéo xe khách. Anh nghiêm trang lúc lắc que cời và gật đầu với thằng học lớp 9-3 kia.
Rồi sư huynh Michael bỏ đi và một lúc sau thằng học lớp 9-3 quay mặt vào tường, ngủ thiếp đi.
Đó là bệnh xá. Dạo ấy Stephen ốm. Người ta có viết thư báo cho bố mẹ cậu biết không? Sẽ nhanh hơn nếu một thầy tu thân chinh đi báo tin cho bố mẹ cậu. Hoặc cậu sẽ viết thư rồi nhờ thầy ấy cầm đi.
Mẹ yêu,
Con bị ốm. Con muốn về nhà. Hãy đến đón con. Con ở bệnh xá.
Con yêu của mẹ,
Stephen.
Bố mẹ cậu ở mới xa làm sao! Có ánh sáng lạnh lẽo bên ngoài cửa sổ. Cậu tự hỏi liệu mình có chết không. Bạn có thể chết vào một ngày nắng ráo. Cậu có thể chết trước khi mẹ cậu đến. Rồi người ta sẽ làm lễ Mi-sa cho cậu trong nhà nguyện y như bọn bạn kể hồi thằng Little chết ấy. Cả đám học trò sẽ vận đồ đen, mặt buồn bã, tới dự lễ. Thằng Wells cũng ở đó nhưng không đứa nào nhìn nó. Thầy Hiệu trưởng sẽ ở đó, vận áo lễ màu đen ánh vàng, những cây nến cao màu vàng sẽ được cắm trên bàn thờ và quanh linh cữu cậu. Người ta sẽ chậm rãi khiêng quan tài ra khỏi nhà nguyện và cậu sẽ được chôn trong nghĩa trang nhỏ của thị trấn cạnh đại lộ trồng toàn chanh. Thằng Wells sẽ hối tiếc vì những gì nó đã làm. Chuông nhà thờ sẽ chậm rãi ngân lên.
Cậu có thể nghe thấy tiếng chuông ngân. Cậu lẩm nhẩm hát bài Brigid đã dạy cậu.
Đính đoong, chuông nhà thờ ngân vang!
Vĩnh biệt mẹ kính yêu của con!
Hãy chôn con trong nghĩa trang cũ của nhà thờ
Cạnh anh cả của con.
Quan tài con có màu đen,
Sáu thiên thần đứng sau lưng con,
Hai người hát và hai người cầu nguyện
Còn hai người đưa linh hồn con đi.
Bài hát mới hay và buồn làm sao! Câu “Hãy chôn con trong nghĩa trang cũ của nhà thờ” nghe mới đẹp làm sao! Cơn rùng mình chạy dọc người cậu. Đẹp và buồn làm sao! Cậu muốn lặng lẽ khóc không phải cho mình, mà cho những ngôn từ kia, vì chúng quá đẹp và buồn, y như âm nhạc vậy. Tiếng chuông! Tiếng chuông! Vĩnh biệt! Ôi vĩnh biệt!
Ánh sáng lạnh lẽo nhạt dần và sư huynh Michael đang đứng cạnh giường cậu với bát nước thịt bò hầm. Cậu mừng vì mồm miệng đang khô và nóng. Cậu có thể nghe thấy tiếng chúng bạn đang chơi ngoài sân. Và một ngày ở trường trôi qua như thể cậu vẫn ở đấy.
Rồi sư huynh Michael đi ra và thằng học lớp 9-3 bảo anh cam đoan sẽ quay lại, kể cho nó nghe tin tức trên báo chí. Nó bảo Stephen tên nó là Athy, rằng bố nó nuôi nhiều ngựa hay và sẽ cho sư huynh Michael lời khuyên chí lý bất cứ khi nào anh muốn vì anh rất tử tế và luôn kể cho nó nghe tin từ tờ báo mà nhà trường nhận được hằng ngày. Có rất nhiều tin trên báo chí: tai nạn, chìm tàu, thể thao và chính trị.
- Giờ báo nào cũng đăng tin chính trị. – Thằng đó bảo
– Nhà mày có bàn chuyện chính trị không?
- Có. – Stephen đáp.
- Nhà tao cũng thế. – Thằng đó bảo. Nó nghĩ một hồi rồi bảo:
- Mày có cái tên rất lạ, Dedalus ạ, mà tao cũng có cái tên lạ, Athy. Tên tao là tên một thị trấn. Còn tên mày nghe như tiếng La-tinh.
Rồi nó hỏi:
- Mày giỏi chơi trò đố chữ không? Stephen đáp:
- Không giỏi lắm.
Nó lại bảo:
- Mày trả lời câu này được không? Sao hạt Kildare lại giống ống quần một thằng học trò?
Stephen nghĩ mãi xem câu trả lời là gì rồi bảo:
- Tao chịu thua.
- Vì có bắp đùi trong ống quần chứ sao – Nó bảo – Mày chưa hiểu câu đùa này à? Athy là thị trấn nằm trong hạt Kildare còn bắp đùi thì nằm trong ống quần.13
13 Athy đọc trùng âm với “a thigh” (bắp đùi).
- Ồ, tao hiểu rồi. – Stephen bảo.
- Đây là câu đố cổ. – Athy nói. Một lúc sau, nó lại nói:
- Tao bảo này!
- Gì thế? – Stephen hỏi.
- Mày biết đấy, – Athy bảo – mày có thể đố câu vừa rồi theo kiểu khác.
- Mày làm được à? – Stephen hỏi.
- Cũng câu đó. – Athy bảo – Mày đố kiểu khác được không?
- Không. – Stephen đáp.
- Mày không đố kiểu khác được à?
Vừa hỏi, Athy vừa nhìn Stephen qua đống chăn ga. Rồi nó nằm ngửa ra gối và bảo:
- Có cách đố khác nhưng tao không nói cho mày biết đâu.
Sao nó không nói nhỉ? Bố nó, cái người nuôi ngựa đua ấy, chắc cũng là thẩm phán như bố Saurin hay bố Roche Tởm. Stephen nghĩ tới bố mình, nghĩ tới lúc ông hát khi mẹ chơi đàn và luôn cho cậu một đồng xi-linh khi cậu hỏi xin sáu xu14 và cậu thấy tiếc cho bố, tiếc vì ông không là thẩm phán như bố mấy đứa khác. Rồi cậu nghĩ sao bố mẹ gửi mình tới đây? Nhưng bố đã bảo cậu sẽ không thấy lạ lẫm vì năm mươi năm trước, ông trẻ của cậu từng đọc diễn văn về Nhà giải phóng15 ở đây. Bạn có thể nhận ra những người thời đó nhờ quần áo kiểu cũ của họ. Với cậu, thời đó thật uy nghiêm, và cậu tự hỏi, liệu đó có phải là lúc đám học trò ở Clongowes mặc áo khoác xanh, có hàng khuy đồng, mặc áo gi-lê vàng, đội mũ da thỏ, uống bia như người lớn và được nuôi chó để đi săn thỏ rừng không.
14 1 xi-ling (shilling) bằng 12 xu.
15 Tức Daniel O’Connell, chính trị gia theo Cơ đốc giáo người Ireland, ủng hộ các Cơ đốc nhân tham gia vào bộ máy nhà nước.
Cậu nhìn ra cửa sổ và thấy ánh nắng càng lúc càng nhạt dần. Có tia sáng màu xám âm u chiếu lên sân chơi. Có tiếng ồn ngoài sân chơi. Lớp cậu chắc đang làm văn hoặc Cha Arnall đang đọc to những điều viết trong sách.
Thật kỳ quặc khi không ai cho cậu uống thuốc. Có lẽ lúc sư huynh Michael quay lại sẽ mang theo thuốc. Bọn bạn cậu bảo nằm bệnh xá thì phải uống thuốc gì đó có mùi gớm lắm. Nhưng giờ cậu thấy khỏe hơn trước. Khỏe hơn từ từ cũng tốt. Bạn có thể đọc sách. Trong thư viện có một cuốn sách về Hà Lan. Có những cái tên rất hay trong đó, những bức hình về các thành phố và tàu thủy trông lạ mắt. Đọc nó, bạn sẽ rất vui.
Ánh sáng trên cửa sổ nhạt nhòa làm sao! Nhưng thế cũng hay. Ngọn lửa bập bùng, ánh lên tường. Lửa giống như sóng. Ai đó đã cho than vào lò và cậu nghe thấy tiếng trò chuyện. Đó là âm thanh của sóng. Hoặc những con sóng đang trò chuyện cùng nhau khi chúng bập bùng.
Cậu thấy sóng biển, những con sóng đen dài chồm lên hạ xuống, đen ngòm dưới trời đêm không trăng. Một tia sáng nhỏ tí lấp lóe đầu cầu cảng khi tàu tiến vào, cậu thấy một đám người tụ tập ở mép nước để nhìn con tàu tiến vào cảng. Một người đàn ông cao ráo đứng trên boong, nhìn về phía mảnh đất tối tăm bằng phẳng, nhờ ánh sáng đầu cầu cảng, cậu thấy mặt anh ta, gương mặt u buồn của sư huynh Michael.
Cậu thấy anh giơ tay về phía mọi người và nghe anh nói to bằng giọng buồn thảm át cả tiếng sóng:
- Ông ấy mất rồi. Chúng tôi thấy ông ấy nằm trong linh cữu.
Mọi người ồ lên khóc than.
- Parnell! Parnell! Ông ấy mất rồi.
Mọi người quỳ sụp xuống, rền rĩ đau thương.
Rồi cậu thấy cô Dante mặc váy nhung nâu đỏ, khoác trên vai chiếc áo ngắn bằng nhung xanh lục, lẳng lặng tự đắc đi ngang đám người đang quỳ nơi mép nước.
Một ngọn lửa lớn, chụm lại vươn cao đỏ rực trong lò sưởi và dưới những cành thường xuân xoắn xít quấn quanh ngọn đèn chùm, bàn tiệc Giáng Sinh đã được trải khăn. Mọi người về nhà hơi muộn và bữa tối vẫn chưa xong, nhưng mẹ cậu bảo bữa ăn chỉ trong nháy mắt là có. Mọi người ngồi đợi cửa bếp mở ra, người hầu bưng những đĩa đồ ăn lớn có nắp đậy bằng kim loại nặng nề vào.
Tất cả đều đợi. Ông Charles ngồi đằng xa dưới bóng cửa sổ, cô Dante và chú Casey ngồi nơi ghế bành hai bên lò sưởi, Stephen ngồi trên ghế tựa giữa hai người bọn họ, chân gác lên đôn ghế ấm áp. Bố cậu ngắm mình trong chiếc gương lớn đặt trên bệ lò sưởi, vuốt cong bộ ria mép rồi vén vạt áo đuôi tôm, đứng xoay lưng về phía ngọn lửa: thỉnh thoảng, ông lại đưa tay vuốt ria. Chú Casey ngả đầu sang bên, mỉm cười, gõ ngón tay lên cần cổ. Stephen cũng mỉm cười vì cậu biết chuyện chú Casey có túi bạc trong cổ họng là sai. Cậu mỉm cười khi nghĩ tới âm thanh như tiếng bạc rơi mà chú hay tạo ra để đánh lừa cậu. Và khi cố mở tay chú ra xem chú có giấu túi bạc trong đó không thì cậu thấy tay
chú không duỗi ra được: chú Casey bảo cho cậu biết rằng khi làm quà tặng sinh nhật nữ hoàng Victoria, ba ngón tay chú đã bị liệt.16 Chú Casey lại gõ lên cần cổ và mỉm cười với Stephen bằng đôi mắt ngái ngủ, còn bố cậu thì bảo chú:
16 Nhân vật chú Casey được xây dựng dựa theo một người bạn của bố tác giả, vì ủng hộ Liên hiệp Đất mẹ Ireland mà bị tống giam, trong tù phải bện xơ thừng nên tay bị liệt.
- Ừ. Giờ mọi chuyện ổn cả. Ta đã đi dạo rất vui, phải không John? Ừ… Tôi tự hỏi tối nay bữa ăn sẽ thế nào. Ừ… Hôm nay ta đã hít thở bầu không khí trong lành quanh mũi Head. Thề có Chúa!
Ông quay sang cô Dante bảo:
- Cô không thấy thú vị sao, cô Riordan? Cô Dante nhăn mặt, đáp gọn lỏn:
- Không.
Ông Dedalus thả vạt áo đuôi tôm xuống, đi tới chỗ tủ chén. Ông lấy trong ngăn kéo ra một bình whisky lớn bằng đá, chậm rãi đổ đầy cái chai cổ lọ, thỉnh thoảng cúi xuống xem mình đã chiết được bao nhiêu rượu. Rồi ông cất bình whisky đi, rót ít rượu vào hai cái ly, thêm chút nước và đem hai cái ly ấy lại chỗ lò sưởi. Ông bảo:
- Làm chút rượu để lát ăn cho ngon miệng nào John. Chú Casey đón lấy, uống xong bèn đặt cái ly lên bệ lò sưởi gần chỗ mình ngồi. Rồi chú bảo:
- Tôi không thể không nghĩ tới anh bạn Christopher của chúng ta…
Chú bật cười đến phát ho rồi nói thêm:
- …Cái thằng sản xuất thuốc nổ cho mấy gã kia ấy. Ông Dedalus cười to.
- Christy hả? – Ông hỏi – Hắn còn ranh ma hơn cả cáo. Ông cúi đầu, nhắm mắt, liếm môi lia lịa, rồi bắt đầu nói bằng giọng của tay chủ khách sạn.
- Anh có biết khi nói chuyện với anh, mồm miệng hắn dẻo quẹo không. Cái nọng cổ hắn ướt rượt mồ hôi, cầu Chúa phù hộ cho hắn.
Chú Casey vẫn cố kìm tiếng cười và ho. Stephen mường tượng ra khuôn mặt và giọng nói của tay chủ khách sạn qua bộ dạng của bố, cũng bật cười.
- Con cún kia, cười gì thế?
Những người hầu đi vào, đặt các món ăn lên bàn.
Bà Dedalus vào theo và sắp xếp các đĩa đồ ăn. Bà bảo:
- Mời mọi người vào chỗ.
Ông Dedalus đi tới cuối bàn rồi bảo:
- Giờ thì cô Riordan, mời vào chỗ. John, bạn thân mến của tôi, vào bàn thôi.
Ông Dedalus nhìn chú mình rồi bảo:
- Chú ơi, mọi người đang đợi chú này.
Khi mọi người đã ngồi vào chỗ, bố Stephen đặt tay lên nắp đậy đĩa đồ ăn rồi rụt lại, nói nhanh:
- Stephen, tới phiên con.
Stephen đứng lên, nói lời cầu nguyện trước bữa ăn:
Xin Chúa ban phúc lành cho chúng con và những thức chúng con sắp dùng, do lòng rộng rãi Chúa ban cho mà chúng con đón nhận qua Jesus là Chúa của chúng con. Amen.
Mọi người làm dấu thánh, bố hít một hơi dài mãn nguyện rồi nhấc chiếc nắp nặng nề, có những giọt nước lóng lánh viền quanh lên.
Stephen nhìn con gà tây mũm mĩm, trước đó đã được bó chặt, quay chín và đặt trên bàn bếp. Cậu biết bố đã tốn một đồng ghi-nê để mua nó từ tiệm Dunn trên phố D’Olier và người bán hàng cứ chọc vào ức gà để đảm bảo nó ngon lành. Cậu nhớ giọng người bán hàng khi ông ta bảo:
- Ông lấy con này đi. Con này ngon hết ý!
Sao thầy Barrett ở trường Clongowes gọi sợi dây da của thầy là gà tây nhỉ? Nhưng trường Clongowes ở xa đây lắm: mùi gà nướng, thịt lợn xông khói, cần tây ấm áp, nồng nàn tỏa ra từ các món ăn, ngọn lửa lớn trong lò sưởi vươn cao, đỏ rực, lá thường xuân xanh và quả ô rô đỏ làm bạn thấy vui sướng và khi mọi người dùng xong bữa tối, chiếc bánh pudding lớn được đem ra, rắc đầy hạnh đào đã bóc vỏ và những cành ô rô, có ngọn lửa xanh lơ lượn quanh và lá cờ nhỏ xanh lục cắm trên đỉnh.
Đó là bữa tối Giáng Sinh đầu tiên cậu được ngồi chung bàn với người lớn và Stephen nghĩ tới các em trai, em gái của mình ở trong phòng giữ trẻ, đang đợi bánh pudding y như cậu từng đợi. Chiếc áo vest trường Eton có cổ khoét sâu khiến cậu thấy mình hơi già nua và kỳ quặc. Sáng hôm đó, khi mẹ dẫn cậu ra phòng khách, ăn diện bảnh bao để chuẩn bị đi lễ Mi-sa, bố đã khóc. Đó là vì bố nghĩ tới ông nội. Ông Charles cũng bảo thế.
Bố đậy đĩa đồ ăn lại và bắt đầu ăn ngấu nghiến. Rồi bố bảo:
- Christy già tội nghiệp, giờ hắn gần như đổ đốn vì tính ba que xỏ lá của mình.
- Anh Simon, – Mẹ nói – cô Riordan chưa có tí nước xốt nào kìa.
Bố chộp lấy bát đựng xốt.
- Chưa có tí nào à? – Ông kêu lên – Cô Riordan, thứ lỗi cho kẻ mù lòa tội nghiệp này nhé.
Cô Dante lấy tay che đĩa mình lại rồi nói:
- Không cần đâu, cảm ơn. Bố quay sang ông Charles.
- Chú có chưa?
- Có đủ rồi, Simon ạ.
- Còn anh, John?
- Tôi ổn. Anh cứ lo cho mình đi.
- Em dùng nước xốt không, Mary? Stephen, bố sẽ cho con một ít làm tóc con xoăn tít.
Bố đổ ngập xốt vào đĩa của Stephen và để cái bát lại chỗ cũ. Rồi bố hỏi ông Charles là thịt gà có mềm không. Ông Charles đang ăn đầy mồm nên không trả lời mà chỉ gật đầu rằng có.
- Ông bạn của chúng ta đáp trả Giáo hội hay đấy. Anh thấy sao? – Bố hỏi.
- Tôi không nghĩ ông ấy phạm nhiều tội đến thế – Chú Casey đáp lại.
- THƯA CHA, CON SẼ TRẢ CÁC KHOẢN PHÍ KHI CHA NGỪNG BIẾN NHÀ CỦA CHÚA THÀNH HÒM PHIẾU.17
17 Nhiều linh mục đã thuyết giảng chống lại Parnell sau khi phát hiện ông ngoại tình. Trước áp lực của công chúng Anh và Ireland, của chính đảng mình, của Davitt (người đứng đầu Liên hiệp Đất mẹ) và Gladstone (Thủ tướng Anh), Parnell đã rời bỏ vị trí là người đứng đầu phe đòi quyền tự trị cho Ireland.
- Là Cơ đốc nhân mà ăn nói với linh mục như thế quả là hay ho! – Cô Dante nói.
- Họ tự trách mình thôi. – Bố ngọt nhạt đáp – Nếu nghe theo lời khuyên của một thằng ngốc thì họ chỉ nên chú tâm tới tôn giáo.
- Đó là tôn giáo. – Cô Dante giải thích – Các linh mục đang làm nhiệm vụ cảnh báo mọi người.
- Chúng ta tới nhà của Chúa – Chú Casey nói – để khiêm cung cầu nguyện với Đấng Sáng tạo chứ không phải đi nghe diễn văn bầu cử.
- Đó là tôn giáo. – Cô Dante lại nói – Các linh mục làm thế là đúng. Họ phải hướng dẫn giáo dân của mình.
- Vậy giảng chính trị trên bàn thờ sao? – Bố hỏi.
- Dĩ nhiên. – Cô Dante đáp – Đây là vấn đề đạo đức công. Một linh mục không phải linh mục nếu ông ta không bảo với giáo dân điều gì đúng điều gì sai.
Mẹ đặt dao dĩa xuống:
- Trong tất cả các ngày trong năm, làm ơn đừng bàn chuyện chính trị vào ngày này.
- Đúng lắm, thưa quý cô. – Ông Charles tán thành với mẹ – Giờ đủ rồi, Simon. Đừng nói gì nữa.
- Vâng, vâng. – Bố vội đáp.
Bố hùng dũng mở nắp đĩa đồ ăn ra rồi hỏi:
- Ai dùng thêm gà không?
Không ai trả lời. Cô Dante lên tiếng:
- Cơ đốc nhân mà ăn nói mới hay ho làm sao!
- Tôi xin cô đấy, cô Riordan. – Mẹ nói – Cô thôi ngay đề tài ấy đi.
Cô Dante quay về phía mẹ:
- Thế tôi cứ ngồi đây nghe người ta nhục mạ các linh mục của Giáo hội à?
- Không ai chống lại họ. – Bố nói – Chừng nào họ đừng xía vào chuyện chính trị.
- Các giám mục và linh mục Ireland đã lên tiếng. – Cô Dante góp giọng – Giáo dân phải nghe theo thôi.
- Giáo hội hãy mặc kệ chính trị, – Chú Casey bảo – hoặc người dân sẽ mặc kệ Giáo hội.
- Chị nghe thấy chưa? – Cô Dante quay sang nói với mẹ.
- Anh Casey! Anh Simon! Thôi đi! – Mẹ bảo.
- Quá tệ! Quá tệ! – Ông Charles nói.
- Gì chứ? – Bố kêu lên – Thế chúng ta nghe lệnh người Anh bỏ rơi ông ấy sao?
- Ông ta không xứng làm thủ lĩnh. – Cô Dante phản đối – Ông ta là tội nhân trước dân chúng.
- Chúng ta đều là tội nhân và phạm những tội ghê tởm. – Chú Casey lạnh lùng nói.
- KHỐN CHO KẺ GÂY RA BÊ BỐI! – Cô Dante nói – HẮN NÊN CỘT CỐI ĐÁ VÀO CỔ VÀ BỊ NÉM XUỐNG BIỂN CÒN HƠN GÂY RA BÊ BỐI CHO MỘT TRONG NHỮNG KẺ BÉ MỌN NÀY.18 Là lời Chúa nói đấy!
18 Dẫn ý Kinh Thánh, Matthew 18: 7-10.
- Nếu cô hỏi tôi thì đó là ngôn từ dở tệ. – Bố lãnh đạm.
- Simon! Simon! – Ông Charles kêu lên – Còn thằng bé!
- Vâng, vâng. – Bố đáp – Ý cháu là… Cháu đang nghĩ về ngôn từ dở tệ của đám phu khuân vác ở ga tàu. Giờ ổn rồi. Stephen, đưa đĩa của con đây, ông tướng. Ăn đi. Đây này.
Bố chất đầy đồ ăn vào đĩa Stephen rồi lấy cho ông Charles và chú Casey những miếng thịt gà to cùng vô số nước xốt. Mẹ ăn ít còn cô Dante ngồi đặt tay lên đùi. Mặt cô đỏ ửng. Bố cắm dao vào phía đuôi con gà rồi bảo:
- Con gà có chỗ này rất ngon được gọi là mũi giáo hoàng. Nếu ai thích thì…
Bố dùng dĩa xiên miếng phao câu giơ lên. Không ai đáp. Ông cho vào đĩa mình rồi bảo:
- Không ai nói gì nhưng tôi hỏi rồi nhé. Tôi nghĩ mình nên xơi chỗ này vì dạo gần đây tôi không được khỏe.
Bố nháy mắt với Stephen, đậy đĩa lại rồi bắt đầu ăn. Mọi người im lặng trong lúc bố ăn. Rồi bố bảo:
- Hôm nay mọi chuyện đều tốt đẹp. Có nhiều người lạ xuống phố nữa.
Không ai nói gì. Ông nói tiếp:
- Tôi nghĩ năm nay sẽ có nhiều người lạ xuống phố hơn Giáng Sinh năm ngoái.
Ông nhìn quanh nhưng mọi người đều cúi mặt xuống đĩa. Đợi một lúc, không thấy ai đáp, ông bèn cay đắng bảo:
- Ôi, bữa tối Giáng Sinh của tôi dù sao cũng hỏng bét.
- Trong nhà của kẻ không tôn trọng linh mục thì chẳng có phúc lành hay may mắn gì hết. – Cô Dante bảo.
Bố quăng dao dĩa loảng xoảng lên đĩa.
- Tôn trọng á? – Bố hỏi – Tôn trọng thằng Billy hay hớt hay cái thùng nước lèo ở Armagh19 á? Tôn trọng á?
19 Tức Tổng giám mục William Walsh ở Dublin và Giám mục Michael Logue ở Armagh.
- Đám hoàng thân của Giáo hội – Chú Casey nói bằng giọng miệt thị chậm rãi.
- Ừ, đám xà ích của Bá tước Leitrim. – Bố nói.
- Họ được Bá tước chỉ định đấy. – Cô Dante bảo – Họ là vinh dự cho đất nước này.
- Cái thùng nước lèo ấy á? – Bố khàn khàn bảo – Xin cô nhớ cho, mặt hắn chỉ đẹp lúc ngủ. Cô có thể thấy hắn tồm tộp nốc thịt lợn xông khói và bắp cải vào ngày đông tháng giá. Ôi Johnny!
Bố nhăn mặt làm bộ dạng của con vật béo ị và liếm môi tồm tộp.
- Simon à, thật sự anh không nên nói năng kiểu đó trước mặt Stephen. Làm thế không đúng đâu.
- Ồ, lớn lên nó sẽ nhớ toàn bộ chuyện này, – cô Dante giận dữ nói – Ngôn từ nó nghe được ở nhà này toàn những lời chống lại Chúa trời, tôn giáo và các linh mục.
- Nó cũng nên nhớ ngôn từ của các linh mục lẫn đám tốt của họ đã làm tan nát cõi lòng Parnell và dìm ông ấy xuống mồ sâu. Hãy để nó nhớ điều đó khi lớn lên. – Chú Casey hét vào mặt cô Dante qua bàn ăn.
- Bọn khốn nạn! – Bố kêu lên – Khi ông ấy sa sút, chúng quay lưng, phản bội và giày xéo ông ấy chẳng khác gì lũ chuột dưới cống. Bọn chó chết! Rồi chúng đứng nhìn! Thề có Chúa, chúng đứng nhìn!
- Mọi người hành xử thế là đúng. – Cô Dante kêu lên – Họ nghe theo các giám mục, linh mục của mình. Vinh dự thay cho họ!
- Ôi, nói thế vào những ngày khác trong năm nghe cũng đủ gớm ghiếc rồi. – Mẹ hỏi – Liệu ta có thể dừng cuộc tranh cãi gớm ghiếc này lại không?
Ông Charles nhẹ nhàng giơ tay lên bảo:
- Thôi nào, thôi nào! Ta không thể nêu ý kiến của mình mà không thể hiện tâm trạng xấu xí và dùng ngôn ngữ tệ hại được hay sao? Chuyện này tệ quá rồi đấy.
Mẹ hạ giọng nói với cô Dante nhưng cô vẫn nói to:
- Tôi có nói gì đâu. Tôi chỉ bảo vệ Giáo hội và tôn giáo của mình khi những Cơ đốc nhân phản trắc nhục mạ, phỉ nhổ họ.
Chú Casey thô lỗ đẩy đĩa của mình ra giữa bàn, tì khuỷu tay lên bàn rồi khàn khàn bảo chủ nhà:
- Nói tôi hay, tôi kể anh nghe câu chuyện về một vụ phỉ nhổ nổi tiếng chưa?
- Chưa, John à. – Bố đáp.
- Thế à, chuyện đó có nhiều điều đáng học hỏi. Nó xảy ra lâu rồi ở hạt Wicklow, nơi ta đang sống.
Chú dừng lại, quay sang cô Dante, nói với vẻ căm phẫn ngầm:
- Mà tôi nói cô hay, nếu ý cô chỉ tôi thì xin thưa, tôi không phải Cơ đốc nhân phản trắc. Tôi là Cơ đốc nhân y như bố tôi, ông tôi, cụ kỵ tôi, và chúng tôi thà từ bỏ mạng sống còn hơn bán rẻ đức tin của mình.
- Nói như anh lúc này còn đáng xấu hổ hơn. – Cô Dante bảo.
- Kể đi John. Dù sao cũng kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của anh đi nào. – Bố mỉm cười và nói tiếp.
- Cơ đốc nhân đích thực cơ đấy! – Cô Dante mỉa mai nhắc lại – Kẻ theo Tin Lành xấu xa nhất ở đất nước này cũng không ăn nói như những gì tôi nghe được tối nay.
Bố bắt đầu lắc lư, ngâm nga như một ca sĩ nhạc đồng quê.
- Tôi không theo Tin Lành, xin nhắc cô thế. – Chú Casey đỏ mặt bảo.
Bố vẫn ngâm nga, lắc lư đầu và bắt đầu làu bàu hát bằng giọng mũi:
Ôi, hãy tới đây nào, tất cả những người theo Công giáo La Mã.
Những người chưa từng dự lễ Mi-sa.
Ông vui vẻ nhặt dao dĩa của mình lên, chuẩn bị ăn tiếp và bảo chú Casey:
- Kể chúng tôi nghe chuyện của anh đi, John. Nó sẽ giúp chúng tôi tiêu hóa tốt hơn.
Stephen nhìn mặt chú Casey đầy cảm mến, khuôn mặt đang chăm chăm nhìn cả bàn qua đôi bàn tay nắm chặt. Cậu thích ngồi gần chú cạnh lò sưởi, nhìn lên khuôn mặt hung dữ u tối của chú. Nhưng cặp mắt u tối của chú không hề hung dữ và giọng nói chậm rãi của chú nghe rất hay. Sao chú chống lại linh mục? Vì cô Dante phải nói đúng chứ. Nhưng cậu từng nghe bố bảo cô là một nữ tu hư hỏng và đã rời tu viện trên dãy Alleghanies khi anh cô buôn đồ nữ trang và sành sứ rẻ tiền để moi móc từ đám người mọi rợ20. Có lẽ vì thế cô chống lại Parnell. Cô cũng không thích Stephen chơi với Eileen vì Eileen theo Tin Lành và khi còn trẻ, cô biết những đứa trẻ chơi với bọn Tin Lành đều giễu cợt kinh cầu Đức mẹ Đồng trinh. Chúng thường bảo “tháp ngà”, “nhà vàng” ư? Sao một phụ nữ là tháp ngà hay ngôi nhà bằng vàng được cơ chứ?21 Ai đúng đây? Rồi cậu nhớ tới buổi tối ở bệnh xá trường Clongowes, thứ nước đen ngòm, ánh sáng ở đầu cầu cảng và tiếng than khóc rền rĩ của đám người khi họ hay tin Parnell mất.
20 Nhân vật tạo ra cô Riordan ngoài đời suýt trở thành nữ tu ở Mỹ sau khi anh trai để lại gia tài 30.000 bảng nhờ buôn bán với người da đỏ bản địa.
21 Trong Kinh cầu Đức mẹ Đồng trinh của Công giáo La Mã, Đức mẹ được ví như tấm gương công lý, bình chứa tâm hồn, đóa hồng bí ẩn, tháp David, tháp ngà, nhà vàng v.v.. tức những cách nói xem Bà như cánh cửa dẫn tới Nước Trời.
Eileen có đôi tay dài trắng trẻo. Một hôm, đang chơi trốn tìm, nó liền lấy tay che mắt: tay nó dài, trắng, gầy, lạnh và mềm. Đó mới là ngà, một thứ trắng và lạnh. Đó mới là ý nghĩa của cụm từ “tháp ngà”.
- Câu chuyện ngắn gọn, nhẹ nhàng lắm. – Chú Casey bảo – Đó là một ngày ở Arklow, một ngày rét buốt, không lâu trước khi thủ lĩnh mất. Cầu Chúa xót thương ông ấy!
Chú mệt mỏi nhắm mắt, ngừng lại. Ông Dedalus cầm khúc xương gà lên, dùng răng xé ít thịt trên đó rồi bảo:
- Ý anh là trước khi ông ấy bị giết.
Chú Casey mở mắt, thở dài rồi kể tiếp:
- Chuyện này xảy ra hôm nọ, dưới Arklow. Chúng tôi xuống đó họp và họp xong, chúng tôi phải chen qua đám đông để ra ga tàu. Ôi trời, các bạn chưa từng nghe thấy tiếng be be phản đối ầm ĩ đến thế đâu. Họ gọi chúng tôi bằng mọi tên gọi trên đời. Có một quý bà già cả, chắc hẳn là một bà già hom hem say khướt, bà ta để ý tới tôi. Bà ta cứ nhảy nhót trên vũng nước cạnh tôi, kêu gào và hét vào mặt tôi: “BỌN ĐI SĂN LINH MỤC! BỌN BIỂN THỦ CÔNG QUỸ! ÔNG FOX! KITTY O’SHEA!”22
22 Parnell bị buộc tội biển thủ một số quỹ của đảng và ông dùng biệt danh Mr. Fox để liên hệ với người tình Kitty O’Shea.
- Thế anh làm gì hả John? – Bố hỏi.
- Tôi cứ mặc bà ta kêu gào. – Chú Casey đáp – Đó là một ngày lạnh giá, tôi phải ngậm ít thuốc lá nhai Tullamore và chắc chắn không thể nói gì vì mồm miệng đầy nước thuốc lá.
- Rồi sao, John?
- Ừ thì tôi cứ mặc bà ta kêu gào tùy thích, nào là “Kitty O’Shea” rồi những gì gì ấy cho tới khi bà ta gọi quý cô O’Shea bằng cái tên mà tôi không dám lặp lại làm bẩn mồm mình cũng như làm bẩn tai cô, thưa cô Riordan.
Chú ngừng lại. Bố ngưng gặm xương, hỏi:
- Rồi anh làm gì nữa, John?
- Làm gì ư? – Chú Casey nói – Bà ta gí bộ mặt già nua xấu xí vào mặt tôi khi nói những từ ấy còn tôi thì mồm đầy nước thuốc lá. Tôi cúi xuống và phẹt, tôi đáp lại bà ta thế đấy.
Chú quay mặt và làm động tác nhổ nước bọt.
- Phẹt, tôi đáp lại bà ta thế đấy, ngay mắt nhé.
Chú vỗ vào mắt mình và rú lên tiếng kêu khàn khàn đau đớn.
- ÔI CHÚA ƠI, MARY VÀ JOSEPH ƠI! Bà ta rú lên - TÔI MÙ RỒI, MÙ VÀ BỊ DÌM CHẾT RỒI!
Chú dừng lại vì cười quá hóa ho, rồi lặp lại:
- TÔI MÙ HẲN RỒI! Bố cười to, ngả người ra sau trong khi ông Charles lắc đầu. Cô Dante rất giận và cứ lặp lại mấy lời này trong lúc hai người kia cười:
- Ha ha, hay ho gớm, hay ho gớm!
Cái trò nhổ nước bọt vào mắt phụ nữ chả hay ho gì. Nhưng bà già kia gọi quý cô Kitty O’Shea bằng tên gì mà chú Casey không muốn nhắc lại? Stephen nghĩ tới chú Casey lúc chú rời cỗ xe ngựa bốn bánh, đi giữa đám đông và đọc diễn văn. Đó là việc khiến chú bị tống vào tù và Stephen nhớ buổi tối Hạ sĩ O’Neill đến nhà, đứng ngoài sảnh, trầm giọng bảo với bố cậu và bồn chồn nhai dây buộc mũ. Tối đó, chú Casey không lên tàu hỏa tới Dublin mà đón xe trước cửa nhà và Stephen nghe bố nói điều gì đó về đường Cabinteely.
Chú Casey và bố cậu đều ủng hộ Ireland, ủng hộ Parnell. Cô Dante cũng thế bởi một tối nọ, trong buổi hòa nhạc đường phố, cô đã dùng ô đánh vào đầu một quý ông vì ông ta dám bỏ mũ ra khi ban nhạc chơi bài “Chúa phù hộ Nữ hoàng”23 để kết thúc buổi diễn.
23 “God save the Queen” là quốc ca nước Anh.
Dedalus cha khịt mũi khinh bỉ.
- À, John này. – Ông bảo – Dân chúng đúng là thế. Chúng ta không may là chủng loại bị linh mục dắt mũi, chúng ta đã và sẽ luôn như vậy tới lúc chết.
Ông Charles lắc đầu bảo:
- Một việc xấu xa! Một việc xấu xa!
Bố lặp lại:
- Một chủng loài chết dẫm bị linh mục dắt mũi!
Đoạn ông chỉ bức chân dung của ông mình treo trên tường phía tay phải.
- Anh thấy ông già kia không, John? – Bố hỏi – Ông ấy là một người Ireland tử tế hồi đi làm chưa kiếm được tiền. Ông ấy bị xử tử hình vì tội làm phiến quân bạch y24. Nhưng ông ấy có nói về đám tu sĩ của chúng ta, rằng ông không bao giờ để họ đặt chân tới nhà và ngồi vào bàn ăn cùng mình.
24 Nguyên văn: “whiteboy”. Tức những kẻ kích động chống lại các chủ đất đánh tô thuế quá cao. Gọi thế vì họ thường mặc đồ trắng. Cụ của tác giả cũng bị xét xử về tội làm phiến quân bạch y.
Cô Dante giận dữ ngắt lời:
- Nếu là chủng loài bị linh mục dắt mũi thì ta nên tự hào về chuyện đó! Họ là con ngươi trong mắt Chúa. “Đừng động vào họ”, Chúa bảo, “vì họ là con ngươi trong mắt ta”.
- Vậy ta không thể yêu đất nước mình sao? – Chú Casey hỏi – Bộ ta không đi theo người được sinh ra để dẫn dắt mình sao?
- Một kẻ phản bội đất nước! – Cô Dante đáp – Một kẻ phản bội, ngoại tình! Các linh mục bỏ rơi hắn là đúng. Các linh mục luôn là người bạn đích thực của Ireland.
- Phải thế không, họ có phải đức tin đâu? – Chú Casey hỏi.
Chú thu nắm tay đặt trên bàn, giận dữ nhăn nhó và duỗi từng ngón ra.
- Chẳng phải các giám mục Ireland đã phản bội chúng ta trong giai đoạn Ireland gia nhập Liên hiệp Anh khi Giám mục Lanigan đọc diễn văn bày tỏ lòng trung thành với Hầu tước Cornwallis? Chẳng phải các giám mục và linh mục đã bán đi khát vọng độc lập của đất nước hồi năm 1829 để đổi lấy Đạo luật Giải phóng Công giáo?25 Chẳng phải họ đã dẹp bỏ phong trào Fenian26 từ bục giảng kinh và buồng xưng tội? Chẳng phải họ đã làm ô danh tro cốt của Terence Bellew MacManus27?
25 Theo Barrington, trong Sự trỗi dậy và sụp đổ của Ireland, New York, 1845, p.371, Giáo hội Ireland đã bị mua chuộc để ủng hộ Ireland gia nhập Liên hiệp Anh vào năm 1800 và việc mua chuộc này không được vinh danh suốt 29 năm. Đạo luật Giải phóng Công giáo được Quốc hội Anh thông qua vào năm 1829, các giám mục và linh mục không thực sự “bán rẻ” Ireland nhưng họ quả có ủng hộ Đạo luật này thay vì phản đối Ireland gia nhập Liên hiệp Anh.
26 Phong trào Fenian của Hội Huynh đệ Cộng hòa Ireland nhằm giành quyền độc lập cho Ireland.
27 Terence B. MacManus là nhà ái quốc người Ireland, đi theo Daniel O’Connell, Thị trưởng Dublin trong những cuộc nổi dậy năm 1840-1848.
Mặt chú Casey đỏ ửng vì giận và Stephen cũng cảm thấy sức nóng ấy bốc lên mặt mình khi cậu run lên vì những lời nói đó. Bố bật một tràng cười ha hả, thô lỗ đầy khinh bỉ.
- Ôi, Chúa ơi. – Ông kêu lên – Tôi quên mất lão Paul Cullen28 nhỏ thó! Một con ngươi khác trong mắt Chúa!
28 Paul Cullen là Tổng Giám mục Dublin.
Cô Dante nghiêng người qua bàn, hét lên với chú Casey:
- Đúng! Đúng! Họ luôn đúng! Chúa trời, luân lý và tôn giáo là trên hết.
Mẹ thấy cô kích động bèn bảo cô:
- Cô Riordan, đừng cố đáp trả hai người kia nữa.
Chú Casey giơ cao nắm đấm và đập cái rầm xuống bàn.
- Tốt rồi. – Chú khàn khàn la lên – Nếu thế, Ireland chẳng cần Chúa!
- John à! Thôi nào! – Bố kêu lên và nắm ống tay áo của vị khách.
Cô Dante trừng mắt nhìn qua bàn ăn, gò má giật giật. Chú Casey vùng dậy, nghiêng người về phía cô, khua một tay trước mặt như xua đi tấm mạng nhện.
- Ireland chẳng cần Chúa! – Chú kêu lên – Có quá nhiều Chúa ở Ireland rồi.
- Thật báng bổ! Đồ quỷ dữ! – Cô Dante hét lên, giậm chân và suýt nhổ vào mặt chú Casey.
Ông Charles và bố kéo chú Casey lại chỗ ngồi, nói phải trái với chú.
Cô Dante thô bạo đẩy ghế sang bên và rời bàn ăn, làm chiếc vòng xỏ khăn rơi ra và lăn chầm chậm dọc tấm thảm, tới chân ghế bành thì dừng lại. Mẹ cũng vội đứng lên, theo chân cô ra cửa. Tới cửa, cô Dante bực tức quay lại và hét vang cả phòng, gò má cô đỏ ửng và run lên vì giận:
- Đồ quỷ dữ trốn khỏi địa ngục! Chúng tôi thắng! Chúng tôi sẽ nghiền hắn tới chết! Đồ xấu xa!
Cánh cửa đóng sầm sau lưng cô.
Chú Casey không bị ai giữ nữa, đột nhiên gục đầu vào tay và chua xót khóc.
- Tội nghiệp Parnell! – Chú khóc to – Vị vua đã chết của tôi!
Chú khóc to và đầy cay đắng.
Stephen ngước khuôn mặt kinh sợ lên nhìn, thấy bố cũng ầng ậng nước mắt.
Bọn con trai tụ thành nhóm nhỏ tán chuyện. Một đứa bảo:
- Chúng bị bắt gần đồi Lyons.
- Ai bắt chúng?
- Thầy Gleeson và Đức Cha. Chúng lên xe ngựa. – Thằng đó nói thêm – Một thằng bên cao trung bảo tao hay.
Fleming hỏi:
- Nhưng nói bọn tao nghe xem, sao chúng bỏ trốn?
- Tao biết tại sao rồi. – Thằng Cicil Thunder bảo – Vì chúng cuỗm tiền ở phòng thầy Hiệu trưởng.
- Ai cuỗm tiền?
- Anh thằng Kickham. Chúng lấy rồi chia nhau.
- Nhưng đó là trộm cắp. Sao chúng làm thế?
- Mày biết cóc khô gì, Thunder! – Wells bảo – Tao biết sao chúng cuỗm tiền rồi.
Stephen nghiêng đầu để nghe ngóng. Wells nhìn quanh xem có ai tới không. Rồi nó thì thào vẻ bí mật:
- Bọn mày biết chỗ rượu thánh cất trong tủ đựng đồ ở phòng để đồ thờ không?
- Có.
- Ừ, chúng uống chỗ rượu ấy, các thầy ngửi mùi là biết ngay đứa nào đã uống. Thế là chúng bỏ trốn, nếu bọn mày muốn biết lý do.
Rồi thằng đầu tiên nói:
- Ừ, tao cũng nghe một thằng cao trung bảo thế.
Cả bọn im lặng. Stephen đứng giữa đám bạn, chỉ
nghe, chẳng dám nói gì. Cơn buồn nôn thoáng qua do sợ hãi làm cậu thấy yếu ớt. Sao chúng lại làm thế? Cậu nghĩ tới phòng để đồ thờ tối đen, im ắng. Có những tủ gỗ tối đen, áo lễ xếp nếp được gấp lại nằm im. Đó không phải nhà nguyện nhưng bạn vẫn phải nói nhỏ. Đó là chốn linh thiêng. Cậu nhớ một đêm hè mình đã ở đó, ăn vận như người cầm tàu hương, tham gia đám rước tới một bàn thờ nhỏ trong rừng. Một chốn linh thiêng và kỳ lạ. Thằng bé cầm bình hương lắc sợi xích giữa bình để than trong bình cháy. Đó là than củi. Nó lặng lẽ cháy và tỏa ra mùi chua thoang thoảng khi thằng bé lắc nhẹ bình. Khi mọi người vận xong áo lễ, cậu giơ tàu hương ra cho thầy Hiệu trưởng, thầy xúc một thìa đầy cho vào bình, hương trầm liền cháy xèo xèo trên than hồng.
Bọn con trai tụ thành nhóm nhỏ tán chuyện đây đó trên sân chơi. Với cậu, đám bạn như nhỏ lại vì hôm trước một thằng đua xe đạp cự ly ngắn đã va phải cậu, một thằng học lớp 8-2. Cậu bị xe thằng đó hất nhẹ ra con đường rải xỉ than, mắt kính của cậu vỡ tan tành và vài mẩu xỉ than rơi vào mồm cậu.
Đó là lý do tại sao với cậu, đám bạn trở nên nhỏ bé, xa xôi hơn, cột cầu môn quá mỏng mảnh, xa tít tắp, còn bầu trời xám xịt, mềm mịn cũng quá xa xăm. Nhưng không ai lượn trên sân vì sắp có trận bóng diễn ra: có thằng bảo Barnes, có thằng bảo Flowers sẽ làm đội trưởng. Trên sân, đám con trai đang chơi rounders29 và ném những cú xoáy, lốp. Đây đó có tiếng gậy đánh bóng vụt vào không khí màu xám mềm mịn. Tiếng động đó kêu róc ra róc rách: tiếng những giọt nước bé nhỏ từ vòi phun chậm rãi chảy xuống cái hồ đầy tràn.
29 Rounders là môn thể thao gồm hai đội, một đội đánh và một đội đỡ. Mỗi đội có tối đa chín người. Đội đánh cử một cầu thủ dùng gậy đánh bóng và chạy qua các chốt chặn để ghi điểm. Nếu bóng bị cầu thủ đội đỡ bắt được, hoặc cầu thủ đội đánh chạy tới chốt chặn sau cầu thủ đội đỡ, hoặc cầu thủ đội đánh làm rơi bóng, thì đội đánh không được điểm. Môn này được xem là tiền thân của bóng chày.
Athy, lúc trước im lặng, giờ khẽ bảo:
- Bọn mày đều sai cả.
Cả bọn háo hức quay lại nhìn nó.
- Sao cơ?
- Mày biết à?
- Ai bảo mày biết?
- Nói cho bọn tao hay đi Athy.
Athy chỉ tay qua sân chơi, nơi Simon Moonan đang đi bộ một mình, chân đá hòn đá phía trước mặt.
- Hỏi nó đi. – Athy bảo. Cả bọn nhìn theo rồi bảo:
- Sao lại là nó?
- Bộ nó dính vào vụ này à? Athy hạ giọng rồi bảo:
- Bọn mày có biết tại sao mấy thằng kia cuỗm tiền không? Tao sẽ nói cho bọn mày hay nhưng bọn mày biết đấy, không được hở ra đâu nhé.
- Nói đi, Athy. Nói tiếp đi. Nếu biết thì mày phải nói. Athy ngừng một lúc rồi ra vẻ bí ẩn bảo:
- Tối hôm nọ, chúng bị bắt cùng thằng Simon Moonan và Tusker Boyle ở nhà xí.
Cả bọn nhìn Athy và hỏi:
- Bị bắt á?
- Chúng đang làm gì? Athy đáp:
- Quan hệ đồng tính.
Cả bọn im re, còn Athy bảo:
- Đó là lý do tại sao.
Stephen nhìn mặt đám bạn nhưng chúng đều đang nhìn qua sân chơi. Cậu muốn hỏi ai đó về vụ này. Quan hệ đồng tính ở nhà xí nghĩa là gì? Sao năm thằng cao trung lại bỏ trốn vì chuyện đó? Cậu nghĩ, đây là trò đùa. Simon Moonan có quần áo đẹp và tối nọ, nó còn cho cậu xem một quả bóng chứa đầy kẹo mềm mịn như kem mà đám cầu thủ đội 15 đã lăn dọc tấm thảm ở giữa phòng ăn cho nó, khi nó đứng ở cửa. Đó là hôm trường cậu đấu với đội Bective Rangers; quả bóng giống một quả táo xanh đỏ, chỉ cần mở ra là bên trong chứa đầy kẹo mềm mịn như kem. Có hôm, thằng Boyle bảo rằng voi có ngà chứ không có răng nanh nên đó là lý do tên nó là Tusker Boyle30 nhưng vài thằng cứ gọi nó là Cô Boyle vì nó chăm chút và cắt tỉa móng tay suốt.
30 Tusker Boyle dùng tusker thay vì tusk khi mô tả ngà voi, ý cậu ta bảo mình khỏe như voi ngay từ cái tên.
Eileen cũng có đôi tay dài, trắng, gầy và lạnh vì nó là con gái. Tay nó y như ngà, nhưng mềm hơn. Đó là nghĩa của từ “tháp ngà”, nhưng những người theo đạo Tin Lành không hiểu và cứ đùa cợt từ đó. Một hôm, Stephen đứng cạnh Eileen và nhìn sang khu đất khách sạn. Một người bồi bàn đang chạy lên con đường giăng đầy cờ quạt và một con chó fox terrier đang chạy tới lui trên bãi cỏ ngập nắng. Eileen cho tay vào túi áo cậu, nơi cậu cũng đang đút tay vào và cậu thấy tay cô bé mới lạnh, gầy và mềm làm sao. Eileen bảo quần áo có túi là thứ rất buồn cười, rồi đột nhiên nó rút tay ra, vừa chạy xuống con dốc uốn lượn vừa cười vang. Mái tóc sáng màu của nó bay bay sau lưng y như vàng trong nắng. Tháp ngà. Nhà vàng. Cứ nghĩ tới mọi thứ, bạn có thể hiểu được những từ này.
Nhưng sao ở nhà xí? Bạn đến đó khi muốn làm gì đấy. Đó là nơi được lát đá dày, nước từ những lỗ nhỏ rỉ ra cả ngày và có mùi hôi thối. Sau cánh cửa một phòng vệ sinh có bức hình được vẽ bằng chì đỏ, hình một người đàn ông có râu mặc áo thụng kiểu La Mã, hai tay cầm hai viên gạch, dưới có ghi dòng chữ “Balbus đang xây tường”.
Đứa học trò nào đó đã vẽ để đùa cợt. Đó là khuôn mặt buồn cười nhưng trông rất giống một người đàn ông có râu. Trên tường một phòng vệ sinh khác có dòng chữ rất đẹp nghiêng về bên trái “Julius Caesar viết Cái bụng của người Gô-loa”31.
31 Chơi chữ giễu tác phẩm tiếng La-tinh được dạy trong sách giáo khoa thời đó là Bello Gallico hay Gallic War (Cuộc chiến với người Gô-loa) của J.Caesar thành Calico Belly (Cái bụng của người Gô-loa).
Có lẽ đó là lý do tại sao bọn chúng ở đó: vì đó là nơi vài thằng hay tới viết mấy câu đùa cợt. Nhưng những gì Athy nói và cách nó nói vẫn rất kỳ quặc. Đấy đâu phải trò đùa vì bọn kia đã bỏ trốn. Stephen cùng mấy đứa khác nhìn qua sân chơi và bắt đầu thấy sợ.
Cuối cùng, Fleming bảo:
- Bọn mình sẽ bị phạt vì chuyện đứa khác làm sao?
- Tao sẽ không vào lớp, cứ đợi đó mà xem, – Cecil Thunder bảo – Ba ngày liền ngồi im trong phòng ăn rồi cứ mỗi phút bọn mình sẽ ăn sáu hay tám roi.
- Đúng thế. – Wells bảo – Lão Barrett có cách vặn vở để bọn mày không mở ra được rồi sẽ uốn vở trở lại để xem bọn mày sẽ ăn bao nhiêu roi. Tao cũng không về lớp đâu.
- Ừ. – Cecil Thunder bảo – Thầy Giám quản các môn học sáng nay đã ghé qua lớp Tám.
- Bọn mình bùng thôi. – Fleming bảo – Ta làm chứ?
Cả đám im lặng. Không khí rất yên ắng và bạn có thể nghe thấy tiếng gậy đánh bóng chậm hơn trước.
Thằng Wells hỏi:
- Bọn kia sẽ thế nào?
- Simon Moonan và Tusker sẽ bị quất bằng roi da. – Athy bảo – Còn bọn cao trung được chọn hoặc ăn roi hoặc bị đuổi học.
- Thế chúng chọn gì? – Thằng nói đầu tiên hỏi.
- Trừ Corrigan ra còn lại đều chọn bị đuổi học. – Athy đáp – Corrigan sẽ bị thầy Gleeson quất.
- Tao biết tại sao rồi. – Thằng Cecil Thunder bảo – Corrigan đúng còn những thằng khác sai vì một trận đòn sẽ phai nhạt, còn chuyện bị đuổi học sẽ bị nhớ tới cả đời. Hơn nữa, thầy Gleeson sẽ chẳng quất Corrigan đau đâu.
- Thầy ấy rất giỏi trò đó. – Fleming bảo.
- Tao không thích là Simon Moonan và Tusker. – Cecil Thunder bảo – Nhưng tao không tin chúng sẽ bị quất. Có lẽ chúng chỉ ăn khẻ mỗi thằng chín roi.
- Không, không. – Athy bảo – Chúng sẽ bị quất một trận ra trò.
Thằng Wells xoa người rồi rên lên:
- Thầy ơi, tha cho em!
Athy nhăn mặt rồi xắn tay áo lên, bảo:
Van xin cũng vô ích,
Hình phạt phải làm ngay.
Nào hãy tụt quần xuống
Rồi chìa mông ra đây.
Cả đám cười to, nhưng Stephen vẫn thấy chúng hơi sợ. Trong sự tĩnh lặng của luồng không khí mềm mịn màu xám, cậu nghe thấy tiếng gậy đánh bóng vung lên đây đó. Đó là một âm thanh vui tai nhưng nếu bị đánh trúng, bạn sẽ thấy rất đau. Chiếc roi da cũng tạo ra âm thanh nhưng không giống thế. Đám bạn cậu bảo nó được làm từ xương cá voi và da, có nhét chì bên trong. Cậu tự hỏi bị quất bằng roi da sẽ đau thế nào. Có nhiều loại âm thanh khác nhau. Một cây thước dài mỏng sẽ tạo ra tiếng vút cao và cậu tự hỏi bị vụt bằng thước sẽ đau thế nào. Nghĩ tới chuyện ấy và những gì Athy nói làm cậu run lên, thấy lạnh. Nhưng chuyện ấy có gì đáng cười đâu? Nó làm cậu run lên. Đó là vì mỗi lần tụt quần, bạn luôn run lên. Cũng như khi bạn cởi quần áo để đi tắm ấy. Cậu tự hỏi ai phải tụt quần xuống, kẻ ăn đòn hay người đánh đòn. Ôi sao đám bạn cậu có thể cười như thế nhỉ?
Cậu nhìn tay áo được xắn lên và bàn tay dính mực của Athy. Nó xắn tay áo lên để mô tả thầy Gleeson sẽ xắn tay áo lên. Nhưng thầy Gleeson có hai cổ tay áo tròn lẳn sáng bóng, cổ tay thầy sạch tinh còn bàn tay thầy trắng trẻo, hơi béo, những móng tay dài và nhọn. Có lẽ thầy cũng cắt tỉa móng tay như Cô Boyle. Nhưng móng tay thầy dài và nhọn khủng khiếp. Chúng quá dài, quá độc ác, dù đôi bàn tay trắng trẻo hơi béo kia không độc ác mà dịu dàng. Dù run lên vì lạnh và sợ khi nghĩ tới những móng tay dài, độc ác ấy, tiếng vút cao của cây thước và nỗi ớn lạnh mà bạn sẽ cảm thấy khi cởi quần áo ra, Stephen vẫn thấy một niềm vui yên ả kỳ quặc trong lòng khi nghĩ tới đôi bàn tay trắng trẻo hơi béo, sạch sẽ, mạnh mẽ và dịu dàng. Cậu nghĩ tới những gì Cecil Thunder nói: rằng thầy Gleeson sẽ không đánh Corrigan đau. Fleming cũng nói thầy sẽ không đánh đau vì thầy rất giỏi trò đó. Nhưng đó không phải lý do của việc bị ăn đòn.
Một giọng nói từ xa vọng lại, vang trên sân chơi:
- Tất cả vào lớp!
Những giọng khác cũng cất lên:
- Tất cả vào lớp! Tất cả vào lớp!
Suốt giờ làm văn, cậu ngồi khoanh tay, lắng nghe tiếng ngòi bút sột soạt chậm rãi. Thầy Harford đi tới đi lui, viết những ký hiệu nhỏ bằng bút chì đỏ và thỉnh thoảng ngồi cạnh một học trò để chỉ nó cách cầm bút. Stephen cố đánh vần tiêu đề dù cậu biết đó là gì vì nó nằm cuối sách “Nhiệt tình mà thiếu cẩn trọng thì giống như con tàu trôi dạt không phương hướng”. Nhưng dòng chữ này giống những sợi chỉ nhỏ vô hình mịn màng và chỉ khi nhắm chặt mắt phải, mở to mắt trái, cậu mới nhận ra đường cong của những chữ viết hoa.
Thầy Harford rất hiền, chẳng bao giờ nổi cáu. Các thầy khác rất dễ nổi cáu. Nhưng sao hai đứa kia bị phạt vì chuyện bọn cao trung làm chứ? Wells kể chúng uống trộm rượu thánh cất trong phòng để đồ thờ và các thầy đã ngửi mùi, tìm ra thủ phạm rồi mà. Có lẽ chúng ăn trộm bình đựng bánh thánh rồi bỏ trốn hoặc đem bán nó đi. Tội đó thật khủng khiếp, cái tội đêm đến lẻn vào phòng để đồ thờ, mở chiếc tủ đựng đồ tối đen ra, trộm lấy vật báu bằng vàng lấp lánh kia, cái vật mà Chúa nằm trong đó rồi được đặt trên bàn thờ đầy hoa và nến trong lễ Rước Thánh thể, khi hương trầm tỏa thành cụm ở hai bên bàn thờ trong lúc một học trò lắc bình hương còn Dominic Kelly mở màn dàn đồng ca. Dĩ nhiên, Chúa không ở trong bình đựng bánh thánh khi bọn kia lấy nó đi. Song Stephen vẫn nghĩ thật kỳ lạ và kinh khủng khi chạm vào cái bình ấy. Nghĩ tới điều đó thôi, cậu đã hãi rồi. Thật là một tội lỗi kỳ lạ và kinh khủng: thầm nghĩ tới nó giữa tiếng bút sột soạt khe khẽ khiến cậu run lên. Lấy rượu thánh uống cũng là một tội, nhưng tội đó không quá kinh khủng và kỳ lạ. Nó chỉ khiến bạn hơi buồn nôn khi nghĩ tới mùi rượu mà thôi. Vì vào lần đầu được ban thánh thể trong nhà nguyện, cậu đã nhắm mắt, mở miệng, hơi thè lưỡi ra, và khi thầy Hiệu trưởng cúi xuống ban thánh thể cho cậu, cậu đã ngửi thấy mùi rượu thoảng qua trong hơi thở của thầy sau khi nếm rượu lễ. Từ “rượu” thật đẹp. Nó làm bạn nghĩ tới màu tím sẫm vì nho có màu tím sẫm và mọc ở Hi Lạp bên ngoài những ngôi nhà trông như đền đài trắng. Nhưng mùi rượu thoảng qua trong hơi thở của thầy Hiệu trưởng làm cậu có cảm giác buồn nôn trong lễ Ban Thánh thể. Ngày được ban thánh thể là ngày hạnh phúc nhất đời bạn. Có lần tướng lĩnh hỏi Napoleon rằng ngày nào là ngày hạnh phúc nhất đời ông. Họ nghĩ ông sẽ bảo là ngày mình thắng trận đánh lớn hoặc ngày mình làm hoàng đế. Nhưng ông đáp:
- Thưa các quý ông, ngày hạnh phúc nhất đời tôi là ngày lần đầu tôi được ban thánh thể.
Cha Arnall bước vào lớp, giờ học tiếng La-tinh bắt đầu và Stephen vẫn ngồi im, tựa vào bàn, tay khoanh lại. Cha Arnall phát vở làm văn, thầy bảo bài nào cũng đáng hổ thẹn, cần phải viết lại và sửa lỗi ngay. Nhưng bài của Fleming tệ nhất vì các trang vở bị dây mực vào nên dính cả lại. Cha Arnall cầm góc cuốn vở đó lên và bảo, thật sỉ nhục cho thầy giáo nào xem bài này. Rồi Cha gọi Jack Lawton lên bảng biến đổi danh từ “mare” và Jack Lawton dừng lại ở số ít, không biết số nhiều là gì.
- Cậu phải tự thấy xấu hổ chứ. – Cha Arnall nghiêm nghị bảo – Ai đời Lớp trưởng mà lại thế!
Rồi thầy hỏi đứa khác, đứa nữa rồi thêm một đứa nữa. Không ai biết. Cha Arnall lặng im, càng lúc càng lặng im mỗi lần một đứa học trò cố trả lời nhưng không đúng. Mặt thầy tối sầm, mắt thầy trợn trừng dù thầy nói rất khẽ. Rồi thầy hỏi Fleming và Fleming bảo danh từ này không có số nhiều. Cha Arnall thình lình gập sách lại và quát nó:
- Ra giữa lớp quỳ xuống. Cậu là đứa lười nhất ta từng gặp. Cả lớp, làm lại bài văn ngay.
Fleming nặng nề di chuyển khỏi chỗ ngồi và quỳ xuống giữa hai bàn cuối lớp. Những học trò khác cúi xuống vở làm văn và bắt đầu viết. Bầu không khí tĩnh lặng bao trùm lớp học còn Stephen rụt rè liếc gương mặt tối sầm của cha Arnall, thấy mặt thầy bắt đầu hơi đỏ vì cáu.
Cha Arnall nổi cáu là phạm tội, hay thầy được phép nổi cáu khi học trò lười biếng vì làm thế sẽ khiến chúng học hành tốt hơn, hay thầy chỉ giả vờ nổi cáu? Đó là vì thầy được phép nổi cáu, vì một tu sĩ biết tội lỗi là gì và sẽ không phạm phải. Nhưng nếu lỡ phạm phải, thầy sẽ xưng tội thế nào? Có lẽ thầy sẽ xưng tội với Đức Cha. Nếu Đức Cha phạm tội, Đức Cha sẽ xưng tội với thầy Hiệu trưởng; còn thầy Hiệu trưởng sẽ xưng tội với Giám mục tỉnh; Giám mục tỉnh sẽ xưng tội với Đức Tổng giám mục. Đó là theo thứ tự. Stephen cũng nghe bố bảo họ đều thông minh. Họ có thể trở thành những người quyền cao chức trọng nếu không làm tu sĩ. Rồi cậu tự hỏi Cha Arnall, thầy Paddy Barrett, thầy McGlade và thầy Gleeson sẽ làm gì nếu không làm tu sĩ. Thật khó nghĩ họ sẽ làm gì bởi bạn sẽ nghĩ về họ khác đi, nghĩ họ ăn mặc khác đi, để râu ria, đội mũ mão khác đi.
Cửa lớp học khẽ mở ra rồi đóng lại. Có tiếng xì xào: đó là thầy Giám quản các môn học. Lập tức cả lớp lặng yên như tờ rồi có tiếng thước vụt thật to lên chiếc bàn cuối lớp. Tim Stephen nảy lên vì sợ.
- Có trò nào muốn ăn đòn không, cha Arnall? – Thầy Giám quản kêu lên – Có trò nào lười biếng muốn ăn đòn trong lớp này không?
Thầy ra giữa lớp và thấy Fleming đang quỳ gối.
- Hô hô! – Thầy kêu lên – Đứa nào đây? Sao nó quỳ thế kia? Tên cậu là gì, cậu nhóc?
- Fleming, thưa thầy.
- Hô hô, Fleming! Một kẻ lười biếng, dĩ nhiên rồi. Ta có thể thấy điều đó trong mắt cậu. Sao nó quỳ vậy, Cha Arnall?
- Nó viết bài tiếng La-tinh dở tệ. – Cha Arnall bảo – Câu hỏi ngữ pháp thì làm sai bét cả.
- Dĩ nhiên là thế! – Thầy Giám quản kêu lên – Dĩ nhiên là thế! Một kẻ lười biếng bẩm sinh! Tôi có thể thấy điều đó trong khóe mắt nó.
Thầy nện thước xuống bàn rồi bảo:
- Đứng lên, Fleming! Đứng lên, cậu nhóc! Fleming chậm chạp đứng lên.
- Xòe tay ra! – Thầy Giám quản bảo.
Fleming xòe tay ra. Cây thước vụt xuống thật to: một, hai, ba, bốn, năm, sáu roi.
- Tay kia!
Cây thước lại vụt xuống sáu roi thật to.
- Quỳ xuống! – Thầy Giám quản kêu.
Fleming quỳ xuống, áp tay vào mạng sườn, mặt nhăn nhó vì đau. Stephen biết tay Fleming chai cứng cỡ nào vì nó luôn bôi nhựa thông lên tay. Nhưng có lẽ nó đau lắm vì tiếng vụt nghe to thế cơ mà. Tim Stephen đập và run lên.
- Tất cả quay lại làm bài! – Thầy Giám quản quát – Chúng ta không muốn thấy kẻ lười biếng, kẻ mưu toan nhỏ thó nào ở đây hết. Ta bảo, quay lại làm bài. Cha Dolan sẽ trông chừng các em mỗi ngày. Mai ta lại tới.
Thầy dùng thước chỉ một học trò rồi bảo:
- Cậu nhóc kia! Khi nào ta lại tới?
- Mai, thưa thầy. – Tom Fulong mở miệng đáp.
- Mai, rồi mai, rồi mai nữa. – Thầy Giám quản bảo – Hãy suy nghĩ về chuyện đó. Cha Dolan sẽ tới mỗi ngày. Làm bài đi. Em kia, tên gì?
Tim Stephen nảy lên.
- Stephen, thưa thầy.
- Sao em không làm bài như những bạn khác?
- Em…em…
Cậu không nói được vì sợ.
- Sao nó không làm bài hả, cha Arnall?
- Nó làm vỡ mắt kính – Cha Arnall bảo – nên tôi miễn cho nó làm bài.
- Vỡ mắt kính? Ta nghe thấy gì thế? Họ của em là gì?
– Thầy Giám quản bảo.
- Dedalus, thưa thầy.
- Ra đây, Dedalus. Đồ mưu toan lười biếng nhỏ thó. Ta thấy âm mưu hiện trên mặt cậu. Cậu làm vỡ mắt kính ở đâu?
Stephen lập cập đi ra giữa lớp, mắt mờ đi vì luống cuống và sợ hãi.
- Cậu làm vỡ mắt kính ở đâu? – Thầy Giám quản hỏi lại.
- Chỗ đường rải xỉ than, thưa thầy.
- Hô hô! Đường rải xỉ than! – Thầy Giám quản kêu lên – Ta biết trò bịp này mà.
Stephen ngạc nhiên ngước lên và cậu bỗng thấy khuôn mặt không còn trẻ, xám trắng của cha Dolan, cái đầu hói xám trắng với hai túm tóc hai bên, gọng kính bằng thép và cặp mắt không màu nhìn qua kính của thầy. Sao thầy nói đó là trò bịp nhỉ?
- Đồ lười biếng nhỏ thó! – Thầy Giám quản kêu lên – Làm vỡ mắt kính à? Trò bịp cũ rích! Xòe tay ra ngay!
Stephen nhắm mắt lại, xòe bàn tay run rẩy ra, lòng bàn tay để ngửa. Cậu cảm thấy thầy Giám quản chạm vào ngón tay cậu một lúc để giữ tay cậu thẳng, rồi có tiếng ống tay áo chùng sột soạt khi thầy giơ thước lên. Một cú đánh nóng bỏng đau buốt y hệt tiếng gậy gãy kêu răng rắc khiến tay cậu run rẩy co lại y như lá cây gặp lửa, và khi âm thanh đó vang lên, cậu trào nước mắt vì đau. Toàn thân cậu run lên vì sợ, cánh tay cũng run lên theo, bàn tay bỏng rát thâm tím co lại như chiếc lá rệu rã trong không khí. Cậu chực hét lên, suýt thốt ra lời cầu xin. Nhưng dù mắt nhòa lệ, tứ chi run rẩy vì đau và sợ, cậu vẫn cố ghìm giọt lệ lại và chặn tiếng hét đang sôi lên trong họng.
- Tay kia! – Thầy Giám quản quát.
Stephen rụt tay phải đang run rẩy và bị đau lại, xòe tay trái ra. Ống tay áo chùng lại sột soạt khi thầy giơ thước lên, lại có tiếng vụt to và một cơn đau buốt phát điên cháy bỏng khiến tay cậu co cả lại, lòng bàn tay lẫn ngón tay đều thâm tím và run lên. Thứ nước sôi sùng sục lại dâng lên mắt cậu, vừa đau vừa sợ vừa xấu hổ, cậu rụt cánh tay đang run lên vì kinh hãi, rên lên đau đớn. Toàn thân cậu run lên vì sợ và vừa xấu hổ vừa giận dữ, cậu cảm thấy tiếng hét cháy bỏng thoát ra khỏi cổ họng, còn dòng nước mắt nóng bừng thì tuôn rơi và chảy xuống gò má đỏ au.
- Quỳ xuống! – Thầy Giám quản kêu lên.
Stephen vội vã quỳ xuống, áp đôi tay bị đánh vào mạng sườn. Nghĩ tới việc bị đòn, tay sưng phồng lên vì đau bỗng khiến cậu thương đôi tay như thể đó không phải tay mình mà là tay người khác. Lúc quỳ xuống, kìm tiếng nức nở cuối cùng trong họng và cảm thấy cơn đau buốt nóng bừng cháy bỏng áp vào người, cậu nghĩ tới đôi tay đã giơ ra, lòng bàn tay để ngửa, nghĩ tới sự động chạm vững chãi của thầy Giám quản khi thầy giữ các ngón tay đang run lên của cậu, nghĩ tới lòng bàn tay bị đánh sưng phồng đỏ au, những ngón tay run rẩy vô vọng trong không khí.
- Tất cả các em, làm bài đi. – Thầy Giám quản đứng ở cửa kêu lên – Cha Dolan sẽ tới đây mỗi ngày nếu bất kỳ trò nào, kẻ lười biếng chảy thây nào cần ăn đòn. Mỗi ngày. Mỗi ngày đấy.
Cánh cửa đóng lại sau lưng thầy.
Cả lớp nín lặng tiếp tục làm bài. Cha Arnall đứng lên và đi vòng quanh, giúp học trò bằng lời lẽ nhẹ nhàng và chỉ ra những lỗi mà chúng phạm phải. Giọng thầy rất nhẹ nhàng, êm ái. Rồi thầy quay lại chỗ ngồi và bảo với Fleming và Stephen:
- Hai em có thể quay về chỗ.
Fleming và Stephen đứng dậy, quay về chỗ, ngồi xuống. Stephen, mặt đỏ gay vì xấu hổ, mau chóng mở sách bằng bàn tay yếu ớt và cúi nhìn, mặt áp vào trang giấy.
Thật không công bằng và độc ác vì bác sĩ đã bảo cậu không có kính thì không đọc được và ngay sáng hôm đó, cậu đã viết thư về bảo bố gửi cho mình cặp kính mới. Cha Arnall cũng bảo cậu không cần học cho tới khi có cặp kính mới. Rồi cậu bị gọi là kẻ mưu toan lười biếng trước cả lớp, bị đánh trong khi cậu luôn có thẻ hạng nhất, hạng nhì, là thủ lĩnh đội York! Sao thầy Giám quản biết đó là trò bịp? Cậu cảm thấy sự đụng chạm của ngón tay thầy khi thầy giữ yên tay cậu mà thoạt đầu cậu nghĩ mình sẽ bắt tay thầy vì những ngón tay thầy mềm và vững chãi, nhưng rồi cậu nghe thấy tiếng ống tay áo chùng sột soạt rồi tiếng thước vụt. Thật độc ác và không công bằng khi bắt cậu quỳ giữa lớp, rồi Cha Arnall bảo hai đứa rằng chúng có thể quay về chỗ mà không phân biệt gì. Cậu nghe giọng trầm, nhẹ nhàng của Cha khi sửa bài làm văn. Có lẽ giờ Cha thấy tiếc và muốn tỏ ra tử tế. Nhưng việc đó không công bằng và độc ác. Thầy Giám quản là tu sĩ nhưng làm thế là độc ác và không công bằng. Bộ mặt xám trắng và đôi mắt không màu đằng sau cặp kính gọng thép trông thật độc ác vì thầy đã giữ thẳng tay cậu bằng những ngón tay mềm chặt của mình và làm thế, đánh sẽ to hơn và đau hơn.
- Đó là một việc làm bần tiện đồi bại, đúng thế đấy. – Fleming bảo trong hành lang khi cả lớp ùa ra, xếp hàng đến nhà ăn – Đánh học trò khi nó chẳng có lỗi gì.
- Mày vô tình làm vỡ kính, đúng không? – Roche Tởm hỏi.
Stephen thấy lòng mình ngập tràn lời Fleming nói và không trả lời.
- Dĩ nhiên là thế! – Fleming bảo – Tao không chịu được. Tao sẽ lên mách thầy Hiệu trưởng.
- Ừ. – Cecil Thunder hăng hái bảo – Tao thấy thầy ấy vung thước quá vai nó mà thầy ấy không được phép làm thế.
- Mày bị đánh đau lắm không? – Roche Tởm hỏi.
- Đau lắm. – Stephen đáp.
- Tao không chịu được. – Fleming nhắc lại – Là gã Đầu hói này hay gã Đầu hói khác. Đó là trò bần tiện đồi bại, đúng thế. Tao sẽ lên thẳng chỗ thầy Hiệu trưởng và kể cho thầy nghe chuyện đó sau bữa tối.
- Ừ làm thế đi. Làm thế đi. – Cecil Thunder bảo.
- Ừ làm thế đi. Hãy lên gặp thầy Hiệu trưởng và kể cho thầy nghe, Dedalus, – Roche Tởm bảo – vì thầy Giám quản bảo mai sẽ tới đánh đòn mày đấy.
- Đúng thế, đúng thế. Mách thầy Hiệu trưởng đi. – Cả bọn bảo.
Có mấy đứa lớp 8-2 đứng đó nghe ngóng và một thằng trong đám ấy bảo:
- Viện nguyên lão và dân La Mã tuyên bố Dedalus đã bị đòn oan.
Bị đòn là sai việc đó không công bằng và độc ác và khi ngồi trong phòng ăn, hết lần này tới lần khác Stephen cứ nhớ tới sự bẽ bàng lúc bị ăn đòn tới khi cậu bắt đầu tự hỏi liệu có thật là có điều gì đó trên mặt mình khiến cậu trông như một thằng mưu toan hay không, và cậu ước mình có gương để nhìn xem. Nhưng cậu không có gương còn việc bị đòn oan là không đúng, độc ác và không công bằng.
Cậu không thể xơi món cá tẩm bột chiên hơi cháy được dọn ra vào các ngày thứ Tư mùa chay và một trong những củ khoai tây của cậu có vết cuốc xắn vào. Đúng rồi, cậu sẽ làm những gì đám bạn bảo. Cậu sẽ lên chỗ thầy Hiệu trưởng, kể cho thầy nghe là mình bị đòn oan. Chuyện gì đó giống thế đã từng được làm trong lịch sử, bởi một người vĩ đại nào đó có hình trong các cuốn sách lịch sử. Thầy Hiệu trưởng sẽ tuyên bố cậu bị đòn oan vì Viện nguyên lão và dân La Mã luôn tuyên bố rằng những người như thế bị đòn oan. Đó là những người vĩ đại có tên trong cuốn Các câu hỏi của Richmal Magnall. Lịch sử toàn về những người ấy, những gì họ làm và Chuyện của Peter Parley viết về Hi Lạp và Rome toàn thế. Chính Peter Parley cũng có hình ở trang đầu. Có con đường ở vùng đồng hoang với cỏ mọc ở rìa và bụi rậm nhỏ: Peter Parley đội mũ rộng vành giống một linh mục Tin Lành, tay cầm cây gậy to và ông đang bước nhanh dọc con đường đó tới Hi Lạp và Rome.
Những gì cậu làm cũng dễ thôi. Tất cả những gì cậu làm sau bữa tối là đợi tới lượt mình, ra khỏi phòng ăn rồi đi tiếp không phải dọc hành lang mà lên cầu thang phía tay phải dẫn tới lâu đài. Cậu chẳng có gì để làm ngoài việc đó: rẽ phải rồi đi nhanh lên cầu thang và trong nửa phút cậu sẽ ở trong một hành lang chật hẹp, ẩm thấp, tối tăm dẫn từ lâu đài tới phòng thầy Hiệu trưởng. Đứa bạn nào cũng bảo việc đó không công bằng, kể cả thằng học lớp 8-2, cái thằng đã hô Viện nguyên lão và dân La Mã ấy.
Chuyện gì sẽ xảy ra?
Cậu nghe tiếng đám cao trung ở đầu phòng ăn, nghe tiếng bước chân chúng đi dọc tấm thảm: Paddy Rath, Jimmy Magee, thằng Tây Ban Nha, thằng Bồ Đào Nha và thằng thứ năm là Corrigan lớn, cái thằng sẽ bị thầy Gleeson quất. Đó là lý do tại sao thầy Giám quản gọi cậu là kẻ mưu toan và đánh cậu chẳng vì lẽ gì. Cậu nhướn đôi mắt yếu ớt, mệt mỏi vì khóc lóc của mình lên nhìn đôi vai rộng, mái đầu tóc đen lúc lắc của thằng Corrigan lớn khi nó đi trong hàng. Nhưng nó đã làm gì đó, hơn nữa, thầy Gleeson sẽ không quất nó đau: cậu nhớ Corrigan trông to lớn làm sao trong bồn tắm. Da nó tệp màu với thứ nước đọng có màu đất cỏ ở chỗ nông choèn cuối bồn tắm và khi nó men theo thành bồn, chân nó phát ra tiếng lép bép thật to và cứ mỗi bước đi, đùi nó lại hơi rung lên vì béo.
Phòng ăn đã vắng một nửa và đám học trò vẫn xếp hàng đi ra. Stephen có thể đi lên cầu thang vì không hề có vị tu sĩ hay thầy Giám quản nào đứng ngoài cửa phòng ăn. Nhưng cậu không đi được. Thầy Hiệu trưởng sẽ về phe thầy Giám quản và nghĩ đó là trò bịp của đám học trò, rồi thầy Giám quản vẫn tới lớp cậu mỗi ngày, tình hình chỉ tệ hại hơn vì thầy sẽ càng nổi cáu với đứa học trò nào lên mách thầy Hiệu trưởng. Đám bạn bảo cậu đi nhưng chính chúng chẳng đi. Chúng đã quên béng chuyện đó. Không, tốt nhất là quên béng chuyện đó và có lẽ thầy Giám quản chỉ bảo thầy ấy sẽ tới lớp thôi. Không, tốt nhất nên tránh đi vì khi ít tuổi lại nhỏ thó thì bạn có thể trốn theo cách ấy.
Những đứa ngồi cùng bàn với cậu đứng dậy. Stephen đứng dậy và đi cùng đám ấy ra xếp hàng. Cậu phải quyết định. Cậu đang tiến lại gần cửa phòng ăn. Nếu đi theo đám ấy, cậu không thể lên cầu thang tới chỗ thầy Hiệu trưởng vì cậu không thể ra sân chơi rồi quành lại. Nếu cậu đi và lại bị ăn đòn thì học trò cả trường sẽ chế nhạo và bảo rằng Dedalus bé lên mách thầy Hiệu trưởng chuyện thầy Giám quản.
Cậu đi dọc tấm thảm và thấy cánh cửa trước mặt. Chuyện này không khả thi: cậu không làm được. Cậu nghĩ tới cái đầu hói của thầy Giám quản các môn học, đôi mắt độc ác không màu của thầy nhìn cậu và cậu nghe thấy giọng thầy hai lần hỏi cậu tên gì. Sao thầy không nhớ tên cậu sau lần trả lời đầu tiên? Thầy không nghe cậu nói hay thầy muốn chế nhạo cậu? Những người vĩ đại trong lịch sử có tên như thế và không ai chế nhạo họ. Nếu thầy muốn chế nhạo, tên thầy mới đáng bị thế. Dolan – tên gì như tên phụ nữ đi giặt đồ thuê.
Cậu ra tới cửa bèn nhanh chóng rẽ phải, lên cầu thang và trước khi kịp thoái lui, cậu đã bước vào hành lang ẩm thấp, tối tăm, chật hẹp dẫn tới lâu đài. Khi băng qua cánh cửa dẫn ra hành lang, không quay đầu lại cậu cũng biết đám bạn vừa xếp hàng vừa tìm mình.
Cậu đi dọc hàng lang chật hẹp tối tăm, băng qua cửa các phòng sinh hoạt chung. Cậu ngó phía trước, bên trái, bên phải xuyên qua bóng tối ảm đạm và nghĩ kia chắc là những bức chân dung. Nơi này tối tăm, tĩnh mịch, còn mắt cậu yếu và mệt vì khóc nên cậu không nhìn rõ. Nhưng cậu nghĩ kia là chân dung các vị thánh, những nhân vật vĩ đại trong dòng Tên, những người đang lặng lẽ khinh bỉ cậu khi cậu đi ngang qua: Thánh Ignatius Loyola32 cầm một cuốn sách để mở, chỉ vào cụm từ “Ad majorem Dei gloriam”33; Thánh Francis Xavier chỉ vào ngực; Thánh Lorenzo Ricci đội mũ berretta giống một thầy Giám quản trông coi đám sơ trung; ba vị thần hộ mệnh cho tuổi trẻ - Thánh Stanislaus Kostka, Thánh Aloysius Gonzago và Á thánh John Berchmans, mặt cả ba đều trẻ vì họ mất khi còn trẻ; và Cha Peter Kenny đang ngồi trên chiếc ghế có phủ áo choàng lớn.
32 Saint Ignatius Loyola (1491-1556) là người sáng lập dòng Tên hay dòng Chúa Jesus, một dòng tu lớn của Công giáo.
33 Tiếng La-tinh, nghĩa là “Vinh danh Chúa”, khẩu hiệu của các tu sĩ dòng Tên.
Cậu ra chỗ chiếu nghỉ phía trên sảnh ra vào và ngó quanh. Kia là nơi Hamilton Rowan đã đi qua và dấu đạn lính bắn ghim trên cửa. Đó cũng chính là nơi những người hầu già nhìn thấy hồn ma vị Thống chế mặc áo choàng trắng.
Một người hầu già đang quét dọn ở cuối chiếu nghỉ. Cậu hỏi ông ta phòng thầy Hiệu trưởng ở đâu và người hầu già chỉ vào cánh cửa cuối dãy rồi ngó theo khi cậu đi tiếp tới đó và gõ cửa.
Không ai trả lời. Cậu gõ lần nữa, to hơn và tim cậu nảy lên khi nghe thấy một giọng nghẹt mũi bảo:
- Vào đi!
Cậu xoay tay nắm cửa, mở cửa ra và mò mẫm tìm tay cầm của cánh cửa bọc nỉ xanh lục bên trong. Cậu tìm thấy, đẩy cửa bước vào phòng.
Cậu thấy thầy Hiệu trưởng đang ngồi tại bàn giấy, viết gì đó. Có một hộp sọ trên bàn và một mùi trang nghiêm kỳ lạ trong phòng y như mùi ghế da cũ.
Tim cậu đập mạnh hơn vì cậu đang ở một nơi trang nghiêm và căn phòng thì yên tĩnh, cậu nhìn hộp sọ và gương mặt hiền từ của thầy Hiệu trưởng.
- Ồ, chàng trai, có chuyện gì thế? – Thầy hỏi. Stephen nuốt trọng rồi bảo:
- Em làm vỡ mắt kính, thưa thầy. Thầy Hiệu trưởng cất lời:
- Thế à?
Rồi thầy mỉm cười bảo:
- Nếu làm vỡ mắt kính thì ta phải viết thư về nhà xin một cặp kính mới.
- Em đã viết thư, thưa thầy. – Stephen bảo – Và Cha Arnall bảo em không phải học cho tới khi có cặp kính mới.
- Rất đúng! – Thầy Hiệu trưởng nói.
Stephen nuốt trọng lần nữa, cố giữ đôi chân và giọng nói của mình không run:
- Nhưng thưa thầy…
- Sao thế?
- Hôm nay, Cha Dolan tới lớp em và đánh em vì em không làm tập làm văn.
Thầy Hiệu trưởng lặng lẽ nhìn cậu và cậu thấy máu đang dâng lên mặt, nước đang tràn lên mắt mình. Thầy bảo:
- Em tên Dedalus, đúng không?
- Vâng, thưa thầy…
- Em làm vỡ mắt kính ở đâu?
- Trên con đường rải xỉ than, thưa thầy. Một học sinh phóng khỏi nhà để xe đạp làm em ngã, thế là kính vỡ. Em không biết tên bạn ấy.
Thầy Hiệu trưởng lại lặng lẽ nhìn cậu. Rồi thầy mỉm cười bảo:
- Ồ, đó là sai lầm. Thầy chắc Cha Dolan không biết.
- Nhưng em đã bảo thầy ấy là em làm vỡ kính, thưa thầy, thế là thầy ấy đánh em.
- Em có bảo thầy ấy là mình đã viết thư về nhà xin một cặp kính mới không? – Thầy hỏi.
- Không, thưa thầy.
- Ồ vậy thì cha Dolan không hiểu. – Thầy đáp – Em có thể bảo thầy cho phép em nghỉ học vài ngày.
Stephen vội nói vì sợ mình run quá sẽ không nói được:
- Vâng thưa thầy, nhưng Cha Dolan bảo mai thầy ấy sẽ tới phạt em nữa.
- Ồ đó chỉ là sai lầm thôi, thầy sẽ đích thân nói với Cha Dolan. Thế có được không? – Thầy bảo.
- Vâng được ạ, cảm ơn thầy.
Thầy Hiệu trưởng đưa tay qua bàn, chỗ có hộp sọ và Stephen đặt tay mình vào đó một lúc, cảm thấy tay thầy lạnh và ẩm ướt.
- Chúc em một ngày tốt lành. – Thầy Hiệu trưởng bảo, rụt tay lại và gật đầu chào.
- Chúc thầy một ngày tốt lành, thưa thầy. – Stephen đáp lại.
Cậu gật đầu chào thầy và lẳng lặng ra khỏi phòng, từ tốn, cẩn thận đóng cửa lại.
Nhưng khi cậu đi qua người hầu già ở chỗ chiếu nghỉ và quay lại hành lang thấp tối tăm chật hẹp, cậu bắt đầu đi mỗi lúc một nhanh. Cậu vội vã đi xuyên qua bóng tối ảm đạm một cách hào hứng. Cậu huých khuỷu tay va phải cánh cửa cuối dãy và vội vã đi xuống cầu thang, nhanh chóng đi qua hai hành lang rồi bước ra ngoài trời.
Cậu có thể nghe thấy tiếng kêu của đám bạn ngoài sân chơi. Cậu vùng chạy, chạy mỗi lúc một nhanh, chạy qua con đường rải xỉ than, tới chỗ sân chơi dành cho học sinh sơ trung và thở hổn hển.
Đám bạn đã thấy cậu chạy. Chúng tụ lại thành vòng tròn xung quanh cậu, đứa này chen đứa kia để nghe cho rõ.
- Kể bọn tao nghe đi! Kể đi!
- Thầy bảo gì?
- Mày có lên gặp thầy không?
- Thầy bảo gì thế?
- Kể đi! Kể đi!
Cậu bảo chúng những gì mình và thầy Hiệu trưởng nói, và khi cậu kể xong, cả đám liền lên tung mũ lên trời, hò reo:
- Hoan hô!
Chúng chụp lấy rồi lại tung mũ lên trời, hò reo:
- Hoan hô! Hoan hô!
Chúng bắt tay làm kiệu, công kênh Stephen lên và khiêng cậu tới khi cậu cố thoát ra. Rồi khi cậu vùng thoát được thì chúng tản ra tứ phía, tung mũ lên trời lần nữa rồi vừa huýt sáo vừa tung mũ, chúng lại hò reo:
- Hoan hô!
Chúng kêu ba tiếng chê bai thầy Dolan hói và ba tiếng hoan hô thầy Conmee, chúng bảo thầy Conmee là Hiệu trưởng tử tế nhất từ trước tới nay ở Clongowes.
Tiếng hoan hô tắt dần trong bầu không khí mềm mịn màu xám. Stephen còn lại một mình. Cậu rất vui và thoải mái, nhưng dù sao cậu cũng không tỏ ra kiêu ngạo với Cha Dolan. Cậu sẽ nín thinh và ngoan ngoãn. Cậu ước mình có thể làm điều gì đó tốt đẹp cho thầy để chứng tỏ mình không kiêu ngạo.
Không khí mềm mịn, màu xám, dịu nhẹ và buổi tối đang đến. Có mùi của đêm trong không khí, mùi của đồng ruộng làng quê nơi đám học trò đào củ cải lên, lột vỏ ăn khi chúng ra ngoài đi dạo tới dinh thự của Thiếu tá Barton, cái mùi có trong khu rừng nhỏ phía sau dinh thự nơi bệnh đốm lá xuất hiện.
Đám học trò đang tập những cú ném dài, lốp thẳng và xoáy chậm. Trong sự tĩnh lặng màu xám mềm mịn đó, Stephen có thể nghe thấy tiếng bóng nảy và đây đó xuyên qua bầu không khí tĩnh lặng là âm thanh gậy đánh bóng y như tiếng nước từ vòi phun nhẹ nhàng chảy xuống cái hồ đã đầy tràn.