Quân Mỹ chủ động khích lệ thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đào ngũ theo một chương trình ân xá có tên gọi “Chiêu Hồi”, hay “Open Arms” (Mở rộng vòng tay). Vào ngày 17 tháng 5 năm 1970, chương trình đó gần như đã thành công trong mục tiêu bắt giữ một sĩ quan cấp cao của Việt Cộng, Đại tá Nguyễn Văn Sĩ (ảnh bên, người mặc áo đen) - Tư lệnh Khu 2. (Về mặt chiến trường, Hà Nội chia miền Nam Việt Nam thành ba quân khu và sáu vùng. Vùng 2 bao gồm phần lớn tỉnh Long An. Là một tư lệnh vùng, Sĩ báo cáo trực tiếp lên Tư lệnh Việt Cộng, Tướng Trần Văn Trà).
***
Ngày 29 tháng 4 năm 1970, quân Mỹ mở rộng hoạt động ra bên ngoài Việt Nam, qua Campuchia. Mười ba chiến dịch mặt đất quy mô lớn đã được mở để quét sạch các cứ địa của quân Bắc Việt đặt trong phạm vi 19 dặm cách biên giới miền Nam Việt Nam.
Đại tá Nguyễn Văn Sĩ đi về giữa Việt Nam và Campuchia để điều phối hoạt động của Việt Cộng trong khu vực. Trong các chuyến đi, ông luôn có hai vệ sĩ hộ tống.
Theo quy định lúc bấy giờ, ông Sĩ, với tư cách là tư lệnh cấp cao, không được hoạt động trong cùng một khu vực quá hai hoặc ba ngày để tránh bị lộ. Ngay khi tới địa điểm mới, đội bảo vệ phải tìm ra một chỗ ẩn náu để phòng tình huống khẩn cấp. Thông thường, chỗ ẩn náu là một hố nhỏ được đào sâu vào lòng đất mà chỉ có Sĩ và nhóm bảo vệ biết được. Mặc dù Sĩ chỉ dừng chân tại một địa điểm không quá 48 tiếng đồng hồ nhưng đào hầm luôn là nhiệm vụ đầu tiên mà nhóm bảo vệ thực hiện khi tới nơi, cho dù việc đào hầm có chiếm một phần lớn thời gian hoạt động.
Vài tuần sau khi quân Mỹ tấn công vào Campuchia, Sĩ lúc ấy đang hoạt động ở Svay Rieng, Campuchia. Ông và nhóm của mình đã qua mặt được các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa đóng cách đấy chỉ năm cây số. Đến Svay Rieng từ ba ngày trước, Sĩ phạm phải một sai lầm suýt chết người. Trái với điều lệnh quân đội, ông đã quyết định lưu lại tại một địa điểm quá khung thời gian cho phép là 48 – 72 tiếng.
Sáng 17 tháng 5, Sĩ họp bàn kế hoạch với vị sĩ quan điều hành cho tới 1 giờ sáng. Mệt rã, hai người rời cuộc họp để đi ngủ. Quân lệnh không bao giờ cho phép hai sĩ quan cấp cao ở cùng một chỗ, ngoại trừ khi tham gia chiến dịch. Vì thế, họ đi theo hai hướng khác nhau để ngủ qua đêm. Đây là một cách thức để làm giảm nguy cơ mất cùng lúc hai chỉ huy cấp cao. Sau khi tới nơi ngủ với sự canh gác của nhóm bảo vệ, Sĩ ngủ thiếp đi. Ông thức dậy vào lúc 6 giờ sáng.
Sau bữa sáng, Sĩ và các vệ sĩ tới đóng ở một nơi mới cách làng 300 mét. Tại đây, họ sẽ dễ dàng đến được nơi ẩn nấp, và nhóm bảo vệ tranh thủ chợp mắt do đã thức trắng đêm hôm trước.
Trong khi các vệ sĩ ngủ, Sĩ ngồi canh chừng. Ông chợt nghe tiếng máy bay trên đầu. Khi nó tới gần, ông nhận ra đó là một chiếc máy bay chỉ điểm. Sĩ bắt đầu nghi ngờ khi thấy chiếc máy bay cứ đảo vòng tìm kiếm. Ông đánh thức nhóm bảo vệ, lệnh cho họ lập tức lục soát toàn bộ khu vực xung quanh để hủy đi bất cứ dấu hiệu nào cho thấy họ ở đấy. Sau đó cả ba chui vào nơi trú ẩn và chờ đợi.
Sau chừng nửa tiếng, quân Mỹ đã có mặt khắp nơi. Biết rằng mình và đồng đội bị lọt vào giữa một trận càn lớn ở khu làng do quân đội Mỹ thực hiện nhưng Sĩ không ngờ rằng mục đích của chiến dịch này là nhằm tìm bắt ông.
Từ nơi ẩn nấp, Sĩ và đồng đội không thể quan sát được hoạt động của địch; họ chỉ biết nằm im nghe ngóng. Tiếng binh lính hô tiến, lùi lẫn trong tiếng gầm rú của xe bọc thép đang quần thảo. Cả ba chẳng dám thò đầu ra khỏi nơi trú ẩn bởi sợ rằng quân Mỹ đang ở quá gần. Chờ đợi trong tư thế co quắp lại trong hầm là cực kỳ khó chịu, nhưng họ vẫn ở đấy, bất động.
Tình trạng đó tiếp diễn trong nhiều giờ. Nỗi lo lớn nhất của Sĩ là quân Mỹ có chó đánh hơi. (Để chống lại chó đánh hơi, Việt Cộng sử dụng thủ thuật bôi xà phòng lên người – nhưng do Sĩ và đội bảo vệ không được báo động trước về sự có mặt của quân Mỹ nên họ chưa kịp thực hiện điều đó). Có lúc, Sĩ đã đại tiện ngay tại nơi trú ẩn. Sau đó, ông rất sợ bị chó đánh hơi được.
Chẳng bao lâu, tiếng nói của binh lính Mỹ đã ở rất gần. Sĩ rút súng ngắn ra chĩa vào đầu. Ông thà tự bắn mình còn hơn rơi vào tay kẻ địch.
Tới khoảng 6 giờ chiều, tiếng ồn bắt đầu tan. Tất cả yên tĩnh trở lại. Tuy nhiên, cả ba tiếp tục ở trong hố vì không biết chắc liệu tất cả lính Mỹ đã đi hết hay vẫn còn một nhóm nhỏ được bố trí ở lại mai phục. Cuối cùng, một người bảo vệ trồi ra khỏi miệng hố. Cẩn thận quan sát trong khu vực, anh biết chắc rằng quân Mỹ đã rời đi. Anh trở lại thông báo cho Sĩ. Nhẹ nhõm, cả nhóm nhanh chóng rời đi.
Vừa rút lui, Sĩ vừa lo ngại cho sự an toàn của người sĩ quan điều hành. Ông không biết rõ liệu người kia có thoát khỏi bàn tay của quân Mỹ hay không. Hai ngày sau, ông biết về số phận của người kia.
Sáng sớm ngày 17 tháng 5, người sĩ quan điều hành kia đã tới chỗ quân Việt Nam Cộng hòa để đầu hàng theo chương trình Chiêu Hồi. Tóm được một sĩ quan cấp cao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, quân Việt Nam Cộng hòa lập tức thông báo với người Mỹ, lúc bấy giờ đang đóng cách Svay Rieng 30 cây số. Một chiếc trực thăng Mỹ liền bay tới để chở người này về thẩm vấn tiếp. Người đó liền khai với quân Mỹ rằng ông ta đã họp với ông Sĩ ngay tại Svay Rieng chỉ vài giờ trước. Nhận định rằng Sĩ có thể đang ở trong vùng cũng như tầm quan trọng của việc bắt giữ ông, quân Mỹ đã phản ứng ngay, mở một đợt càn và lục soát khẩn cấp.
Sau này Sĩ thổ lộ rằng ông chưa bao giờ có linh cảm về sự phản bội của viên sĩ quan điều hành trong buổi sáng hôm ấy. Điều mà Sĩ không biết đó là người sĩ quan kia vừa mới chuyển vợ từ Mỹ Tho lên Sài Gòn, rõ ràng là đang chuẩn bị cho một cuộc đào ngũ – sự phản bội mà Sĩ cho là một thất bại trong bản lĩnh tư tưởng của sĩ quan kia.
Tính hiệu quả của chương trình Chiêu Hồi vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng có lẽ thành công lớn nhất đối với Mỹ là chương trình này đã gây ra một không khí lo sợ cho quân du kích. Như Sĩ nhìn nhận, nó tạo ra một mối đe dọa thường trực cho sự nghiệp của họ, bởi họ không bao giờ biết được người nào thiếu bản lĩnh chiến đấu.