Chánh niệm mà không có lòng trắc ẩn thì không phải và sẽ không bao giờ là chánh niệm thực sự. Trong khi chúng ta có thể chỉ có một mình khi thiền hành, chúng ta không cô lập bản thân mình khỏi phần còn lại của thế giới, chạy khỏi những gánh nặng và nỗi đau gây ra bởi những người khác. Thực ra, thực hành chánh niệm làm dịu đi những nỗi lo lắng của bản thân và từ đó những cánh cửa của lòng trắc ẩn với những người khác được mở ra.
Trọng tâm rao giảng trong Do Thái - Kitô giáo ( Judeo-Christian) là quy tắc đơn giản rằng, luôn luôn đối xử với người khác theo cách như bạn muốn họ đối xử với mình; yêu thương người bên cạnh như bản thân mình. Phật giáo ở phương Đông có một quan điểm tương tự, được nêu ra trong lời nguyện của Bồ Tát để trì hoãn sự an lạc cá nhân trong đích đến cuối cùng là Niết bàn, cho tới khi tất cả chúng sinh có ý thức khác được giải thoát khỏi vô minh và phiền não.
Trong cả hai tôn giáo, có một quy tắc bất di bất dịch rằng, những người khác cũng là quan trọng và cần phải được quan tâm.
LÒNG TỪ ÁI
Trong Phật giáo, Metta, hay lòng từ ái, bao hàm sự quan tâm đến người khác trong tâm trí và trái tim. Mục đích của thực tập lòng từ ái này là để mở rộng cảm giác yêu thương và lòng trắc ẩn, trước hết là tới gia đình của ta, giữ họ trong trí tưởng tượng, mỗi cá nhân, với những nhu cầu và vấn đề, phiền não, niềm vui và nỗi buồn, trong khi chúc phúc cho họ. Sau đó ta mở rộng vòng kết nối tới các bạn bè và hàng xóm, những người tình cờ gặp gỡ, những người được người khác nhắc đến trong các cuộc trò chuyện, những người vô gia cư. Cuối cùng, chúng ta phải mở rộng tình yêu thương và lòng trắc ẩn như thế tới kẻ thù – những người đã chọc tức chúng ta, những người đã hạ thấp chúng ta hay thậm chí đã làm ta tổn thương sâu sắc. Đó là một bài thực tập đòi hỏi cao và cộng hưởng rất tốt với những lời cầu nguyện trong Cơ đốc giáo.
LÒNG TRẮC ẨN CHO NHỮNG NGƯỜI TỊ NẠN
Rất khó để mở rộng lòng từ ái và lòng từ bi tới những người mà mình không quen biết, nhưng đi bộ đem lại cho chúng ta cơ hội để đồng cảm với họ – với những người tị nạn. Ví dụ như chúng ta khởi hành cuộc đi bộ sáng nay với một chủ định là hướng tới những người vô gia cư, những người tị nạn mỏi gối chồn chân trên thế giới, phiêu dạt từ nước này sang nước khác, lục địa này sang lục địa khác; thường là từ sự nghèo đói này đến sự nghèo đói khác. Những gia đình khó khăn, mỗi đứa trẻ nắm tay của đứa lớn hơn và giữ chặt một con búp bê rách rưới hay một món đồ chơi, vật sở hữu duy nhất của chúng; những người già cúi gập mình dưới gánh nặng tâm hồn đau đớn. Chúng ta giữ họ trong trái tim và tâm trí trong suốt chiều dài của cuộc hành trình. Đi bộ trở thành một lời cầu nguyện của cơ thể hay một sự thiền định.
Chúng ta có thể không biết rõ về lý do những người này phải dịch chuyển, về cái đúng và cái sai trong sự khó khăn nhọc nhằn của họ, cho dù đó là kinh tế, thất nghiệp hay nỗi sợ hãi khiến họ phải rời bỏ ngôi nhà của mình; nhưng họ là những người đang chịu đau đớn và họ kêu gọi lòng trắc ẩn của chúng ta.
TRONG TÂM TRÍ VÀ TRÁI TIM
Tác phẩm Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck đã khiến một số trong chúng ta nhận ra rằng có nhiều điều khủng khiếp xảy ra với một số người trên thế giới này mà không phải do lỗi của họ. Trong câu chuyện khổ đau này, những tá điền nghèo, buồn khổ ở Oklahoma, lẩn trốn khỏi khói bụi và hạn hán trong Đại suy thoái những năm 1930, gia nhập vào Quốc lộ 66, tuyến đường di dân từ Mississippi đến Bakersfield, California. Họ đã bị xua khỏi miền đất của họ bởi những chủ sở hữu đất máu lạnh, bởi các ngân hàng và tập đoàn đã mua hết quyền sở hữu. Con đường phía tây ngổn ngang những người suy kiệt, những chiếc xe tải kiệt sức với những lốp xe xơ mòn bị bỏ đi để chuyển sang đi nhờ hoặc đi bộ; những người đang đi giữ một hi vọng hão huyền được nuôi dưỡng bởi các tờ truyền đơn giả dối tuyên bố rằng California là một miền đất hứa, tràn đầy những trái cam, việc làm và chức vị.
Cuộc di dân về miền Tây là một phần của lịch sử Mỹ; nhưng khi bước đi ngày hôm nay, chúng ta cũng đang bước đi dưới cùng một mặt trời với họ, như hàng triệu người khác trên hành tinh này, phiêu bạt như những kẻ tị nạn. Họ là những người mà chúng ta giữ lại trong tâm trí và trái tim.
Thiền hành như vậy có hiệu quả không – nó có tác dụng gì không? Liệu những suy nghĩ như vậy có phải là cách nuông chiều bản thân của những người dễ dãi, nhặt lấy một điệu bộ cảm thương? Tôi gạt bỏ những nghi ngờ như vậy. Trước hết, khi chúng ta học để mở rộng lòng từ ái đến những người khác, bất kể họ là ai, thì đó là việc thiết yếu cho sức khỏe tinh thần của chính mình. Và liệu có ai biết được hết những kết quả khác từ việc chú tâm vào một chuyến đi bộ như vậy là gì? Chúng ta có thể được truyền cảm hứng để quyên góp cho một trong những tổ chức từ thiện lớn dành cho người tị nạn; chúng ta có thể trở nên tích cực hơn, đem đến sự trợ giúp thiết thực như cách nhiều người đáng ngưỡng mộ đã làm; chúng ta có thể không còn bị trói buộc trong những nhận xét phân biệt chủng tộc hoặc chống lại người tị nạn. Thiền với tấm lòng rộng mở như vậy có thể đem đến những kết quả bất ngờ ở nhiều cấp độ.