Dù nhỏ nhặt thế nào đi nữa thì cũng không một hành động tử tế nào là hoang phí.
- Aesop
Vậy là tôi, một cô bé bảy tuổi đã trở lại Italy, mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Rời bỏ cuộc sống ở nước Mỹ, tôi vội vã khăn gói theo mẹ lên đường đến châu Âu để bà có thể phục hồi và bình tĩnh trở lại sau vụ ly dị đầy đau thương với cha tôi. Bà cần có sự hỗ trợ từ phía gia đình cùng với lối sống bình dị của họ. Bà rất buồn bã và cô độc ở Mỹ. Giờ đến lượt tôi có cảm giác y như vậy ở nước Ý này. Tôi đang ở với ông bà ngoại ở một nông trại ba-trăm-năm-tuổi trong một ngôi làng bé xíu trên những ngọn núi phía bắc Florence. Mẹ tôi ở lại trong thành phố vì bà cần dịch vụ chăm sóc y tế và nghỉ ngơi.
Tôi đã quen với lối sống ở Mỹ. Thế mà giờ đây đột nhiên tôi được đưa đến một nơi chẳng hề thay đổi mấy kể từ thế kỷ mười tám, sống với những người tôi không hề biết và phải hết sức cố gắng để hiểu được thứ ngôn ngữ tôi chưa từng nói bao giờ. Tôi đã quen với truyền hình, ngồi trong xe hơi, ánh đèn rực rỡ chỉ với một cái chạm nhẹ vào công tắc và hệ thống cấp thoát nước trong nhà – không thứ nào trong số đó tồn tại trong ngôi làng này. Ở đây, bò kéo cày, nước lấy từ những thùng chứa nước múc dưới sông và nhà cửa được thắp sáng bằng đèn dầu. Bà ngoại tôi nấu ăn trong cái lò sưởi không có vách che, bánh mì được nướng trong những cái lò bằng đá cổ xưa. Áo quần được giặt dưới sông, còn nhà vệ sinh được dùng chung cho cả làng.
Tôi nhớ cha, nhớ căn phòng ngủ của mình, nhớ tất cả những con người và đồ vật tôi quen thuộc. Tôi nhớ nhà, cô đơn và cảm thấy sợ hãi. Tôi đã khóc rất nhiều trong những ngày đầu tiên ấy. Ông bà ngoại tôi và tất cả những người khác đã cố hết sức để giúp cho sự chuyển đổi ấy dễ chịu hơn, nhưng ở đó không có truyền hình để giúp tôi nguôi ngoai – không đồ chơi, không có game cũng không có sách. Trẻ con chơi đùa với những món đồ có từ tự nhiên – những hòn đá, những viên đá cuội, cành cây và những thứ đại loại như vậy. Tất cả người dân trong làng đều lấy nghề nông làm kế sinh nhai. Quanh năm suốt tháng chỉ có trồng trọt, thu hoạch, trữ vào kho, chuẩn bị lương thực và ăn. Những trang trại cũ kỹ chỉ được trang bị những vật dụng thô sơ nhất. Cuộc sống hết sức đơn giản, không phong phú và chỉ sống ở mức cơ bản nhất nhưng đối với tôi, nó chỉ tóm gọn trong một từ - khốn khổ.
Một ngày mùa thu lạnh lẽo, ngoại tôi là ông Nonno Beppe cho biết ông sẽ đi xuống núi (thật sự thì ông chẳng còn đường nào khác để đi cả) và đến thị trấn Baragazza, nơi có những tiện nghi hiện đại như điện, nước và cửa hàng. Tôi được biết mục đích của chuyến đi là để mang về cho tôi một món quà đặc biệt. Nhưng có lẽ tôi đã bắt đầu hơi thích nghi với cuộc sống mới vì nơi đây cũng đã khơi dậy một chút hứng thú trong tôi. Mặc dù tôi không hiểu tại sao, nhưng bỗng nhiên mọi thứ có vẻ như không còn quá ảm đạm và đìu hiu nữa. Tâm trí của một đứa trẻ bảy tuổi bắt đầu dậy lên niềm phấn khích. Món quà đặc biệt ấy có thể là gì nhỉ?
Đó là chuyến đi hết sức vất vả xuống núi trên con đường mòn. Chính vì quãng đường rất xa và mất rất nhiều thời gian nên những chuyến đi như thế hiếm khi diễn ra, và không bao giờ diễn ra do tình thế thúc ép mà không được chuẩn bị kỹ cũng như không chứa nhiều mục đích. Nhưng vào ngày hôm đó, chuyến đi của ngoại Nonno Beppe chỉ dành riêng cho tôi. Ngoại biết chính xác phải ghé vào cửa hàng nào. Ngoại mang theo rau xanh xuống núi. Ở đó ngoại đổi lấy không chỉ một mà đến hai món quà, rồi ngoại cất cẩn thận trong túi áo khoác dày bằng len, mỗi cái một bên. Sau đó ngoại chuẩn bị cho chuyến đi dài lắm vất vả trở về nhà.
Đi ngược lên núi mất nhiều thời gian hơn lúc đi xuống. Mặc dù lúc ấy trời đã trở lạnh, ngoại Nonno Beppe vẫn đổ cả mồ hôi và phải thường xuyên nghỉ chân nhưng ngoại biết những món quà dành cho tôi vẫn an toàn trong túi áo. Cuối cùng, khi ngoại về đến nhà thì trời đã tối và cả đại gia đình tôi – dì, cậu và anh em họ - đã quây quần bên bếp lửa để đón ông trở về. Khi ngoại lao vào nhà, ngoại tỏ ra rất hớn hở. Còn tôi thì nhảy cẫng lên khi ngoại mở túi áo khoác, thò tay vào và lấy ra... hai cái que nhỏ xíu và nhớp nháp.
Chúng tôi thoáng nhìn nhau kinh ngạc. Tôi thầm nghĩ mấy cái que nhỏ xíu bẩn thỉu ấy có gì đặc biệt cơ chứ?
Hẳn là lúc ấy ngoại đã nghĩ rằng lúc mình bỏ nó vào túi, nó là những que kem cơ mà.
Mấy cậu tôi, những người quen thuộc hơn với những món đồ của thế kỷ hai mươi, cười phá lên. Họ hiểu ngay ra rằng những que kem đã tan chảy do hơi ấm trong túi áo của ngoại Nonno Beppe. Cả cuộc đời ngoại chưa từng thử qua một que kem nào. Suy nghĩ duy nhất của ngoại là dành cho tôi. Ông đã tin chắc rằng kem sẽ khiến đứa cháu gái nhỏ bé vốn quen với sự xa hoa ở đất Mỹ cảm thấy thoải mái hơn như khi ở nhà. Khi chúng tôi đúc kết lại những gì đã xảy ra, mọi người bắt đầu cười rũ rượi – kể cả tôi.
Thế là tôi không nhận được que kem nào cả, nhưng không hiểu sao, tôi cảm thấy điều đó chẳng quan trọng. Lúc đó tôi không thể giải thích được, nhưng ngay khoảnh khắc ấy, có điều gì đó kỳ diệu đã xảy ra. Tôi đã lột xác một cách vui vẻ. Sự bấn loạn trước đó trong lòng tôi đã được thay thế bằng một cảm giác yên bình. Tôi hiểu ra rằng những con người ở đây yêu quý tôi vô cùng – thực sự yêu quý tôi và sẵn lòng vì tôi.
Hôm ấy, món quà thật sự tôi nhận được từ ngoại Nonno Beppe chính là sự giác ngộ rằng những gì chúng ta làm được cho người khác không quan trọng bằng sự quan tâm chúng ta dành cho họ. Những que kem có thể được ăn hết và bị lãng quên nhưng chính vì chúng đã tan dưới tình yêu ấm áp trong áo khoác ông tôi mà mỗi ngày trong cuộc sống, tôi lại nhận được một món quà to lớn hơn từ ngoại Nonno Beppe.
- Susanna Palomares