• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Chúng ta thấy lại những vì sao
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • Sau

Chương IVụ tai nạn

C

HÚNG TA NÊN BẮT ĐẦU BẰNG CÁCH NÀO BÂY GIỜ NHỈ, CON YÊU? Có thể là với một trong những trò chơi nhỏ mà chúng ta đã cùng nghĩ ra. Đối với người khác, chúng chẳng có nghĩa gì cả, nhưng đó lại là tất cả với chúng ta. Có những lần chúng ta cùng chơi một trò suốt nửa tiếng đồng hồ, vờ như triền dốc bên ngoài một tòa nhà là một chiếc thang máy. Con ấn ngón tay vào một viên gạch; và ba bắt chước tiếng kêu “bíp bíp” của một chiếc thang máy thực sự. Ba hét lên “Xuống nào!” và con vừa chạy ào xuống con dốc vừa cười phá lên. Toàn bộ trò chơi chỉ có thế. Chỉ thế là đủ.

Hoặc cũng có khi chúng ta cùng ra bãi biển. Lúc ấy con mới hai tuổi. Trước đó, con từng nhìn thấy biển một lần, khi con mới chỉ mười bốn tháng; và con đã không thích nó chút nào. Ánh nắng có vẻ quá dữ dội so với làn da non nớt của con (vốn được thừa hưởng từ mẹ nỗi chán ghét với việc tiếp xúc trực tiếp với ánh mặt trời). Lúc đầu, cảm giác lớp cát lùa giữa các ngón chân và đôi bàn tay khiến con khá thích thú, nhưng chẳng mấy chốc thì việc đó trở nên khó chịu; chưa bao giờ mặt đất lại bám chặt lấy con như thế, và nó cũng chưa bao giờ tỏ ra thiếu vững chãi đến vậy. Rồi mặt biển ầm vang, con phải cuộn mình lại đầy sợ hãi trong vòng tay ba.

Giờ đây, con đã lớn hơn nhiều, và không còn sợ hãi.

Con mặc áo len đan chấm bi màu đỏ bên ngoài váy kẻ sọc màu xanh và đội mũ đỏ tươi, và trên tay trái của con là quả xoài được cắm vào cái que mà chúng ta đã mua của người bán hàng rong trên con đường ven biển. Ba bế con qua cầu cảng đảo Coney; rồi ba cởi giày ra và đặt con xuống, con vẫn đi đôi giày nhỏ của mình. Con vụt chạy về phía trước với que xoài cầm chắc trên tay. Ba lững thững đi bộ theo con.

Với con, biển cả quá đỗi khổng lồ, và ba có thể cảm nhận được cái rùng mình của lòng kính phục pha lẫn với phần nào sợ hãi ở một con người nhỏ bé khi phải đối mặt với sự bao la của thế giới. Con ngước lên nhìn ba, và ba mỉm cười; dường như ba chẳng sợ hãi chút nào. Ba đã cởi giày ra rồi, ba nói; con có muốn cởi đôi giày của mình ra không? Đôi mắt con lộ vẻ đăm chiêu, rồi con gật đầu. Thế rồi chúng ta lại tiếp tục bước đi, hướng về phía biển cả vô biên. Lớp cát ẩm dưới chân lạnh buốt, lúc đó mới là tháng Năm. Từng hạt cát sáng lấp lánh. “Nhìn kìa, con yêu, vỏ sò đấy,” ba nói và chỉ dưới chân con. Con cúi xuống và nhặt nó lên từ nền cát ẩm ướt. Đó chỉ là một mảnh vỡ từ một cái vỏ sò nào đó, một thứ vừa đủ nhỏ bé để nằm gọn giữa những ngón tay xinh xắn của con. Ở một đầu của nó vẫn còn dính chút cát; con đưa nó lên sát mặt ba, và nở nụ cười rạng rỡ khi ba giả vờ nhăn mày chán ghét.

“Êuuu ơi!!”

Con cười khúc khích, hơi khàn, xen lẫn tiếng khịt mũi đặc trưng của mình. Những con sóng lan đến mỗi lúc một gần hơn, chạm tới chân chúng ta. Lần đầu tiên, và cũng là lần duy nhất trong đời, con cảm nhận được nước biển lùa giữa những ngón chân.

Viên gạch đó rơi từ bậu cửa sổ một căn hộ ở tầng tám của một tòa nhà ở khu phía tây Thượng Manhattan. Greta đang ngồi chơi với bà ngoại trên một chiếc ghế dài ngay trước cửa tòa nhà. Hai người trò chuyện về một vở kịch mà họ đã cùng xem tối hôm trước. Đó là phiên bản người đóng của bộ phim hoạt hình “Thị trấn Chuggington”, kể câu chuyện tình bạn khi toa xe lửa cùng giúp Koko quay trở lại đường ray sau khi bị trật bánh.

“Koko bị kẹt!” Greta nhắc đi nhắc lại. Khoảnh khắc đó dường như đã khắc sâu trong đầu con bé, sau này mẹ vợ của tôi đã kể lại với chúng tôi như vậy. Con bé bị ấn tượng mạnh với sự đơn giản đến ngốc nghếch của tình huống này, cũng như sự khẩn thiết của lời kêu cứu đó.

Phóng viên phỏng vấn viên hộ lý chịu trách nhiệm chăm sóc người phụ nữ lớn tuổi sống ở tầng đó – chủ căn hộ với bậu cửa sổ bị vỡ. Chỉ qua bài báo, tôi cũng có thể cảm nhận được sự bối rối và ghê sợ trong giọng nói của bà trước một cái nhìn mới, trực tiếp hơn cả về sự tàn khốc và hỗn loạn của thế giới này: “Việc đó xảy ra… giống như có một thế lực tà ác vô hình nào đó vậy…”

Chúng tôi để quên thẻ E-ZPass1 trong căn hộ của mình.

1 E-ZPass là hệ thống thu phí điện tử được sử dụng tại hầu hết các trạm giao thông, cầu và đường hầm có thu phí ở Trung Tây và Đông Hoa Kỳ.

Tôi và Stacy không nhận ra điều đó tới tận lúc đi đến đường hầm dẫn vào bệnh viện Weill Cornell. Thanh chắn cửa không nhấc lên tự động, khiến chúng tôi suýt chút nữa đã đâm qua nó. Người giữ trạm định kéo chúng tôi vào để làm rõ vụ việc này; mọi thứ rối tung lên, làm tắc nghẽn giao thông của cả một đoạn đường.

“Con gái chúng tôi vừa gặp tai nạn rất nghiệm trọng,” Stacy gào lên với anh ta.

Anh ta thò đầu qua cửa sổ ghế sau của xe, vẻ mặt hoang mang. “Cô bé đang ở đâu?” anh ta hỏi.

“Con bé đang ở cùng với mẹ của chúng tôi!” Stacy nói. Tiếng còi xe ầm ĩ phía sau chúng tôi khi hàng xe bị nghẽn lại ngày một dài hơn.

“Làm ơn, con bé đang ở trong bệnh viện,” tôi chen lời. “Làm ơn hãy để chúng tôi qua.”

Anh ta vẫy tay cho chúng tôi đi. “Anh chị đừng gây tai nạn gì đấy nhé!” anh ta nói vọng qua cửa sổ xe lúc thanh chắn đang được nâng lên.

Chỉ mới hai mươi phút trước đó, chúng tôi đã nhận được cuộc gọi từ mẹ của Stacy – Susan. “Ôi, Jayson ơi, khủng khiếp quá...” là những từ đầu tiên bà nói. Bà chỉ có thể tả sơ qua cho tôi về tình huống lúc đó: có hai mảng gạch đã rơi xuống, rồi vài nhân viên cấp cứu chạy đến. Lúc này, bà đang ở trong chiếc xe cấp cứu thứ hai, chiếc đầu tiên chở Greta, và họ đang trên đường tới bệnh viện. Bà cũng bị thương, một mảng gạch đã rơi trúng chân của bà.

“Vậy cháu Greta đâu rồi hả mẹ?” tôi hỏi gặng.

“Con bé đang trên chiếc xe ngay phía trước,” bà nói. “Con bé tự thở lại được rồi. Họ nói với mẹ là con bé đang tự thở lại được rồi.”

Bà nói với giọng mơ hồ, lạc hẳn đi so với bình thường, và chúng tôi có thể loáng thoáng nghe được những giọng nói khác qua điện thoại, các nhân viên cấp cứu đang hỏi chuyện bà. Một giọng nam đột ngột vang lên phía sau bà, hỏi một điều gì đó. Qua sự ngập ngừng của bà khi trả lời, tôi có thể thấy được là hiện bà vẫn chưa thể kết nối các vấn đề với nhau và chưa thực sự nhận thức được về tình cảnh hiện tại.

“Mẹ, làm ơn hãy nói cho con biết,” tôi nói một cách chậm rãi và trầm ổn. “Viên gạch đó đã rơi trúng vào phần nào của cháu Greta? Có phải con bé bị đập vào đầu không?” Khi nhắc từ “đầu”, tôi cảm thấy có một thứ gì đó vỡ vụn trong giọng nói của mình, một thứ vô cùng mãnh liệt mà tôi không hề quen thuộc.

“Đúng rồi, viên gạch rơi trúng đầu con bé,” bà nói. Tôi gào về phía sau để báo tin này cho Stacy. Cô gần như ngay lập tức, theo bản năng, hét lên thảm thiết.

“Ôi con gái của tôi, con gái bé bỏng của tôi,” cô òa khóc, thổn thức nói bằng giọng run lẩy bẩy.

Suốt cả quãng đường dài vô tận cho tới khi rẽ vào đường cao tốc, không ai nói thêm một lời. Stacy bỗng nhoài người lên, nắm lấy tay tôi và nói bằng giọng run rẩy: “Con bé sẽ ổn thôi. Nó không thể có chuyện gì được. Không thể.”

***

Chúng tôi bỏ xe lại chỗ đậu đã được đặt trước và vội vã chạy thẳng vào tiền sảnh bệnh viện. Rồi chúng tôi chạy lại chỗ nhân viên bảo vệ, và tôi, một lần nữa, nói: “Con gái chúng tôi vừa gặp tai nạn, con bé đang ở trong phòng cấp cứu.” Tôi thấy gương mặt của anh ta dịu lại; đến lúc này, tôi đã dần quen với những gì sẽ xảy ra khi thông báo tin này với mọi người.

“Tôi rất tiếc,” anh ta nói và vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đi tiếp.

Ngay khi bước vào lối đi tới phòng cấp cứu, tôi đã cảm thấy một thứ áp lực vô hình của sự khủng hoảng. Cũng chính giây phút ấy, khắp hành lang chợt ồ lên tiếng xì xào, dường như chúng tôi đang phải rẽ chúng ra để tiến về phía trước. Tôi loáng thoáng nghe thấy câu hỏi của một người ở phía bên trái, “Đó là cha mẹ của đứa bé ấy à?” và có một phần trong tôi nhận thức được rõ ràng sự khẳng định chắc chắn trong cái danh từ mà họ dùng để chỉ chúng tôi: “Cha mẹ của đứa bé ấy.” Ngay phía trước, một nhân viên cấp cứu đang vẫy tay gọi chúng tôi một cách khẩn trương.

Chúng tôi vội vã theo anh ta vào một căn phòng nhỏ ở trong góc. Ở chính giữa phòng là một chiếc bàn với rất nhiều bác sĩ và y tá vây xung quanh. Được đặt ngay chính giữa bàn là Greta, chỉ còn mặc mỗi chiếc tã lót, nhỏ bé một cách đáng thương, đôi mắt nhắm nghiền và miệng há rộng. Tôi chỉ biết lẳng lặng đứng nhìn khi các thành viên của đội ngũ cấp cứu nhấc tay chân con bé lên như đang điều khiển một con rối. Đến giờ tôi vẫn nhớ đã thấy vòm miệng của con bé cùng hàm răng trắng ngà như ngọc trai. Trong đầu tôi không có bất cứ ký ức nào về vết thương trên đầu con bé; có thể tâm trí tôi đã từ chối ghi nhớ hoặc đã tự động xóa đi một thứ quá mức đau lòng như vậy.

Có những thứ bạn chỉ có thể cảm nhận được bằng toàn bộ cơ thể, chứ không phải thấy qua đôi mắt mình. Vừa lùi về phía sau, tạm xa khỏi khung cảnh ấy, tôi cảm thấy có thứ gì đó trong mình đang tan biến, một phần linh hồn tôi, có lẽ vậy, bùng cháy lên ngay khi vừa chạm đến luồng ý thức của chính tôi. Tôi thấy mình nhẹ bẫng; bằng một cách nào đó, ngay giây phút ấy, tôi như thể đã đánh mất một thứ gì, tựa hồ có một mũi khoan khổng lồ xuyên thủng lớp xương để hút đi toàn bộ tủy sống trong cơ thể tôi. Tôi liếc nhìn Stacy, cô ấy đang ngồi trên một chiếc ghế băng được đặt dọc hành lang, nhợt nhạt và bất động. Cũng giống như tôi, nguồn sinh lực vô hình đang bị rút ra khỏi người cô ấy và tan biến vào không trung. Mẹ vợ tôi, Susan, đang nằm trên cáng ở một hành lang khác, ngoài tầm mắt của chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn biết chờ đợi.

Tôi rút điện thoại ra và gọi cho cha mẹ mình, hai người đang đi nghỉ ở New Orleans. Tôi thử gọi vào di động của mẹ tôi trước: không ai bắt máy. Tôi đành để lại một tin nhắn thoại qua loa rồi cúp máy. Tôi vừa băng qua bàn tiếp đón của bệnh viện vừa gọi vào máy di động của cha mình. Hộp thư thoại. Anh trai tôi: lại hộp thư thoại. Tôi cảm thấy mình như rơi xuống một lỗ sâu vô tận, hoặc đã lỡ lọt vào một kẽ nứt của thời gian. Gia đình, bạn bè của tôi ở phía trên vẫn tiếp tục cuộc sống riêng của họ mà không hề hay biết những gì vừa xảy ra. Trong thế giới của họ, Greta vẫn ổn.

Cuối cùng, John, anh trai tôi, đã bắt máy. Tôi cố thuật lại sự nghiêm trọng của tình hình, và tôi có thể thấy rằng anh ấy không thật sự hiểu thấu vấn đề.

“Ôi Jay, anh rất tiếc,” anh ấy nói. Giọng anh qua điện thoại thể hiện sự thông cảm, một loại phản ứng thường thấy khi một đứa trẻ bị thương, một việc thật đáng sợ nhưng thực ra chỉ mang tính chất tạm thời vẫn thường xảy ra với bất cứ cặp vợ chồng trẻ nào. “Anh rất thông cảm với chú, em trai ạ. Không gì có thể tệ hơn việc đó được. Anh vẫn nhớ cái hồi Anna” – cô con gái tám tuổi của anh ấy – “bị chó cắn. Hôm đó là ngày tồi tệ nhất trong đời anh. Những thời điểm như vậy khiến chúng ta thấy thật bất lực.”

Tôi cố gắng nhấn mạnh những dự cảm của mình cho John biết qua điện thoại: “Tình trạng tệ lắm, John ạ,” tôi nói. “Con bé sẽ ổn thôi,” anh ấy nói với tôi. Tôi có thể cảm nhận được một chút cố gắng thuyết phục đằng sau sự cam đoan trong giọng nói của anh. Đến lúc đó, tôi vẫn chưa biết nhiều thông tin. Nhưng tôi đã nhìn thấy ánh mắt ám ảnh trên gương mặt của những nhân viên cấp cứu khi tôi bước vào căn phòng đó, và tôi cũng đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng ám ảnh đó, khi cơ thể của Greta, không còn chút sức sống và cuộn lại như một chú chim nhỏ, nằm rũ ra trên một cái bàn khổng lồ.

“Không, John ạ,” tôi nói một cách dứt khoát. “Không, em nghĩ là con bé sẽ không qua khỏi.”

Đội ngũ nhân viên y tế hối hả đưa Greta từ phòng truyền dịch qua một hành lang khác để chụp cắt lớp CAT nhằm xác định độ sâu cũng như mức độ nguy hiểm của vết thương trên đầu con bé. Ôi, tất cả những thứ quý giá trong cái đầu bé nhỏ ấy của con bé hiện đang ra sao? Tôi và Stacy bắt đầu tính toán đến những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Greta biết nói từ rất sớm; con bé rất thích chó, đến mức gần như bị ám ảnh. Vợ chồng tôi vẫn đùa rằng chúng tôi sẽ mua cho con bé một chú chó khi con bé đủ lớn để tự mình nói với chúng tôi câu “Con muốn có một chú cún” một cách hoàn chỉnh. Khi Greta làm điều đó, lúc con bé mới khoảng mười bốn tháng tuổi, chúng tôi đã phá lên cười và phải nâng mức tiêu chuẩn tối thiểu lên (“Thưa mẹ, thưa ba, con rất thích có một chú chó nhỏ, và con hứa sẽ giúp ba mẹ dắt nó đi dạo và cho nó ăn”). Chúng tôi cần thêm thời gian, và chúng tôi đã thuyết phục con bé với lý lẽ đó. Chúng tôi chắc mẩm là mình đã thành công.

Kết quả chụp cắt lớp cho thấy Greta bị xuất huyết não, và con bé đã được đưa khẩn cấp vào phòng phẫu thuật. Tình trạng xuất huyết hết sức nghiêm trọng, đến mức họ thậm chí còn không cử người đi để thông báo cho “cha mẹ của đứa bé ấy” về tình trạng của con gái mình. Sau khoảng thời gian chờ đợi dường như dài vô tận trong phòng cấp cứu, cuối cùng, tôi đi tìm nhân viên công tác xã hội, người mà chúng tôi chỉ biết mặt vài phút trước. Anh ta đưa một túi nhựa cho Stacy: trong túi là đôi dép màu vàng nhuốm máu của Greta. Cô ấy nhận lấy cái túi, không biểu hiện ra bất cứ phản ứng nào mà chỉ lẳng lặng giữ nó trên tay. “Con gái chúng tôi đâu?” tôi hỏi.

Anh ta gõ lên cánh cửa to lớn màu xanh dương của phòng chụp cắt lớp, rồi ngập ngừng đẩy vào; trong phòng trống không, được giữ chỗ trước cho một nhân viên trong đội y tế.

Sau đó, chúng tôi được dẫn tới một tầng khác của tòa nhà. Ở đó, chúng tôi ngồi đợi và phờ phạc nhắn tin cho tất cả bạn bè, người thân của mình.

Hai trong số những người bạn thân của chúng tôi, Danny và Elizabeth xuất hiện. Trên tay Elizabeth là một túi bánh sandwich, một nỗ lực tuyệt vọng khi bạn không thể tới tay không, nhưng lại chẳng biết phải mang thứ gì. Stacy đã nhắn tin cho họ khi chúng tôi đang chờ các bác sĩ kiểm tra tình trạng vết thương của con gái mình: “Greta bị thương, tớ không biết con bé có qua nổi không nữa.”

Hai người họ luôn là những người phản ứng đầu tiên trong mọi tình huống mà bạn bè của họ gặp phải, luôn là những người có mặt đầu tiên khi khủng hoảng xảy ra. Cuộc sống cá nhân của họ cũng lộn xộn một cách phóng túng và không ngừng nghỉ giống bất cứ người theo phong cách Bohemian thành thị đích thực nào, căn hộ hai phòng ngủ của họ gần như sắp sập dưới sức nặng của hàng ngàn cuốn sách và hàng đống đồ trang sức kỳ cục theo phong cách cổ điển, cùng hàng trăm tác phẩm nghệ thuật của đứa con năm tuổi thông minh đến bất ngờ của họ, Clara. Họ là những người luôn đến trễ trong các buổi tiệc với mái tóc bù xù và gương mặt đỏ gay, và Elizabeth sẽ dẫn trí tưởng tượng của tất cả mọi người tới vô vàn những tình huống kỳ cục đến mức đáng ngờ chỉ với một cái vẫy tay kèm câu nói: “Đừng hỏi làm gì.” Nhưng bất cứ khi nào, nếu có một tai họa dù là nhỏ nhất xảy ra với một trong những người thân thiết thì họ sẽ ngay lập tức gạt hết sang một bên tất cả những hành động ngẫu hứng của mình chỉ để đến bên bạn. Họ chỉ có hai người, nhưng, bằng một cách nào đó, sự có mặt của họ sẽ khiến bạn cảm thấy mình đang được bao bọc. Chúng tôi từng thấy họ làm điều đó cho rất nhiều người bạn, những người quen của họ, thậm chí là những người hoàn toàn xa lạ - những người có nhân phẩm được khẳng định bởi một trong những bạn bè của họ. Và giờ đến lượt chúng tôi. Elizabeth đặt túi bánh sandwich xuống sàn và ôm chầm lấy cả hai chúng tôi, không nói một lời nào.

Sau đó, anh trai của Stacy, Jack, và người bạn gái đã ở bên anh suốt chín năm, Lesley, cũng xuất hiện; trên gương mặt họ lộ rõ vẻ đau đớn và đôi mắt rưng rưng lệ. Họ ngồi xuống hai bên Stacy; lúc này, cô đang co cả hai chân lên trước ngực và ôm chặt đầu gối của mình. Đến giờ, tôi gần như không còn nhớ bất cứ hình ảnh nào của khoảnh khắc đó, ngoại trừ hình dáng đại khái của góc hành lang nơi chúng tôi đã ngồi, và bóng dáng lờ mờ của hai sĩ quan cảnh sát đứng gần thang máy; họ đến từ hiện trường vụ tai nạn. Những điều còn lại – chúng tôi đã ở đó bao lâu, tôi đã nói gì với Stacy hay Jack, tôi có vào nhà vệ sinh hay không, tôi có nhắn tin để thông báo với ai về tình hình hay không, hay tôi có nói gì hay không – đều chìm vào phần sâu thẳm nhất của quên lãng như một đồng xu biến mất dưới mặt nước tối tăm và sâu thẳm của dòng sông.

Tôi nghĩ về Greta, biết chắc rằng những phần còn lại của con bé, nếu con bé có thể sống sót được qua thảm kịch này, cũng sẽ bị tổn thương rất nặng. Tôi tưởng tượng cảnh chúng tôi nuôi nấng lớp vỏ ngoài đứa con của mình, một thân thể dù vẫn đang phát triển nhưng tâm trí chỉ còn lờ mờ bất định. Tôi nghĩ đến chuyện sẽ không bao giờ được nghe giọng nói của con bé. Tôi nghĩ tới những chiếc xe lăn, về việc phải mời hộ lý về ở chung để chăm sóc cho con bé, về một Greta trưởng thành, không thể nói và không thể tự cử động, giam mình trong căn phòng ngủ còn lại trong căn nhà của chúng tôi hiện giờ. Tôi cũng nghĩ, dù chỉ thoáng qua, về vấn đề tiền bạc – chúng tôi sẽ phải làm gì để trả tất cả những chi phí đó?

Cuối cùng, vị bác sĩ phẫu thuật cho bé cũng xuất hiện. Chúng tôi đứng dậy một cách thất thần. Ông ta có vẻ ngoài giống hệt bác sĩ giải phẫu thần kinh trong những bộ phim truyền hình: gầy gò, xám xịt, hốc mắt sâu hoắm và hai thái dương hơi hõm lại. Dường như dưới lớp áo choàng trắng của mình, ông ta chỉ có da bọc xương.

Ông ta đặt thân hình xương xẩu của mình xuống chiếc ghế cạnh chúng tôi và chắp tay lại giữa hai đầu gối. “Tôi ước là mình có thể báo với anh chị một tin tốt hơn. Chúng tôi đã cắt bỏ nhiều phần xương sọ của cô bé nhất có thể để não của cô bé sưng lên mà không bị tổn thương, nhưng phần bị xuất huyết quá nặng.”

Tôi có thể cảm nhận được rằng người đàn ông này đang cố gắng lựa chọn từ ngữ một cách cẩn thận và chặt chẽ nhất có thể: niềm hy vọng sai lầm của chúng tôi sẽ gây phiền toái, và việc của ông ta là cắt bỏ nó từ tận gốc rễ, không cho nó bất cứ cơ hội nào để phát triển.

“Vậy ý ông là việc con gái tôi hồi phục được sẽ chỉ có thể nhờ vào một thứ gì đó đại loại như… một phép màu sao?” Stacy hỏi.

“Tôi nghĩ là vậy, đúng vậy,” ông ta trả lời. Rồi ông ta nhìn chúng tôi, ánh mắt cũng buồn như sự súc tích trong lời nói vậy. Ông ta thêm vào, bằng một giọng nhẹ nhàng hơn: “Đây là một trong những trường hợp mà tôi thực sự mong là mình sai.”

Chúng tôi được dẫn sang một nửa khác của bệnh viện, chờ y tá hoàn tất việc ổn định lại tình trạng cơ thể của Greta. Mẹ vợ tôi được đẩy ra trên một chiếc xe lăn, bà mặc một chiếc áo chùng của bệnh nhân, hai chân tím bầm và sưng phồng, gương mặt xám ngoét. Trong đôi mắt của bà hiện rõ sự mệt mỏi và hoang mang, một cái nhìn lạc lối khiến tôi liên tưởng tới những bệnh nhân Alzheimer giai đoạn nặng: Có một điều gì đó vô cùng tồi tệ đã xảy ra, đôi mắt đó nói, nhưng nó quá lớn để tôi có thể nhận thức được.

Bà òa lên nức nở ngay khi thấy chúng tôi, cả người bà co quắp lại trên chiếc xe lăn như thể ánh mắt của chúng tôi là một bàn tay khổng lồ bóp nghẹt bà. Stacy vội vã chạy lại, quỳ xuống bên cạnh bà.

“Không phải lỗi của mẹ đâu mà,” cô thủ thỉ vào tai mẹ mình. “Không phải lỗi của mẹ.”

Bà gục đầu vào vai của Stacy và khóc tới khi bắt đầu lấy lại được bình tĩnh.

Chúng tôi dần ổn định lại và ngồi chờ đợi. Bên phải chúng tôi là một bể cá lớn, ngăn cách chúng tôi và sự đau khổ của mình với sự hối hả bên ngoài bệnh viện. Túi sandwich vẫn nằm trên bàn và không được ai chú ý tới.

“Có ai thấy đói không?” cuối cùng, Elizabeth lên tiếng. Câu hỏi lơ lửng trong bầu không khí tĩnh lặng như một hơi thở tỏa khói giữa trời đông lạnh giá.

Stacy khều nhẹ cái túi với vẻ thiếu hào hứng. “Có lẽ? Cậu kiếm được những cái bánh này từ đâu vậy?” Nỗi ám ảnh của Stacy với đồ ăn mạnh mẽ và thuần khiết tới nỗi đôi khi nó khiến tất cả mọi người, ngay cả chính cô, phải bối rối, và sự xuất hiện đầy kiên trì của nó trong tình huống này khiến chúng tôi khẽ bật cười, bất chấp tình cảnh đang phải trải qua.

“Chúng được mua ở Corrado, một cửa hàng chuyên bán sandwich rất tuyệt,” Elizabeth nói, kèm theo một nụ cười mỉm, “Bọn tớ đã chọn rất cẩn thận đấy. Chúng có nhân thịt gà với thì là, và thịt bò nướng nữa, không có cái nào có mayonnaise cả.”

Stacy phấn khởi hơn một chút và nghiêng người về phía trước. Cô mở túi ra và bắt đầu kiểm tra từng chiếc bánh một, mở nắp hộp các tông, lật từng lát bánh lên bằng hai ngón tay để soi xét lớp thịt trộn với phô mai phía dưới, để xác nhận chắc chắn rằng không có một chút mayonnaise nào lẫn vào, và để săn lùng bất cứ lát hành tây sống nào có thể xuất hiện bất thình lình. Nghi thức nhỏ đầy cầu kỳ này của cô khiến Elizabeth bật cười; và thế là, đột nhiên, tất cả chúng tôi đều cười theo.

“Mẹ ơi, mẹ có muốn ăn một cái không?” Stacy vừa hỏi vừa cười khúc khích, xen lẫn trong hơi thở có chút nặng nhọc. “Chúng rất ngon đấy.”

Chúng tôi cùng ngồi ăn, xung quanh là một đống vỏ bánh được đặt cạnh những gói mù tạt và khăn giấy bị vo viên. Bầu không khí im lặng trở lại, và cùng với lớp sương mù xám xịt của hàng giờ đồng hồ chờ đợi mà không có bất cứ thông tin mới nào, sự hoảng sợ bắt đầu quay lại và xâm chiếm tâm trí của chúng tôi.

Chúng tôi đều biết là Greta sẽ không qua khỏi, chỉ có điều chúng tôi vẫn chưa cho phép suy nghĩ đó được tiến vào ý thức của mình. Không một ai trong chúng tôi sẵn sàng để cho nó bước ra khỏi lãnh địa của tiềm thức, để rồi tàn sát và thiêu rụi tất cả những gì mà nó gặp. Nhưng chúng tôi đã nghe được tiếng nó nện mạnh vào cánh cửa. Chúng tôi đưa mắt nhìn quanh, hiểu rằng mình đang nhìn những thứ còn lại của thế giới mà chúng tôi từng biết đến. Những điều sắp tới, dù là gì đi chăng nữa, cũng sẽ phá hủy, san bằng tất cả mọi thứ.

Ba tiếng sau, bác sĩ Lee, bác sĩ chăm sóc đặc biệt nhi khoa đang trong ca trực lúc đó, bước ra để giải thoát chúng tôi khỏi tình trạng này. Cô ấy nhấn một cái nút, cánh cửa bật mở, và chúng tôi tiến vào khu vực chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ em (PICU). Nơi này sẽ là Bardo1 của chúng tôi, nơi mà chúng tôi đón nhận cái chết của mình và chờ đợi được chuyển sinh, trong bốn mươi tám giờ tới. Con gái của chúng tôi đang ở trong một phòng ở mạn phía bên trái, nhưng thay vì tới đó, bác sĩ Lee lại dẫn chúng tôi sang mạn phải, vào một căn phòng nhỏ, với một chậu cây cảnh giả được đặt trong góc và vài thanh granola2 đặt trên một chiếc bàn trà, xung quanh là ba chiếc ghế.

1 Bardo – “Trung hữu”, theo tử thư Tây Tạng, là cõi chuyển tiếp tới một cuộc sống khác sau khi chết.

2 Một loại đồ ăn nhẹ bao gồm yến mạch, các loại hạt, mật ong hoặc các chất làm ngọt khác như đường nâu, và đôi khi là gạo phồng, thường được nướng cho đến khi giòn và có màu vàng nâu.

Cô ấy ngồi xuống và nhìn thẳng vào chúng tôi. Đôi mắt rất từ tốn, tập trung và đầy thương xót. “Điều không may đã xảy đến với Greta,” cô bắt đầu. “Tình trạng của cô bé đã ổn định, nhưng chấn thương vùng não quá nghiêm trọng. Có lẽ cô bé sẽ không bao giờ tỉnh lại.” Cô ấy ngừng lại một nhịp rồi nói tiếp với giọng nhẹ hơn: “Tôi nghĩ chúng tôi sẽ phải kết luận rằng cô bé sẽ tử vong.”

“Tôi muốn mọi người hiểu một điều,” cô ấy tiếp tục, một cách nhẹ nhàng hơn nữa, chen vào những tiếng nức nở của chúng tôi, “rằng trên đầu cô bé có rất nhiều vết sưng. Gia đình nên biết điều đó trước khi vào gặp cô bé lần cuối.” Rồi cô không nói thêm gì nữa, chỉ yên lặng lắng nghe tiếng trái tim của chúng tôi vỡ vụn thành từng mảnh trong căn phòng đó. Sau một lát, vị bác sĩ đứng dậy và nói: “Hãy cho tôi biết khi nào mọi người cảm thấy sẵn sàng để vào trong.”

Chúng tôi bước vào căn phòng của Greta; giờ thì chúng tôi đã hoàn toàn hiểu rõ, đón nhận cái chết của con mình. Gương mặt của con bé ngả màu vàng ệch, lấp lánh vết dịch truyền tĩnh mạch. Hộp sọ của con bé sưng phồng lên và đã chuyển sang màu xanh nước biển, với những chiếc đinh kẹp bằng thép ghê rợn chạy dọc tới tận phần trung tâm. Chúng tôi, tôi và vợ, sà vào hai bên giường, mỗi người nắm chặt một tay con bé.

“Xin chào, khỉ con bé nhỏ của mẹ,” vợ tôi nói. “Chúng ta không có nhiều thời gian bên nhau. Chừng đó thời gian là không đủ, phải không?”

Nhân viên bệnh viện tụ tập lại bên giường và yên lặng nhìn chúng tôi. Một trong số họ chạm nhẹ vào cổ tay của Stacy khi bước lên để điều chỉnh một thứ gì đó: “Hai người thật tuyệt vời,” người đó thì thầm, rồi ngay lập tức lùi về phía sau. Tôi có thể cảm nhận sự xúc động của họ len lỏi khắp căn phòng khi gia đình chúng tôi quây quần: Greta không còn là một cái xác vô hồn mà họ đã bỏ hàng giờ vô ích để cố gắng cứu chữa. Con bé thuộc về chúng tôi, và chúng tôi thuộc về con bé.

Chúng tôi bắt đầu hát ru trong khi các y tá chuẩn bị gỡ các ống truyền khỏi người Greta. Tôi suýt chút nữa đã chụp một tấm ảnh của con bé – sau cùng thì tôi cũng là một người cha, và việc đó đã tạo cho tôi một vài thói quen nhất định. Chúng tôi ghi lại mọi giai đoạn trong cuộc đời của con gái mình, mọi bộ đồ, mọi sân chơi mới, hoặc mọi cuộc hành trình vòng quanh dãy nhà mà con bé tự thực hiện được. Chúng tôi muốn lưu lại tất cả những khoảnh khắc đó; và trong làn sương mù của nỗi đau đang bao trùm lên tâm trí tôi thì sự kiện này cũng không phải là một ngoại lệ. Một y tá đã nhẹ nhàng cản tôi lại.

Lúc đó, cha mẹ tôi đang chuẩn bị lên máy bay. Sau năm lần cố gắng liên lạc, cuối cùng mẹ tôi mới nhấc máy khi bà đang ở trên tàu Natchez. Phản ứng của bà qua lời nói chỉ vỏn vẹn một chữ “Không,” nhẹ nhàng mà dứt khoát, kèm theo tiếng khóc nức nở đầy cam chịu, như cách mà bạn sẽ làm khi đang ở trong một trận chiến mà kết quả thất bại là không thể tránh khỏi.

Tôi kiểm tra điện thoại khi đang đứng bên Greta và thấy tin nhắn của mẹ tôi: “Có gì mới không con? Bố mẹ đang chuẩn bị lên máy bay.”

Tôi nhìn chằm chằm vào màn hình. Tôi không thể để họ lên máy bay mà vẫn chẳng hề hay biết chuyện đã xảy ra, nhưng cũng không thể thông báo rằng con gái tôi, cháu nội của họ, đã qua đời, chỉ qua tin nhắn được. Vì vậy, tôi chỉ trả lời một cách qua loa: “Không ổn, mẹ ạ.”

Mẹ tôi trả lời: “Bố mẹ rất buồn,” sau đó, máy bay của họ cất cánh, liên lạc bị ngắt và có lẽ là họ cũng cô độc trong những suy nghĩ của mình giống như cách mà chúng tôi đang phải vật lộn với những suy nghĩ của chính bản thân.

Chúng tôi ngồi đó, lặng nhìn phổi của Greta phập phồng theo từng nhịp bơm của máy thở. Tháng đầu tiên sau khi con bé chào đời, sự lo lắng đến thấp thỏm đã tạo cho vợ chồng tôi một thói quen thi thoảng lại kiểm tra xem con bé có còn thở không. Đôi khi, Stacy bế con bé ra khỏi nôi vào buổi đêm và để con bé ngủ trên ngực mình, một tư thế cho phép nhịp thở của hai người dần hòa vào làm một.

Lần đầu tiên đưa Greta ra ngoài chơi, con bé được bọc kỹ và địu trước ngực Stacy, chúng tôi đã dừng lại trước một cột đèn giao thông để cô có thể nhấc nắp của chiếc túi địu và đếm từng nhịp thở của con. Lúc đó, hàng xóm của chúng tôi – một bà mẹ hai con, đứa ba tuổi và đứa năm tuổi – đi ngang qua. Stacy nói đùa về nỗi lo lắng của mình và nhận được một nụ cười đầy cảm thông. “Lúc nào chúng cũng thở cả,” cô ấy trấn an chúng tôi.

Trong suốt những tháng tiếp theo, hai vợ chồng bắt đầu quen dần với sự thực đó. Con bé lúc nào cũng thở cả, cả hai thầm nhủ. Dần dần, một phần nào đó trong chúng tôi mà chính bản thân cũng không biết từ lâu đã gồng lên chặt cứng, bắt đầu thả lỏng ra, từng sợi cơ một.

Tôi nghĩ rằng việc đó xảy ra với mọi cặp vợ chồng mới có con: bạn sẽ dần học được cách tin tưởng rằng con mình tồn tại, và sẽ tiếp tục như vậy. Tương lai của các con sẽ bắt đầu hình thành và được định hình trong đầu cha mẹ, và bạn sẽ đặt ra những câu hỏi cụ thể. Liệu con bé có thể kết bạn một cách dễ dàng ở trường mẫu giáo không? Con bé có đang chạy nhảy xung quanh đủ nhiều không? Mọi thứ vẫn còn vô cùng bấp bênh, bệnh tật có thể đột ngột ùa đến bất cứ lúc nào, làm xáo trộn, thậm chí là phá hủy cuộc sống của cả gia đình. Có thể ví von rằng việc gìn giữ sự ổn định của gia đình bạn lúc này cũng khó khăn như việc trồng trọt trên một vùng đất nhiễm mặn vậy. Con bạn có thể bị ngã khỏi giường, vấp phải ghế, hoặc nuốt phải một thứ đồ chơi nhỏ nào đó và mắc nghẹn; còn quá nhiều thứ bạn phải đề phòng. Tuy nhiên, bạn không thấy tử thần rình rập ở mọi nơi nữa; chúng chỉ là những thách thức mà bạn phải đối mặt trên con đường đầy trắc trở mà bạn và con đang đi, đôi khi là cùng nhau, nhưng hầu hết thời gian là theo hai hướng hoàn toàn trái ngược.

Đến năm hai tuổi, con bạn đã trở thành một người hoàn chỉnh – bé sẽ có những ý kiến cũng như niềm tin cố định, những sở thích cũng như xu hướng hành động, một nhóm bạn và những món ăn ưa thích, của riêng mình. Giữa ba người các bạn sẽ có những trò đùa, những lối nói chuyện, hoặc những vấn đề riêng mà chỉ người trong gia đình mới hiểu. Cái phần liên tục tính toán về những trường hợp đe dọa tính mạng con mình trong bạn dần chìm vào quên lãng. Nó không còn hữu ích với bạn; nó chưa bao giờ hữu ích với con của bạn; và bạn còn quá nhiều thứ khác phải bận tâm.

Điều gì sẽ xảy ra với cái cảm giác đó trong bạn khi một thứ tưởng chừng như rất bình thường trong cuộc sống hàng ngày bỗng đột ngột đi lạc khỏi quỹ đạo và tước đi mạng sống của con bạn, vào chính cái giây phút mà bạn vừa mới gạt được ra khỏi đầu cái suy nghĩ rằng một thứ gì đó rất có thể sẽ xảy ra và phá vỡ mọi thứ mà bạn đang cố gắng xây dựng bất cứ lúc nào? Bạn học được bài học gì từ chuyện đó? Ngồi ở chân giường bệnh, bên trên là con gái của mình, tôi chết lặng vì đau đớn, đủ để không thể tiếp thu bất cứ điều gì trong số đó. Nhưng tôi sẽ sớm thôi.

Lại một vài giờ nữa trôi qua trong cái khoảng khắc mà thời gian chẳng còn ý nghĩa. Cuối cùng, bác sĩ Lee xuất hiện và gọi chúng tôi vào một căn phòng khác để cùng bàn bạc về những bước tiếp theo. “Theo cách mà tôi thấy thì,” cô ấy nói, “chúng tôi có thể gỡ các thiết bị duy trì sự sống ra khỏi cơ thể của cô bé ngay bây giờ. Hoặc,” cô ấy dừng lại một chút rồi tiếp tục, “chúng ta có thể bàn đến chuyện hiến nội tạng.” Vị bác sĩ im lặng để chúng tôi có thời gian bình tĩnh lại và suy nghĩ về đề nghị mà cô ấy vừa đưa ra. Mặc dù vết thương trên đầu Greta rất nặng, cô ấy nói tiếp, nội tạng của cô bé không hề bị ảnh hưởng. Tim, gan, thận – tất cả đều nguyên vẹn và ở trong tình trạng hoàn hảo.

“Nếu gia đình quyết định chọn cách đó, trước tiên chúng tôi sẽ phải kiểm tra một lần nữa để đảm bảo rằng não bộ của cô bé đã hoàn toàn ngừng hoạt động,” bác sĩ Lee nói. “Đó là một thủ tục bắt buộc,” cô ấy thêm, chặn ngang câu hỏi chưa kịp thốt ra thành lời của chúng tôi: Con bé chưa chết thật sao? “Đến giờ chúng tôi vẫn không nhận thấy bé Greta có bất kỳ biểu hiện nào của sự sống, nhưng để bắt đầu tìm kiếm người nhận tạng, chúng tôi vẫn phải thực hiện một loạt những bài kiểm tra để xác nhận cô bé đã rơi vào tình trạng chết não.”

Vị bác sĩ tiếp tục nói một lúc nữa trong khi tôi ngồi lặng người, cố gắng tiếp nhận ý tưởng này. Rồi cô ấy đứng dậy và nói: “Tôi sẽ cho hai người chút thời gian riêng tư để suy nghĩ về đề nghị này.”

Chỉ còn lại tôi và Stacy trong căn phòng vắng. Bây giờ nhìn lại, tôi không nghĩ là chúng tôi có lấy dù chỉ một giây do dự. Tôi là một tác giả, một người luôn giải thích quá nhiều và thường phải cố hết sức mới có thể ngậm miệng lại để người đối diện có thời gian để thở. Tuy nhiên, lúc đó, chính Stacy mới là người lên tiếng và nói ra những lời mà chúng tôi cần: “Em cần việc này phải mang một ý nghĩa nào đó, có thể là theo cách này, và nó sẽ không còn là vô nghĩa.”

Tôi gật đầu. Không biết từ đâu mà cô có những suy nghĩ đó, nhưng tôi biết là vợ mình đã tìm được cách để giúp cả hai chúng tôi đối diện với sự thật này.

Chúng tôi ngay lập tức tìm gặp bác sĩ Lee để nói rằng: chúng tôi muốn được thực hiện việc hiến tạng. Nó là quyết định đơn giản duy nhất chúng tôi có thể thực hiện.

Người đại diện đầu tiên của chúng tôi từ LiveOnNY, tổ chức chịu trách nhiệm cho việc hiến tạng, có mặt gần như ngay lập tức sau đó. Anh ta tên là James, và anh ta vừa tự giới thiệu bản thân vừa đưa cho tôi một tập hồ sơ, cam đoan với tôi rằng cử chỉ vô tư của chúng tôi sẽ cứu giúp và làm thay đổi rất nhiều cuộc đời khác. Tôi mở tập hồ sơ ra và thấy câu nói đó được in nguyên văn ở trang đầu tiên. Trong khi anh ta vẫn đang nói, ánh mắt của tôi rơi vào một danh sách gồm các ý được gạch đầu dòng về những cách để đối mặt với nỗi đau. “Hãy khóc bất cứ khi nào bạn muốn,” một ý trong đó nói. “Hãy nói về người thân đó của mình thật nhiều, hoặc thật ít, tùy theo mong muốn của bạn,” một ý khác khuyên. “Không có chỗ cho từ ‘nên’ khi phải đối mặt với nỗi đau, mỗi người sẽ có những nhu cầu khác nhau.” Một ý khác lại nói về tầm quan trọng của những bài tập thể chất cường độ cao, đã được chứng minh là rất hữu hiệu trong việc chống chọi với trạng thái trầm cảm. Tôi nhìn chằm chằm vào chúng, đến khi chúng được khắc thật sâu vào tâm khảm mình. Đó là những hướng dẫn đầu tiên của tôi trong việc làm cách nào để có thể hít thở được trong bầu không khí của hành tinh hoàn toàn mới này.

Người đại diện thứ hai, Maura, có mặt không lâu sau đó. Cô ta dẫn chúng tôi trở lại căn phòng nơi bác sĩ Lee đã thông báo những chẩn đoán về tình trạng của Greta để giới thiệu qua cho chúng tôi về các bước của quy trình hiến tạng. Trong khoảng thời gian này, dường như tất cả mọi người đều cảm thấy việc đưa chúng tôi vào một căn phòng khác, bất cứ căn phòng nào, để thông báo cho chúng tôi bất cứ tin gì mới, là vô cùng quan trọng – họ cứ liên tục di chuyển chúng tôi qua lại giữa ba địa điểm như thể việc đó sẽ giúp phần nào giảm bớt, hoặc đánh lạc hướng chúng tôi khỏi nỗi đau đang phải chịu đựng.

Khi cánh cửa khép lại, tôi thấy đôi mắt của Maura tràn ngập nỗi buồn. Cô ta đặt bàn tay to lớn và đỏ au lên ngực. “Đầu tiên, tôi muốn hai người biết rằng bản thân tôi cũng là một người mẹ. Tôi rất buồn cho hai người. Lại đây, lại đây nào,” cô ta nói, ra hiệu cho chúng tôi lại gần và ôm lấy cô ta.

Tôi sững người lại, khó xử, rồi một cách khó khăn, ngả người về phía trước và đón nhận cái ôm đầy lúng túng của cô ta. Cô ta đậm người và không cao lắm, và tôi đã phải nhìn chăm chú vào những ô kẻ trên tấm rèm cửa sổ nhỏ qua vai của cô ta và đếm ngược từ năm đến một đến khi cô ta buông tôi ra.

Sau đó, người phụ nữ này trao cho Stacy một cái ôm tương tự, rồi ngồi xuống đối diện với chúng tôi. Những giọt nước mắt lăn dài trên gò má hồng hào của cô ta. Dường như cô ta bị chóng ngợp trước mọi thứ, không thể bắt đầu được bài nói chuyện của mình về người nhận tạng, lịch trình, hay những công việc giấy tờ cần thiết. Stacy và tôi đều cảm thấy một sự thiếu tin tưởng nhất định: Có chắc là cô ta không đối xử với tất cả những người bị mất con theo cách này không?

Quy trình hiến tạng, như chúng tôi đang được giới thiệu, là một tổ hợp kỳ lạ của những điều vừa khó nói vừa buồn chán. Một mặt, nó hướng đến đối tượng rõ ràng: những cơ quan nội tạng của con gái tôi, được bảo vệ một cách an toàn trong cơ thể bé nhỏ, tuy đang mất dần sức sống nhưng vẫn còn ấm nóng. Mặt khác, nó phải trải qua một quy trình vô cùng tỉ mỉ và phức tạp được quy định bởi chính quyền để có thể tách chúng ra, từng phần một, một cách hợp pháp, rồi tái phân phối chúng đến với những công dân khác đang cần.

Ngay cả trong tình huống hiện giờ, chúng tôi vẫn còn phải tích vào rất nhiều ô lựa chọn, trả lời một loạt các câu hỏi theo thủ tục.

Chúng tôi được dẫn đến một căn phòng khác – một phòng hội thảo có chiếc bàn dài được đặt ở một góc – để trả lời những câu hỏi đó. Maura lật những trang giấy trước mặt với vẻ hối lỗi hiện rõ, rồi cầm bút lên, đặt vào trang trên cùng một cách hơi ngập ngừng. Chúng ta có muốn uống cà phê không nhỉ? Không, chúng ta không.

“Chúng tôi sẽ phải hỏi các bạn những câu hỏi sau trước khi cấp phép cho quá trình tìm kiếm người nhận tạng,” cô ta bắt đầu, mắt vẫn nhìn xuống trang giấy. “Tôi chỉ muốn nói là tôi xin được xin lỗi hai người trước vì một số câu hỏi trong đây không phù hợp. Chúng tôi – chúng tôi vẫn phải hỏi toàn bộ.” Cô ta vẫn nhìn chằm chằm xuống mặt bàn, thi thoảng lại đánh mắt lên nhìn chúng tôi với vẻ khó xử mỗi khi nội dung câu hỏi được nêu ra đặc biệt khó chịu: “Bệnh nhân đã bao giờ sử dụng thuốc phiện chưa?”, “Bệnh nhân có hoạt động tình dục đều đặn không?”, “Bệnh nhân có đang có thai không?” Không. Không. Không.

“Tôi không thể tin được rằng các cô không có một biểu mẫu riêng dành cho trẻ em,” Stacy rên lên, đổ người ra sau ghế và dụi mắt. “Con bé mới chỉ hai tuổi.”

Tối hôm đó, cha mẹ tôi đến nơi và ở lại với chúng tôi. Chúng tôi tản ra mỗi người một góc giống như những nhân vật trong một bức tranh đậm chất tôn giáo. Mẹ tôi ngồi trên một bậu cửa sổ sau lưng tôi. Tôi ngồi dưới sàn, đầu tựa vào đầu gối của bà như một khung cảnh vọng lại từ thời thơ ấu.

Susan ngồi ở chân giường của Greta, rấm rứt khóc. “Tại sao không phải là tôi cơ chứ,” cô hỏi, chẳng hướng tới một ai cụ thể.

Tôi liếc nhìn vợ mình, và nỗi đau của cô lớn tới mức đối với tôi, nó như mặt trời vậy – chẳng thể nhìn thẳng vào nó. Không ai trả lời thành tiếng cả, nhưng tôi nghĩ, để trả lời câu hỏi ấy: Đáng lẽ ra không phải là em. Đáng lẽ ra cũng không phải là Greta. Đáng lẽ ra chẳng ai nên chịu đựng việc đó cả.

Thay vì ngồi đếm giờ, chúng tôi lặng lẽ nhìn con số to màu đỏ dao động trên cái giá cao cạnh đó. Nó biểu thị nhịp tim của con gái tôi, được giữ ổn định nhờ các thiết bị hỗ trợ sự sống, và các nhân viên y tá cũng liên tục kiểm tra màn hình để đề phòng trường hợp xảy ra những dao động lên hoặc xuống đáng lo ngại. Rất nhiều ống dẫn từ một cái giá cũ phía trên giường của Greta, thi thoảng lại truyền vào người con bé một thứ gì đó theo một nhịp độ mà tôi chẳng mấy quan tâm. Cứ mỗi vài phút, một trong số những cái ống lại bị thắt hoặc xoắn lại, khiến cỗ máy đó phát ra một tràng tiếng “bíp bíp” đều đều và lặp đi lặp lại; lúc đó, một nhân viên y tá sẽ xuất hiện, thực hiện một loạt các hành động kéo, lắc và điều chỉnh khó hiểu, tới khi nút thắt được nới lỏng và cỗ máy lại chìm vào yên lặng.

Stacy và tôi thay phiên nhau ngủ dưới chân giường của Greta. Không có giấc mơ nào chen chân được vào giấc ngủ đầy đau đớn này: sự kiệt sức và tổn thương là những cộng sự rất đáng tin cậy, chúng giúp bạn nắm quyền kiểm soát bản thân khi bạn cần điều đó nhất. Thi thoảng tôi lại lặp đi lặp lại một câu, mà không hề ý thức liệu có ai đang nghe mình hay không: “Đáng lẽ ra tôi nên đi chết đi. Tại sao tôi lại không thể cứ thế mà chết đi cho xong?” Tôi có thể cảm nhận được cái nhìn đăm đăm có phần giễu cợt từ chính trái tim mình, cất lời hỏi tôi giữa từng nhịp đập, anh có chắc là anh muốn tôi tiếp tục làm thế này không? Tôi nằm dài lên bậu cửa sổ và nói với mẹ mình rằng tôi không biết phải sống tiếp thế nào nữa.

“Tốt nhất là con đừng có làm điều gì ngu ngốc đấy,” bà trả lời một cách dịu dàng.

Phần lớn buổi đêm hôm đó, tôi đi lang thang khắp khu vực đó của bệnh viện với đôi chân đeo tất, vào nhà vệ sinh khoảng hai mươi đến ba mươi lần, đôi khi chỉ để rửa tay một cách vô nghĩa rồi lại quay trở lại bên cạnh giường con gái. Trong nhà vệ sinh, nơi sàn nhà và các bức tường ốp gạch xám xịt khiến nó trông giống như một phòng oxy cao áp, tôi đã nghe thấy tiếng gào đau đớn của chính mình, và nghĩ rằng chắc chúng phải đến từ một người khác. Tôi lảng tránh ánh mắt của chính mình trong gương; tôi không có bất cứ hứng thú tìm hiểu cảm giác khi nhìn vào mắt mình lúc này.

Bất kể tôi đi đâu, cảnh tượng mà tôi nhìn thấy vẫn chỉ là những hành lang trống vắng – chẳng có ai trong phòng chờ, chẳng có một ca phẫu thuật nào, không có lấy dù chỉ một người. Đêm đầu tiên này cũng là lúc mà quá trình “tái giáo dục” của tôi bắt đầu: Giờ đây, đối với tôi, Trái Đất là một hành tinh hoàn toàn xa lạ, và tôi là một kẻ lạ mặt đang dò dẫm cất những bước đầu tiên trên bề mặt của nó. Trong khoảng thời gian này tôi học những kỹ năng nhỏ bé, những chuẩn mực xã hội mà trong bản năng, tôi nghĩ mình sẽ cần. Tôi đã, một cách nhã nhặn, nhận cái ôm và những lời an ủi từ một y tá trực ca đêm, người phụ nữ với đôi mắt tràn ngập lòng nhân hậu. Cô ấy khuyên tôi không nên “từ bỏ” cố gắng để cứu con gái mình. Suy cho cùng thì Đức Chúa Jesus cũng chưa từng keo kiệt phép màu của mình với người phàm.

Hoàn cảnh này gợi tôi nhớ đến ngày Greta ra đời, tôi và vợ bao bọc con bé ở giữa lòng Manhattan, nhìn ngắm thành phố qua ô cửa sổ trong một sự yên lặng bất thường. Những người duy nhất mà chúng tôi gặp trong chiều không gian tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, cả hai lần, đều vô cùng tốt bụng và đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều – họ dường như được đặc biệt cử đến để giúp chúng tôi vượt qua thời khắc của sự đổi thay. Vào ngày sinh của Greta, những người đó là bà đỡ Rita và hộ sinh Narchi; và ngày hôm nay, họ là vị bác sĩ giải phẫu thần kinh của Greta, bác sĩ Lee, những y tá của bộ phận chăm sóc tích cực, và đội ngũ nhân viên của LiveOnNY.

Sáng hôm sau, tôi tắm rửa trong phòng tắm của bệnh viện, và mặc lên người chiếc quần thể thao và áo phông mà mẹ tôi mua ở một cửa hàng Gap gần đó. Anh trai tôi cũng tới, phờ phạc sau một chuyến bay đêm từ Colorado. Liz, người bạn thân nhất từ thời thơ ấu, người chị em tốt của Stacy, cũng từ London đến. Stacy, có phần hơi hoảng loạn vì kiệt sức và đau buồn, lẩm bẩm theo bản năng, “Chuyến bay của cậu thế nào?”

Liz nhìn cô và bắt đầu phá ra cười, cô ấy nói, giọng chua xót qua làn nước mắt, “Tuyệt vời, Stace ạ. Rất tuyệt.”

Chúng tôi cố gắng thuật lại tình hình cho mọi người một cách rõ ràng nhất có thể. Các bác sĩ sẽ tới trong vài tiếng nữa để tuyên bố trạng thái chết não của Greta. Họ sẽ tắt máy thở và kiểm tra thật kỹ lưỡng bất cứ dấu hiệu hô hấp độc lập nào của con bé. Họ cũng sẽ kiểm tra các phản xạ thân não, những bài kiểm tra có thể phát hiện ra mọi dấu hiệu của sự sống ở dạng nguyên thủy nhất. Chúng tôi nhấn mạnh, một cách đầy chán nản, rằng họ không mong đợi sẽ phát hiện ra bất cứ điều gì.

Do Stacy vẫn đang trong thời kỳ cho con bú vào lúc xảy ra tai nạn, ai đó sẽ cần phải rút máu của cô. Tại sao họ lại cần máu của cô? Chúng tôi cũng không hiểu rõ lắm về vấn đề này, nhưng một phần nào đó trong tôi thấy việc ấy cũng khá hợp lý – máu, sữa mẹ, mắt sa giông, tóc trẻ con. Chúng ta đang ở trong một thế giới mà những gì tội lỗi, báng bổ và sự hiến tế về mặt thể xác ngự trị, và điều đó chẳng có gì là đáng ngạc nhiên với tôi cả. Nếu bây giờ có người đến và điềm đạm nói với tôi là họ cần phải cắt lưỡi của tôi và gửi tới phòng thí nghiệm để làm mẫu thử, có lẽ tôi cũng sẽ ngay lập tức há mồm ra mà chẳng phàn nàn hay gặng hỏi lấy một câu.

Vì một vài lý do, số máu đó phải được gửi tới Philadelphia – mất khoảng ba tiếng nếu đi bằng xe tải. “Chúng tôi sẽ đến đó sớm nhất có thể,” chúng tôi đã nhận được lời đảm bảo như vậy. Khi đó, và chỉ khi đó, cuộc gọi tới những người nhận tạng tiềm năng mới có thể chính thức được thực hiện. Trong suốt quá trình này, cơ thể của Greta sẽ được giữ ở trạng thái ổn định. Stacy trèo lên giường, ngả đầu lên gối và nằm cạnh con bé. Tôi tựa đầu lên ngực con bé để cảm nhận từng nhịp tim phập phồng. Có một thứ gì đó vừa kinh khủng lại vừa quý giá về khoảng thời gian cuối cùng được ở bên nhau này của chúng tôi – những giới hạn của nó quá mức rõ ràng. Vào một thời điểm nào đó trong khoảng hai mươi tư tiếng đồng hồ tới, chúng tôi sẽ không còn được ở bên con bé như thế này nữa.

Chúng tôi đã được báo trước rằng một y tá sẽ đến để lấy máu của Stacy vào khoảng tám giờ sáng, nhưng rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi đi mà chẳng có y tá nào xuất hiện, hay có thêm bất cứ thông báo nào mới. Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu: một cơn tức giận xuất hiện, giống như một thứ cảm xúc ngứa ngáy và nóng bỏng, đâm xuyên qua không gian lạnh lẽo, sâu hoắm và tê cóng của cơn bi kịch, rỉ ra thành từng dòng. Trán của tôi bắt đầu nhăn lại.

“Họ đang ở đâu vậy?” Stacy rên lên.

“Mẹ chắc là họ sẽ đến sớm thôi,” mẹ tôi nói. Mặc dù giọng không được thuyết phục cho lắm, nhưng nói đúng những gì cần thiết trong một thời khắc căng thẳng như lúc này. Tình huống có vẻ khá quen thuộc: một tình huống điển hình gắn liền với hình ảnh của thành phố New York, khi mà tất cả mọi người cùng quây quần xung quanh và chờ đợi một điều hoang mang vô nghĩa được làm sáng tỏ.

Cuối cùng một y tá xuất hiện với rất nhiều bơm kim tiêm và ống thủy tinh lỉnh kỉnh, tôi thở phào nhẹ nhõm một cách đầy biết ơn. Khi các ống thủy tinh đó đã đầy, tôi rút điện thoại ra. Hiện ra trước mặt tôi là tin nhắn từ một đồng nghiệp: “Tôi vừa mới biết tin. Hãy cho tôi biết nếu tôi có thể làm bất cứ điều gì để giúp đỡ gia đình anh. Tôi thực sự rất lấy làm tiếc, mong anh và gia đình sớm vượt qua chuyện này.”

“Cảm ơn anh. Mà tại sao anh lại biết tin này vậy?” tôi trả lời.

“Qua một bài báo trên tờ NY Post.”

Tôi ngồi trên bậu cửa sổ và nhìn quanh phòng. Cuộc gọi đầu tiên của bên phóng viên tới vào tối hôm trước, để lại một tin nhắn trong hòm thư thoại của Stacy. Chúng tôi chỉ nhớ mang máng là đã có vài chiếc xe đưa tin xuất hiện tại hiện trường vụ tai nạn, nhưng đến giờ tôi vẫn chưa nhận ra rằng câu chuyện của chúng tôi có thể sẽ tiếp tục là – rằng chúng tôi sẽ tiếp tục là – một thứ gì đó đủ đáng chú ý để xuất hiện trên mặt báo.

Mẹ vợ tôi đọc lướt qua bài báo của tờ Post trên điện thoại, mặc dù tôi không thể nhìn thấy gì. “Bọn họ dám viết là mẹ đã tám mươi tuổi!” bà thốt lên đầy giận dữ. Bà mới chỉ bước sang tuổi sáu mươi tuần trước.

Bốn mươi lăm phút sau, tờ New York Daily News cũng đăng tải phiên bản câu chuyện của họ. Lần này tôi mở ra xem: có một tấm ảnh chụp con gái tôi, đầu được cố định trên một cái cáng, với hai bánh xe đã gác lên cửa xe cứu thương. Chiếc cáng được thiết kế cho một người trưởng thành, và con bé nằm lọt thỏm trong đó, nhỏ bé như một món đồ chơi. Bức ảnh này chẳng có bất cứ ảnh hưởng nào lên tôi, tôi chỉ đơn giản coi nó như khúc dạo đầu cho cơn ác mộng đang bao trùm lên cuộc sống của chúng tôi. Có một tấm ảnh chụp Susan, một sĩ quan cảnh sát đang đỡ hai khuỷu tay của bà, ống kính đã bắt được ánh mắt hoang mang của bà. Bài báo cũng trích dẫn bình luận của một người hàng xóm giấu tên: “Việc này quả là một thảm kịch ngoài sức tưởng tượng. Đó là đứa cháu duy nhất của bà lão.”

Sau đó, tôi đưa mẹ mình đi dạo ở khu vực căng tin ở tầng dưới một chút. Chúng tôi đều là những người không bao giờ cho phép tâm trí mình được nghỉ ngơi, và cần một thứ gì đó để giúp bản thân khuây khỏa hơn đôi phần. Tôi mua một chiếc bánh sừng bò phô mai cùng với một cốc cà phê loãng, đắng kèm theo cái thìa khuấy bằng nhựa màu đỏ. Tôi đặt chiếc bánh vào giữa tấm giấy gói và bóc những góc bị chảy của miếng phô mai ra. Tôi bắt đầu lẩm bẩm thành tiếng những gì mình sẽ làm sau khi con bé thực sự ra đi, khi cơ thể của con bé bị mổ phanh ra, khi chúng tôi phải rời bệnh viện mà không có con gái.

Có những lần khi thả Greta tại nhà trẻ, tôi cảm nhận được ánh mắt khao khát của bản thân nhìn đăm đăm dọc theo hành lang hẹp vào phòng chơi của lũ trẻ; một phần trong tôi chỉ muốn ngồi xuống và chơi đùa cùng đám bạn của con gái mình cả ngày, để bỏ trốn khỏi thế giới của người lớn. Có thể tôi sẽ xin tình nguyện làm việc ở trường mẫu giáo nào đấy một thời gian. Một việc gì đó có thể giúp lấp đầy khoảng trống trong lòng tôi. Tôi nhấp ngụm cà phê và cảm nhận từng cơn co thắt khi nó chạm tới cái dạ dày trống rỗng của mình.

Mẹ tôi quay lại tầng trên trước, còn tôi đi lang thang một mình ngoài khoảnh sân của bệnh viện, ngẩng đầu nhìn vô định lên bầu trời xám xịt. Lúc đó đã là tháng Năm, nhưng trời vẫn phủ đầy mây và trong không khí vẫn còn tràn ngập hơi lạnh và sự ẩm ướt còn đọng lại từ mùa xuân. Tôi rút điện thoại ra và gọi cho Anna, một người bạn rất thân của tôi, một vũ công đã rời thành phố này để đến sống tại Ohio. Sau này, cô ấy kể lại với tôi rằng lúc đó, tôi đã nói, “Bọn tớ sẽ phải tìm cho mình những người bạn cũng có con bị chết.” Tôi không có bất cứ ký ức nào về việc mình đã nói ra những lời ấy, nhưng việc nghe lại những điều mình đã nói hàng tháng trời sau đó khiến tôi ngỡ ngàng: ngay từ lúc đó, một phần nào đó, dù chỉ là rất nhỏ, trong tôi đã bắt đầu lên kế hoạch dài hạn để có thể tiếp tục tồn tại.

Tôi bấm số gọi cho bác sĩ tâm lý của mình, một phụ nữ vô cùng đứng đắn và nghiêm nghị; tôi mới thuê bà ấy cách đây không lâu. Đột nhiên bà ấy lại phải đối mặt với phần khó khăn nhất của công việc này, tôi nghĩ. Tôi kể với bà ấy những chuyện đã xảy ra, và một cách điềm tĩnh, bà ấy khuyên tôi nên gọi lại mỗi nửa tiếng hoặc một tiếng để trao đổi tình hình, và để bà ấy có thể giúp tôi. Bà ấy cũng bày tỏ lòng tiếc thương sâu sắc với tôi, nhưng bằng một giọng ảm đạm và vô cảm. Tôi có thể cảm nhận được thái độ bình thản trong cách phản ứng của bà ấy, tự biến mình thành một thực thể vô tri vô giác để tôi có thể dựa vào. Và tôi đã, một cách đầy biết ơn, tựa lên cái cọc cứu sinh mà bà ấy đã trao cho tôi.

Khi tôi trở lại bên giường của Greta, bầu không khí trong phòng đang vô cùng căng thẳng: Những ống máu của Stacy, đã được rút ra từ hơn một tiếng đồng hồ trước, vẫn đang nằm chỏng chơ trên chiếc bàn gần đó. Điều đó có nghĩa là chúng không hề được gửi tới Philadelphia, và cũng có nghĩa là Greta đã bị bỏ mặc ở đó, không được sống mà cũng chẳng được chết, suốt hàng tiếng đồng hồ chẳng vì cái gì cả. Khi nhìn những ống máu trên bàn, một cơn thịnh nộ khủng khiếp sôi lên ùng ục trong tôi. Tôi không tài nào chấp nhận được những sai phạm dù chỉ rất nhỏ bắt nguồn từ thái độ quan liêu như vậy; một trong số chúng vừa nghiền nát sọ con gái của tôi. Tôi bước băng băng qua khu vực Chăm sóc đặc biệt, tìm cách thu hút ánh mắt của bất cứ người nào tôi nhìn thấy. Và cũng giống như cách mọi thứ vẫn thường diễn ra ở các bệnh viện, sự kích động của tôi đã đổ dồn vào một y tá mà tôi gặp, người không thể làm bất cứ điều gì với trường hợp của chúng tôi.

“Tôi hứa là tôi sẽ làm mọi thứ có thể,” cô ta nói.

Vài phút sau, James xuất hiện cùng một vài y tá, vội vã thu thập những ống máu trên bàn.

“Tại sao lại chẳng có ai đến lấy những ống máu này vậy?” Stacy hỏi. “Vốn đây đã là một quy trình rất dài rồi, và tất cả chúng tôi đều đang đợi. Greta cũng đang phải đợi. Đây là thứ duy nhất mà chúng tôi đợi vào lúc này!”

James có vẻ hơi vụng về và dễ kích động, anh ta chính xác là kiểu người thường bị cấp trên nhắc nhở rằng phải cư xử với bệnh nhân một cách lịch thiệp hơn. Giọng anh ta cao một cách bất thường, và đôi mắt anh ta như lảng tránh ánh mắt của chúng tôi: “Đây này, y tá đã đang chuẩn bị tới rồi,” đột nhiên anh ta lên tiếng, “nhưng chỉ là cô ấy sợ rằng các bạn sẽ đổi ý và không muốn tiếp tục nữa.”

Chúng tôi nhìn chằm chằm anh ta, chắc chắn rồi anh ta sẽ nhận ra mình thực sự không nên nói ra những điều vừa rồi. Anh ta quay đầu và lê bước ra ngoài mà không thèm xin lỗi chúng tôi. Khi cánh cửa khép lại, Stacy quay sang nhìn tôi với ánh mắt lộ rõ sự thiếu tin tưởng, chúng tôi cùng bật cười một cách yếu ớt. Dù sao đi nữa thì họ cũng đã lấy những ống máu đó đi rồi. Tôi cảm thấy thư giãn hơn một chút. Tôi lấy điện thoại của mình ra kiểm tra lần nữa và thấy một email từ một phóng viên.

“Tôi xin gửi đến anh và gia đình lời chia buồn chân thành nhất từ tất cả mọi người ở đây,” anh ta viết. “Greta giống như một thiên thần nhỏ vậy. Chúng tôi đang viết một câu chuyện về việc cô bé qua đời, và nếu anh có bất cứ điều gì muốn chia sẻ, tôi chỉ muốn anh biết điều rằng chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe anh.”

Tôi cuộn dọc xuống mục “Hộp thư đến”; có rất nhiều email với tiêu đề là “Greta” được gửi đến từ những người hoàn toàn xa lạ, từ chương trình bản tin Inside Edition, và từ kênh WABC.

Lát sau, một quản lý cấp cao của bệnh viện bước vào. “Đầu tiên, không một ai biết các bạn đang ở đây cả,” cô ta lên tiếng trấn an chúng tôi. “Nhưng bệnh viện đang nhận được vô số cuộc gọi từ phóng viên. Rất nhiều người trong số họ không xưng danh, hoặc cố gắng đóng giả làm một người trong gia đình để đánh lừa chúng tôi. Họ đang gọi điện cho tất cả các bệnh viện trong toàn thành phố. Khi các bạn cảm thấy sẵn sàng để rời đi, chúng tôi sẽ hộ tống hai người ra ngoài và đảm bảo rằng các bạn có một lối ra bí mật. Giới truyền thông có thể đang ẩn nấp bên ngoài, và chúng tôi sẽ cố hết sức để phát hiện mọi chiếc xe đưa tin trong khu vực xung quanh đây.”

Tôi có thể hình dung ra cảnh những chiếc xe đưa tin, giống như những con bọ hung, di chuyển khắp thành phố và đậu đầy ngoài cửa bệnh viện, mong muốn chụp được một tấm hình của cặp phụ huynh khốn khổ. Trong tôi chợt dâng lên một cảm giác ghê tởm đến rùng mình, nhanh chóng lan khắp gần như toàn bộ cơ thể.

Cả gia đình tôi quây quần lại trên chiếc giường bên cạnh chỗ Greta để tổ chức một cuộc thảo luận ngắn.

“Được rồi, bây giờ tất cả chúng ta nên chuẩn bị sẵn sàng, vì rất có thể chúng ta sẽ bị một tay phóng viên nào đó bắt gặp khi ra khỏi bệnh viện,” tôi nói. “Chúng ta sẽ phải làm gì?”

“Bất cứ tay nào dám hỏi anh cái gì, anh sẽ cho hắn biết thế nào là lễ độ,” anh trai của tôi làu bàu.

Tôi quay sang nhìn anh ấy, đột nhiên, tôi cảm thấy hoàn toàn nắm được quyền kiểm soát tình hình. “Không, đừng làm vậy. Nếu có ai hỏi anh bất cứ thứ gì, anh cứ nói chính xác như em bảo: ‘tôi không có bất cứ bình luận nào’ rồi bỏ đi. Thứ duy nhất mà bọn họ muốn từ chúng ta là một câu chuyện, và bất cứ điều gì anh nói ngoài ‘miễn bình luận’ sẽ cho họ điều đó. Anh có hiểu em nói không?”

Anh tôi quay đi; anh ấy là một người rất mạnh mẽ, và không quen với việc bị ra lệnh trước mặt người khác. Anh ấy chỉ lẩm bẩm tỏ vẻ đồng ý. Được tiếp thêm năng lượng, tôi quay sang cha mẹ mình và hỏi lại để chắc chắn rằng họ đã hiểu những gì tôi nói. Tôi cảm giác mình hoàn toàn có khả năng giải quyết vấn đề này. Greta sẽ không bao giờ tỉnh dậy nữa, nhưng tôi vẫn đủ khả năng kiểm soát tình hình và giữ cho những người còn lại tránh khỏi rắc rối.

Vào buổi trưa hôm đó, các bác sĩ tới để thực hiện các bài kiểm tra xác nhận chết não. Tôi đứng một bên và nhìn họ xúm lại quanh Greta, hối hả thực hiện công việc của mình. Họ gỡ máy thở ra rồi kiểm tra vùng ngực của con bé để tìm kiếm bất cứ chuyển động độc lập nào. Stacy và tôi nhìn đăm đăm vào lồng ngực của con bé với một sự tập trung yên lặng đến đáng sợ. Greta không hề nhúc nhích; tôi chưa bao giờ thấy con bé im lìm đến vậy. Khoảng thời gian chỉ có vài phút, nhưng đối với tôi nó dường như là vô tận; và khi nó cứ kéo dài hơn, tôi chợt cảm thấy như có một thứ gì đó cháy bùng lên trong ngực mình; tôi đã nín thở suốt nãy giờ. Cuối cùng, họ cũng cắm máy lại vào người con bé. Ngực con bé phồng lên; và tôi thở phào nhẹ nhõm. Đến lúc này, tôi không còn quan tâm việc cái gì đang làm phổi của con bé chuyển động nữa, tôi chỉ cần thấy chúng đang chuyển động là đủ.

Họ đi vòng lên đầu giường để chiếu một chiếc đèn vào đồng tử của Greta. Chúng tôi đứng ở phía trước giường và nhìn một cách chăm chú; chúng tôi cần thấy lại đôi mắt đó. Hai mí mắt của con bé đóng chặt và sưng phồng lên, đội ngũ bác sĩ phải mất khá nhiều công sức để cậy mở chúng. Chẳng có gì xảy ra khi ánh đèn chiếu thẳng vào võng mạc của con bé - giống như khi chiếu đèn vào một khối cẩm thạch vậy. Đôi mắt dịu dàng và sâu thẳm của con gái tôi giờ đây chỉ còn là hai nhãn cầu vô hồn; chẳng còn gì sót lại trong đó cả.

Cả quá trình tàn nhẫn đó kéo dài khoảng mười lăm phút. Tôi có thể cảm nhận được rằng mọi thứ đã kết thúc trước khi các bác sĩ chính thức lùi về phía sau và bắt đầu thu dọn dụng cụ. Cái chết của Greta giờ đây đã được thừa nhận một cách hợp pháp, chỉ đơn giản là vậy. Trong mắt chính quyền, con bé đã là một người chết.

Sau khi họ rời đi, Stacy bò lại lên giường và nằm cạnh Greta. Chúng tôi biết chắc rằng dù có thứ gì tồn tại bên trong con bé đi chăng nữa, thứ đó cũng sẽ không bao giờ quay trở lại, và trong thâm tâm của chúng tôi, “sự giải thoát” là một thứ quá kinh khủng – nhưng chúng tôi có cảm giác buông bỏ rất nhẹ, giờ đây chúng tôi đã có thể thả trôi sợi dây ràng buộc theo dòng nước. Chúng tôi sẽ không bao giờ cần phải đưa ra bất kỳ lựa chọn nào cho con bé nữa, không còn bao giờ phải lo lắng về “chất lượng cuộc sống” của con bé nữa. Con bé đã ở bờ bên kia thế giới, quyền kiểm soát tất cả những chuyện đó đã bị tước khỏi tay chúng tôi.

Vừa bước ra hành lang, tôi vừa thủ thỉ với anh trai rằng tôi thực sự lo lắng là sẽ mất nốt cả Stacy. Sau cùng thì sự kiện này cũng là một biến động quá lớn, đủ sức đập tan bất cứ cuộc hôn nhân nào, dù cho nó có vững chắc đến đâu.

Khi quay trở lại vào phòng, tôi thấy Stacy đang ngồi bên giường, ngước nhìn lên và mỉm cười với tôi. “Anh đây rồi,” cô nói, rồi đứng dậy ôm chầm lấy và trao cho tôi một nụ hôn. Sau đó, tôi quay trở lại căng tin một lần nữa để mua đồ ăn nhẹ và cà phê cho tất cả mọi người. Khi tôi rời khỏi phòng một lần nữa, cô đã nói: “Em yêu anh.”

Khi đang đi thang máy xuống tầng trệt, trong đầu tôi đã nảy ra một suy nghĩ bất khả thi: Chúng ta sẽ ổn thôi. Chúng ta sẽ sống sót qua được chuyện này. Chúng ta chưa từng bao giờ, và có lẽ là không thể, tưởng tượng nổi quãng thời gian sắp tới, nhưng chúng ta sẽ vượt qua được nó. Suy nghĩ đó chỉ xuất hiện khoảng vài giây ngắn ngủi, như một con cá chợt hiện lên rồi biến mất vào một dòng sông tăm tối. Nhưng tôi đã bám chặt lấy nó: nụ hôn đó, nụ cười đó và câu nói “Em yêu anh” tưởng chừng rất bình thường đó đã cứu tôi.

Lần đầu tiên thấy nụ cười đó vào tám năm trước, tôi đã thoáng hiện ra là một thứ gì đó ẩn chứa sự cởi mở và hào sảng, sự trong sáng của nó, giống như thế giới này là một con đường cao tốc đang cần được soi rọi.

Đó chính xác là loại chuyện mà các bậc phụ huynh thích được kể lại cho con cái mình: “Lần đầu tiên nhìn thấy mẹ, bố đã biết bố mẹ được sinh ra để dành cho nhau.” Thi thoảng tôi lại đảo mắt khi ông bác Ricky của tôi tha thiết khẳng định đến hàng trăm lần rằng vợ của ông, người đã ở bên ông năm mươi năm, Thea, chính là bạn đời của ông, hay nói cách khác là người bạn tâm giao mà định mệnh đã sắp đặt dành cho ông.

Câu chuyện của cha mẹ tôi lại khác: sự hoàn mỹ trong quá trình tìm hiểu nhau của họ đã bị phá vỡ một cách khá hài hước. Vào buổi hẹn hò đầu tiên, cha tôi vô tình dẫn mẹ tôi tới một quán bar dành cho người đồng tính (“Hình như tất cả mọi người ở đầy đều đang nhìn chằm chằm vào em thì phải?” cha tôi hỏi, và mẹ tôi phải vừa nín cười vừa trả lời: “Không, em nghĩ là họ đang nhìn chằm chằm vào anh đấy.”). Khi ông cầu hôn bà khoảng mười lăm tháng sau ngày hôm đó, bà đã nhận lời, mặt ông chuyển sang màu xanh lét pha trắng bệch và ông không nói một lời nào trong suốt nhiều ngày. Mẹ tôi vừa cười phá lên vừa nói rằng họ không nhất thiết phải kết hôn – bà từng kết hôn trước đây rồi. Đến tận một tuần sau, khi bà nghe thấy ông nói chuyện qua điện thoại và nhận một công việc ở tận nửa bên kia của nước Mỹ, ông mới thò đầu qua cánh cửa và hỏi: “Em vẫn sẽ cưới anh phải không?”

Việc lớn lên với những câu chuyện như vậy được kể đi kể lại trong bữa tối khiến tôi không có kiên nhẫn để tìm kiếm cho mình một người bạn tâm giao, một người bạn đời. Trong suy nghĩ của tôi, người ta sẽ tìm thấy một người sống hợp với họ bằng cách này hay cách khác, và rồi họ sẽ quyết định có gắn bó cùng nhau để đối diện với mọi thứ trong cuộc đời hay không. Rất nhiều lý do ảnh hưởng đến quyết định này, một số rất thực dụng, số khác thì không, và nếu nhiều năm sau đó, bạn nhận ra rằng người mà bạn đã chọn chính là tri kỷ của mình? Tuyệt vời. Nhưng chỉ vì bạn đã nhảy lên và đáp xuống an toàn không có nghĩa là bạn biết được mình đang nhảy tới đâu ngay từ giây phút đầu tiên.

Khi bắt tay Stacy vào ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, khi cô ấy đứng trước bàn làm việc của tôi giới thiệu bản thân dưới tư cách là một đồng nghiệp mới, đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ như in cảm giác mà luồng thông tin chạy thẳng từ điểm tiếp xúc của hai bàn tay lên tới não bộ của tôi và gửi một thông điệp đến từ bản năng: Việc này rất quan trọng; tập trung vào. Lẽ ra tôi đã gạt đi và coi nó là một ảo tưởng từ hồi ức nếu những xúc cảm đó vẹn nguyên trong tôi một cách chân thực, mạnh mẽ và hoàn chỉnh tới vậy. Sự rung động nhanh chóng chạy dọc tâm trí tôi, giống như một khoảnh khắc tỉnh ngộ vậy. Có thể đó là hình phạt dành cho những kẻ luôn tự mãn về lòng hoài nghi của bản thân: họ sẽ bị buộc phải tin.

Chúng tôi có cơ hội để hiểu nhau hơn vào khoảng một tháng sau. Tại bữa tiệc chán đến tuyệt vọng của công ty, chúng tôi là hai người đầu tiên xếp hàng để lấy kẹo phô mai viên, với hy vọng đồ ăn có thể phần nào xoa dịu sự khó chịu trong lòng. Cả hai đều đã gần ba mươi tuổi: Stacy từng là một nghệ sĩ chơi cello nhưng rồi đánh mất tình yêu với loại nhạc cụ này sau khi tốt nghiệp nhạc viện, và cô đã đến với tổ chức phi lợi nhuận chán chết này, hoạt động để quảng bá dòng nhạc cổ điển, trên con đường tìm kiếm một mục đích mới cho bản thân. Tôi có mơ ước trở thành một nhà báo chuyên về mảng âm nhạc, đã từ lâu, tôi nuôi dưỡng một viễn cảnh mơ hồ với những dòng ghi chép nguệch ngoạc và những ly bia đầy tràn tại các buổi trình diễn nhạc rock. Thay vào đó, thứ tôi nhận được là những ngày hòa vào đám đông của các cư dân vùng Thượng Tây với mái tóc bạc trắng tại những buổi hòa nhạc của Mahler và Stravinsky1. Cả hai chúng tôi đều có mái tóc xấu. Đột nhiên, mỗi người cảm thấy hiểu rõ đối phương như thể giữa chúng tôi có một lời nói đùa bí mật nào đó mà chỉ hai người hiểu.

1 Hai nhà soạn nhạc nổi tiếng của dòng nhạc cổ điển.

Một lúc sau, chúng tôi đi ngang qua hai đồng nghiệp đang nói chuyện về Jean Sibelius, một nhà soạn nhạc người Phần Lan (bữa tiệc này chán đến vậy đấy). “Đối với tôi, âm nhạc của ông ta chẳng khác mấy so với việc quan hệ xác thịt một cách vô nghĩa cả,” Stacy nói với vẻ đăm chiêu, rồi tiếp ngay sau đó bằng một câu đùa: “Nhưng chúng ta đang tham dự một bữa tiệc của công ty mà, nên tôi nghĩ nó cũng khá phù hợp.” Người đàn ông đứng cạnh tôi đột nhiên cười phá lên, bàn tay đang nắm chặt chiếc cốc nhựa của anh ta thả lỏng, và đôi vai căng cứng giãn hẳn ra. Những người đứng quanh đó đột nhiên cảm thấy thoải mái hơn hẳn, mặc dù họ không hề biết lý do vì sao. Nhưng tôi thì có.

“Anh có tính cách rất cởi mở đấy,” Stacy nói với tôi vào buổi hẹn hò thứ tư của chúng tôi, một lời khen ngợi mà tôi chưa từng nhận được trước đây, hoặc ít nhất là tôi chưa từng nhận được lời khen nào tương tự như vậy. Cô nói điều đó một cách nồng nhiệt, nhìn thẳng vào mắt tôi. Cô không nói hết, nhưng tôi có thể đọc được nó một cách rất rõ ràng khi nhìn vào gương mặt cô: Và em nghĩ rằng đó chính là lý do mà em yêu anh.

Tất cả những điều còn lại – lần đầu tiên chúng tôi ở bên nhau qua đêm, lần đầu tiên chúng tôi đến chơi nhà cha mẹ tôi vào dịp Giáng sinh (và đó cũng là lần đầu tiên, và là lần duy nhất trong đời chúng tôi bị bắt gặp đang hút cần cùng nhau dưới tầng hầm), bữa tối đầu tiên chúng tôi nấu cùng nhau, lời cầu hôn của tôi mười tám tháng sau – tất cả đều như được hiện ra trước mắt tôi vào chính giây phút đó.

Chúng tôi đang phải đối mặt với một thời hạn không thể thay đổi. Huyết áp của Greta, giờ đang ổn định, sẽ chỉ có thể giữ được ở tình trạng này trong một khoảng thời gian nữa. Đội ngũ nhân viên của LiveOnNY đã chiếm dụng một căn phòng nhỏ, cỡ bằng cái tủ quần áo, và bố trí nhân viên túc trực trong đó để nhanh chóng rà soát danh sách và tìm ra người nhận tạng thích hợp. Thời gian cứ thế đếm ngược, và từng ứng viên được tìm ra.

Vào buổi tối hôm đó, Cynthia, một phụ nữ da màu với mái tóc cắt ngắn sát vào da đầu, xuất hiện để thông báo kết quả tìm kiếm cho chúng tôi. Có một cậu bé ba tuổi ở Philadelphia đang cần một trái tim. Một cô bé sáu tuổi đang cần một lá gan. Và có hai người đàn ông trưởng thành đang cần được ghép thận.

Tuy nhiên, việc đầu tiên cần làm là giữ cơ thể của Greta ở trạng thái ổn định. Đến giờ, con bé đã sống nhờ vào máy hỗ trợ được hai mươi tư tiếng; và con bé sẽ cần phải được giữ nguyên trạng thái này trong khoảng mười tám tiếng nữa. Nhìn thân hình nhỏ bé của con, tôi thấy trong lòng đầy bất lực, dường như chúng tôi đang giữ chân con bé; Greta đáng lẽ ra đang ở một nơi khác, và giờ đây con bé đang chờ đợi điều đó. Cũng giống như các bệnh nhân chờ nhận tạng của LiveOnNY, cũng giống như gia đình của những người trong danh sách đó: tất cả chúng tôi đều chẳng thể làm gì ngoài chờ đợi.

Nửa đêm, màn hình đo những chỉ số của Greta bắt đầu phát ra các tràng tiếng “bíp bíp” theo một nhịp độ ngắt quãng, một dấu hiệu chẳng lành. Huyết áp của con bé đang tăng vọt. Các y tác tiến vào và điều chỉnh liều lượng thuốc truyền vào người con bé, và chúng tôi thấy các con số trên màn hình dao động liên tục: giảm, rồi tăng, rồi giảm, rồi lại tăng, tăng, tăng lên, vượt qua ngưỡng cao nhất mà những cơ quan nội tạng của con bé có thể chịu đựng. Chúng sẽ không thể tiếp tục giữ nguyên ở tình trạng ổn định như bây giờ được quá lâu nữa. Con thuyền đang lật, và tất cả chúng tôi đang chìm theo nó. Tôi chẳng biết làm gì khác ngoài đi đi lại lại quanh phòng đầy lo lắng, rồi quỳ gối, nện mạnh nắm đấm xuống sàn nhà và gầm lên.

“Bình tĩnh lại đi, Jay,” mẹ tôi nói.

“Các người còn muốn gì ở tôi nữa?” tôi gào lên, mệt lả. Cái máy vẫn tiếp tục phát ra những tràng báo động đầy nghiệt ngã. Stacy cúi xuống, nhẹ nhàng xoa đầu Greta và thủ thỉ: “Một chút nữa thôi, chỉ một chút nữa thôi, khỉ con của mẹ.”

Không thể chịu đựng được thêm, tôi phăm phăm bước ra khỏi phòng và đập cửa phòng làm việc của các nhân viên LiveOnNY. Lúc mở cửa, và hiện ra trước mắt tôi là một tổ hợp những con người đã gần như hoàn toàn kiệt sức vì thiếu ngủ: bốn người trong bộ áo của bác sĩ đã dành cả đêm để cố gắng vắt cạn những giọt sức lực cuối cùng của mình trên một chặng marathon qua điện thoại có lẽ là ảm đạm nhất thế giới. Lúc đó đã là ba giờ sáng.

“Huyết áp của con gái tôi đang tăng vọt, và họ đang không thể kiểm soát tình hình,” tôi nói, bình thản một cách lạnh lùng. “Tôi cần các cô cho tôi biết bao giờ thì cuộc phẫu thuật sẽ được thực hiện. Các cô đang làm gì để xúc tiến việc này? Con gái tôi đã phải chịu đựng quá nhiều rồi.”

Cynthia chỉ tay một cách tuyệt vọng về phía chiếc điện thoại của mình và nói: “Chúng tôi đang cố gắng để đưa tất cả mọi người tới đây bằng máy bay nhanh nhất có thể. Ngay lúc này, tôi mong rằng cuộc phẫu thuật sẽ được thực hiện vào tám giờ sáng. Nhưng có thể nó sẽ bị hoãn lại đến mười giờ hoặc muộn hơn một chút.”

Muộn hơn một chút sao? Đứng ở cửa căn phòng đó, tôi nghĩ về cơ thể bị tàn phá của con gái mình, về việc lồng ngực của con bé giờ chỉ phập phồng dưới sự hỗ trợ của máy móc. Tôi nghĩ về linh hồn của con bé, bị mắc kẹt ở giữa các trạng thái giống như một con ruồi đang cố gắng đâm đầu vào cửa kính để thoát ra. Rồi tôi nói một điều thực sự kinh khủng. Tôi nhìn thẳng vào mắt của Cynthia: “Nếu con bé không thể cầm cự nổi đến lúc ấy, sự vô nghĩa của tất cả những điều này sẽ ám ảnh tôi mãi mãi.”

Tôi thấy người phụ nữ trước mặt mình – một người đã dành mười hai tiếng đồng hồ không ngơi nghỉ tính đến thời điểm đó để cố gắng cứu sống rất nhiều người, thuộc về rất nhiều gia đình khác nhau, trải dọc cả đất nước này, một người đã phải đối mặt với rất nhiều những hình ảnh tàn nhẫn tới khó mà tưởng tượng được suốt nhiều tiếng đồng hồ – sụp đổ. Đôi vai chùng xuống, và cô ấy cất riếng rên rỉ một cách bất đắc dĩ: “Đừng, làm ơn.” Tôi quay lưng bỏ đi, và cô ấy đổ gục xuống mặt bàn ngay khi cánh của đóng sầm lại.

Khi tôi quay về phòng, huyết áp của Greta đã giảm xuống một chút. Con số chỉ cách mốc báo động một xíu. Tôi, mẹ tôi và Stacy cùng nín thở chờ đợi. Rồi nó nhảy xuống thêm một bậc nữa.

“Được rồi,” mẹ tôi thì thào. “Được rồi.”

Greta vẫn còn ở đâu đó bên trong cơ thể đó, và con bé đang cố gắng cầm cự.

Stacy đặt một nụ hôn lên hàng đinh ghim trên trán của con bé. “Khỉ con của mẹ, con giỏi quá.”

Ôm chặt lấy gia đình mình, tôi đưa mắt nhìn những tòa cao ốc với ánh sáng chập chờn phủ kín chân trời. Một ý nghĩ chợt lóe lên, chích vào ý thức của tôi như một cây kim: Chính thành phố này đã giết chết con bé. Và chính chúng tôi đã tiếp tay cho điều đó. Tôi và Stacy, chỉ hai chúng tôi trong cả hai gia đình, là đủ ngu ngốc để chọn nuôi dạy một đứa trẻ ở giữa trung tâm đông đúc và ầm ĩ đến vậy.

***

Mẹ tôi từng sống ở New York nhiều năm khi bà hai mươi tuổi và đang làm y tá. Khi còn nhỏ, tôi từng được nghe những huyền thoại của bà hồi những năm 1970, khi bà đi khiêu vũ tại Đại lộ C và lảo đảo về nhà trong cơn say qua những con hẻm của thành phố vào buổi đêm, và có lẽ chỉ sống sót được nhờ sự nhân từ của Thiên Chúa. Nhưng bà đã chọn rời khỏi đó, và đến khi có con, bà đã ở cách xa thành phố đó hàng giờ bay về phía bắc, và hàng tỉ dặm khỏi sự hỗn loạn không ngừng của nó. Cha tôi trưởng thành, một cách khổ sở và bị mắc kẹt, ở Long Island, và đối với ông, thành phố là một nơi chật chội và đổ vỡ, nơi phản ánh bản chất tồi tệ nhất của loài người. Anh trai tôi và vợ anh ấy gặp nhau ở New York và đã cùng nhau trải qua mùa hè nóng nhất trong lịch sử, tính tới thời điểm đó, tại căn hộ ở tầng tư của một tòa nhà thấp không có thang máy ở thành phố Williamsburg trước khi công cuộc tái thiết đô thị được tiến hành ở đó. Họ đột ngột nghỉ việc và chuyển tới sống tại Colorado, ngay lập tức giảm được gần năm cân và gạt bỏ được cảm giác khó chịu và bất an thường trực. Bốn năm sau, đứa con trai đầu tiên của họ ra đời.

Nhưng tôi và Stacy đã chọn ở lại thành phố chật chội và nóng bức, xây dựng tổ ấm của mình tại đó. Từ khi còn nhỏ, Greta đã phải chìm vào giấc ngủ giữa những tiếng còi báo động liên tục từ những chiếc xe hơi, giữa những tiếng la hét, chửi bới vọng ra từ những ô cửa sổ của những căn nhà rải rác khắp khu phố, và thỉnh thoảng giữa những tiếng gào của những con mèo đi lạc. Chúng tôi coi sự nguy hiểm của thành phố chỉ như một thứ tiếng ồn vọng lại từ một nơi nào đó rất gần, nhưng không bao giờ trực tiếp chạm đến chúng tôi. Hàng xóm của chúng tôi bị cướp; nhưng chúng tôi thì không. Cửa sổ xe của chúng tôi bị đập vỡ, nhưng không có gì bị mất cả.

Chúng tôi đã ngu ngốc, quá kiêu ngạo và bất cẩn, giở thì chúng tôi đã phải trả cái giá đắt nhất.

Mặt trời bắt đầu ló dạng, chiếu những ánh nắng báo hiệu một ngày mới, và tất cả những gì theo cùng nó đã tới. Cả gia đình chúng tôi quây quần quanh Greta: anh trai tôi, Danny và Elizabeth, cha mẹ tôi và mẹ vợ tôi, Susan. Anh trai của Stacy, Jack, cũng vừa trở lại sau một nhiệm vụ đầy đau đớn; anh phải ghé qua căn hộ của chúng tôi, vào phòng ngủ của Greta, căn phòng vẫn còn nguyên đồ đạc – những vật thể tồn tại để minh chứng về sự có mặt của con bé trên thế giới này – và lấy con thú nhồi bông yêu thích, Daisy, một chú chó bông màu vàng được đặt theo tên chú chó Labrador màu vàng của mẹ tôi, và chiếc chăn in hình con vịt của con bé. Chiếc chăn đó từng thuộc về Stacy ngày cô còn bé. Anh ấy cũng mang theo chiếc váy màu đỏ chấm bi của Greta, con bé đặc biệt đặt tên đó là “váy xinh đẹp của con”. Con bé thích thú ra mặt khi thấy chiếc váy xòe ra quanh chân mình trong mỗi bước đi. Có lần, chúng tôi đã bắt gặp con bé đứng trước tấm gương đồ chơi bé xíu của mình, mặc chiếc váy đỏ trên người và xòe chân váy một cách e thẹn.

Cùng với tất cả những thứ đó, Jack còn cầm theo một chiếc guitar, anh ấy ngồi xuống và bắt đầu chơi đàn. Chúng tôi phủ chiếc váy xinh đẹp lên người Greta, nhét Daisy dưới tay, rồi đắp chăn con vịt lên con bé. Chúng tôi cố gắng níu kéo từng giây, và mọi thứ chợt giống như chúng tôi đang tổ chức một buổi tụ hội của cả gia đình.

Thời khắc diễn ra cuộc phẫu thuật đang tới mỗi lúc một gần hơn. Đột nhiên, tôi cảm thấy thực sự hoang mang. Tôi chỉ muốn, một cách đầy tuyệt vọng, là cánh cửa đó sẽ không bao giờ mở ra. Con gái của tôi vẫn ở đó, ngay trước mắt tôi, vẫn còn thở và vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng “bằng cách nào” và “tại sao”, chẳng còn chút ý nghĩa nào khi tôi phải trực tiếp đối diện với sự biến mất hoàn toàn của con bé. Hãy cứ giữ con bé ở đây thôi, tôi nghĩ.

Các y tá gõ cửa, và một tiếng gầm hoang dại vang lên bên tai tôi – máu của tôi dồn lại, sôi trào, và tôi chợt nhận được dấu hiệu nguyên thủy nhất của mọi quá trình tiến hóa. Không được để họ cướp con bé đi.

Tôi nhìn quanh và thấy anh trai mình đang òa khóc, gương mặt anh ấy co rúm lại, cảnh tượng này tôi mới chỉ thấy một lần trước đó trong đời. Tôi đứng dậy, với gia đình của mình ở xung quanh, và đột nhiên, tôi cảm thấy như mình vừa mới bước lên bục biểu diễn. Đây là một tấn bi kịch kiểu Hy Lạp của riêng tôi, và kết thúc của nó như thế nào sẽ tùy thuộc vào quyết định của tôi.

“Này, con gái bé bỏng của ba, con đã làm rất tốt,” tôi nói bằng giọng hơi pha một chút động viên. “Giờ đã đến lúc con phải đi rồi, đúng không? Ba sẽ đi cùng con, từng bước một trên con đường này, được không nào?”

Các y tá đi vong qua bên giường và thu thập các ống truyền. Tôi chợt thấy mắt mình rưng rưng, như thể toàn bộ tầm nhìn sắp sửa tan biến hoàn toàn. Tôi đứng thẳng lưng hơn một chút. Điều sắp xảy ra sẽ giết chết mình mất, tôi nghĩ, một cách đầy tỉnh táo và lí trí. Nhưng tất cả những gì mình phải làm là mạnh dạn dấn bước, ngay bây giờ. Và rồi mình sẽ sống sót thôi.

Tôi nhấc một chân lên, cảm thấy dường như toàn bộ máu trong đầu mình đang bị hút cạn, và đặt một tay vào phía sau chiếc giường khi họ bắt đầu đẩy con bé ra ngoài. Tôi chợt nghĩ tới hình ảnh của Nahshon, một nhân vật được nhắc tới trong Kinh Thánh, nhận lệnh của Moses và bước xuống biển Đỏ, rồi cứ thế tiếp tục đi, tới khi nước ngập ngang đầu mình. Những tiếng nức nở trong phòng vỡ òa thành những tiếng gào khóc thảm thiết. Tôi chỉ im lặng. Tôi vẫn đang nhìn đăm đăm vào đỉnh đầu con bé, đã hơi chuyển màu xanh nhạt sau suốt bốn mươi tám giờ qua, nhưng vẫn thật xinh đẹp và mỏng manh như một quả trứng bồ câu nhỏ. Lúc này, chúng tôi đã đi qua được nửa hành lang dẫn tới cánh cửa đó, cánh cửa ngăn cách chúng tôi với một thế giới hoàn toàn xa lạ, một thế giới không có Greta.

Y tá ở bên phải nhấn vào một cái nút, và cánh cửa bật mở. Chúng tôi cẩn thận đẩy giường của Greta qua một ngã rẽ và một khúc quanh rồi tiến vào thang máy.

“Chỉ một chút nữa thôi, khỉ con của mẹ,” Stacy thì thào. Tôi nhìn xuống cơ thể ốm yếu của con gái mình. Con bé đã làm rất tốt. Trong lòng tôi tràn ngập cảm xúc tự hào, nó thật lớn lao nhưng cũng thật khủng khiếp, về ý chí và lòng quyết tâm cuối cùng con bé thể hiện ra với thế giới này. Nước mắt tôi chỉ chực trào ra.

Buồng thang máy xuống thấp dần. Tôi bắt đầu cảm thấy rùng mình, cả người tôi run lên. Điều sắp xảy ra sẽ giết chết mình mất. Nhưng tất cả những gì mình phải làm chỉ là mạnh dạn dấn bước, ngay bây giờ. Và rồi mình sẽ sống sót thôi.Tôi nhìn xuống đôi bàn tay của Greta, những ngón tay nhỏ nhắn của con bé uốn cong, nắm hờ lấy rìa của chiếc chăn con vịt đang được đắp lên người, giống hệt như cái cách con bé vẫn thường làm khi ngủ. Cánh cửa mở ra. Và tôi lại một lần nữa cảm nhận cảm giác đó, cái cảm giác đã hằn sâu vào tâm khảm của mỗi con người từ thuở xa xưa. Một người không nên, và không được phép, từ bỏ và giao cơ thể con cái mình cho kẻ khác. Nhưng chúng tôi đã ở đây rồi, không còn thời gian. Tôi buông tay, và chiếc giường với con gái tôi nằm trên đó tiếp tục lăn bánh về phía trước. Greta đã thực sự ra đi.

Tôi và Stacy gục vào lòng nhau, cảm nhận khoảng trống giữa chúng tôi, khoảng trống mà chẳng bao giờ chúng tôi có thể lấp đầy. Tôi tin là một phần nào đó trong chúng tôi vẫn còn ở dưới đó, bám chặt lấy nhau và tự hỏi bằng cách nào, và tại sao, chúng tôi chưa chết quách đi.

Khi quay trở lại phòng, tôi có thể cảm nhận một cách đặc biệt rõ ràng sự nhẹ nhõm tràn ngập trong không gian, một thứ cảm giác không ai có thể nói ra thành lời. Cuộc sống của chúng tôi đã bị xé nát, các mảnh vụn của nó vương vãi ở khắp nơi, và chúng tôi không bao giờ có thể nhặt chúng lên và ghép lại như cũ được nữa; việc ngay lập tức hiểu được điều đó khiến chúng tôi cảm thấy phần nào thanh thản. Khi một bên nhà của bạn bị một cái cây ngã đổ vào, bạn cũng đâu thể làm gì khác ngoài cười thầm với chính mình rồi xem xét những thiệt hại của việc đó, cũng như nghĩ về tính “bất khả nghịch đảo” của nó: chẳng ai lại mong chúng tôi ghép lại cái đống đó cả. Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình như những nhân vật đóng vai trò quan trọng nhất trong sự ra đi của Greta. Và giờ đã đến lúc phải dành thời gian cho muôn vàn những thứ khác: cho những cuộc điện thoại, cho một thứ dịch vụ nào đó, cho cả thế giới này.

Tôi lại nhìn lên những tòa cao ốc bên ngoài, và dự cảm tồi tệ lúc trước đã hoàn toàn biến mất. Cái chết có thể tìm đến chúng ta ở mọi nơi, mọi ngõ ngách, dù là xa xôi nhất trên thế giới này: nó đến với những thanh niên say xỉn lạng lách đánh võng trên những con đường của vùng đồng quê xa xôi; nó đến với những đứa bé bị vướng vào tấm mành cửa xếp trong những căn nhà mặt đất; nó cũng đến với những đứa trẻ bị chết đuối với thi thể nổi lềnh bềnh ở những hồ bơi vùng ngoại ô. Chúng chỉ đơn giản là những tòa cao ốc; chúng chẳng đóng vai trò gì đặc biệt trong chuyện này cả.

  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • Sau