NƠI SƠ MARY AN NGHỈ
Cách đây rất lâu, tại một đất nước nọ, tôi đã suýt giết chết một người phụ nữ.
Đó là một cảm xúc rất đặc biệt, một cảm xúc thôi thúc ý nghĩ giết người. Cảm xúc ấy bắt nguồn từ cơn thịnh nộ, mãnh liệt hơn tất cả những gì bạn có thể tưởng tượng ra. Cảm xúc ấy sẽ dần xâm chiếm lấy cơ thể bạn, giống như một thế lực bí ẩn nào đó đang điều khiển toàn bộ ý chí, thân thể và linh hồn bạn. Một nguồn sức mạnh tiềm ẩn trong bạn đã được thức tỉnh, khiến bạn giơ đôi bàn tay vô tội của mình lên và tước đi sinh mạng sống của người khác. Một hành động mang đến sự khoái lạc. Khi nghĩ lại, cảm xúc đó thật đáng sợ nhưng cũng thật ngọt ngào, một hành động ngọt ngào vì công lý.
Agatha Christie bị hấp dẫn bởi việc giết người nhưng cô ấy lại là một người nhân hậu và không bao giờ muốn giết bất cứ ai, kể cả trong khoảnh khắc nhỏ nhất, thậm chí đó là tôi đi chăng nữa.
Cô ấy luôn chìa ra bàn tay mảnh mai và nói “Hãy gọi tôi là Agatha”. Dù là những ngày mới gặp mặt hay những cuối tuần tôi đến thăm một trong những căn nhà của cô, dù cho chúng tôi đã kể nhau nghe bao điều thầm kín đi chăng nữa thì tôi không bao giờ gọi cô ấy như vậy. Tuy những khuôn phép đã dần suy tàn sau Đại chiến thế giới thứ nhất thì những hành động thân thuộc như vậy vẫn khiến tôi không cảm thấy phù hợp chút nào. Agatha thuộc giới thượng lưu và cô ấy cư xử rất tao nhã nhưng cô hoàn toàn sẵn lòng bỏ qua những quy tắc và chuẩn mực xã hội. Ngược lại, tôi đã cố công học tất cả những quy tắc và chuẩn mực đó nên không thể bỏ chúng đi một cách dễ dàng.
Tôi thích cô ấy. Tôi từng không đánh giá cao khả năng văn chương của cô nhưng tôi thừa nhận rằng bản thân luôn ngưỡng mộ cô ấy với tư cách là một con người. Tới giờ vẫn vậy. Gần đây, khi tôi tâm sự điều này với một trong những người chị của mình, chị tôi đã hỏi liệu tôi có hối hận về những gì mình đã làm và hậu quả của những hành động đó không.
“Tất nhiên là có.” Tôi trả lời không chút do dự. Bất cứ ai nói rằng Tôi không có gì hối tiếc chỉ có thể là kẻ tâm thần hoặc kẻ nói dối. Tôi không thuộc cả hai trường hợp trên, chỉ đơn giản là tôi quá giỏi giữ bí mật. Nói theo cách này, bà Christie số một và số hai rất giống nhau. Ta đều biết khó có thể kể câu chuyện của chính mình mà không tiết lộ về câu chuyện của người khác. Trong suốt cuộc đời mình, Agatha đã từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào về mười một ngày cô mất tích, không chỉ bởi cô muốn tự bảo vệ mình.
Nếu có ai đó muốn hỏi tôi, chắc chắn tôi cũng sẽ từ chối trả lời.
BIẾN MẤT
Một ngày trước
Thứ Năm, ngày 2 tháng Mười hai năm 1926
Tôi bảo Archie giờ không phải lúc thích hợp để anh ấy rời bỏ vợ nhưng thật sự tôi không hề nghĩ như vậy. Theo như những gì tôi biết thì mọi chuyện đã đi quá xa từ rất lâu rồi. Đã đến lúc tôi ra mọi quân bài và giành chiến thắng nhưng anh ta lại làm mọi chuyện theo ý mình nên tôi đã phản đối ý tưởng đó.
“Cô ấy quá mỏng manh,” Tôi nói. Agatha vẫn đang phải chịu cú sốc trước sự ra đi của mẹ.
Archie đáp lời: “Clarissa đã mất nhiều tháng rồi và dù anh có nói gì thì cũng bị cô ấy xem là quá quắt.” Mỏng manh là từ cuối cùng mà mọi người có thể dùng để miêu tả Archie. Anh ta ngồi sau một cái bàn gỗ gụ ở văn phòng London, nơi mọi thứ đều thật phô trương và quyền lực. Anh nói tiếp, “Chẳng thể làm vừa lòng tất cả mọi người được. Sẽ có người nào đó cảm thấy không vui và anh mệt mỏi với việc người đó luôn là mình.”
Tôi đối mặt anh, người đàn ông đang ngồi trên chiếc ghế da dành cho tài phiệt và thương gia. “Cưng à,” Tôi nói. Giọng của tôi sẽ chẳng bao giờ được dịu dàng như giọng của Agatha, nhưng ít nhất tôi có thể điều chỉnh để loại bỏ chất giọng East End. “Cô ấy cần thêm thời gian để hồi phục.”
“Cô ấy đã là một người phụ nữ trưởng thành rồi.”
“Một người luôn cần có mẹ bên mình.”
“Em quá bao dung, Nan à. Quá tử tế.”
Tôi mỉm cười như thể đó là sự thật. Những thứ Archie ghét nhất trên đời này là bệnh tật, sự yếu đuối và nỗi buồn. Anh không thể kiên nhẫn chờ đợi quá trình hồi phục. Là tình nhân của anh, tôi luôn duy trì thái độ vui vẻ, dịu dàng và duyên dáng. Một sự đối lập hoàn hảo với người vợ không-ngốc-lắm và luôn-buồn-khổ của anh.
Cơ mặt anh dần giãn ra và một nụ cười nhẹ dần hiện nơi khóe môi. Như người Pháp vẫn thường hay nói, “Người hạnh phúc không có quá khứ.” Archie không bao giờ tra hỏi về quá khứ của tôi, anh chỉ muốn tôi của hiện tại - rạng rỡ và luôn sẵn sàng chia sẻ. Anh khẽ vuốt mái tóc vốn đã vào nếp gọn gàng của mình. Tôi nhận thấy vài sợi tóc bạc hai bên thái dương anh. Điều đó càng làm anh đặc biệt hơn. Mối quan hệ giữa tôi và Archie có thể tồn tại mục đích vụ lợi nhưng điều đó không có nghĩa là tôi không thể thích anh. Anh cao ráo, đẹp trai và yêu thương tôi.
Anh đứng dậy, băng ngang qua căn phòng và quỳ xuống trước ghế của tôi.
“Archie,” Tôi vờ như đang mắng anh. “Lỡ may ai đó vào thì sao?”
“Chẳng ai vào đâu.” Anh vòng tay ôm eo và gối đầu lên đùi tôi. Tôi đang mặc một chiếc váy xếp ly, áo sơ mi kiểu cài nút cao đến cổ, khoác áo len mỏng và đi tất cao. Đeo chuỗi ngọc trai giả và một chiếc mũ kiểu mới. Tôi vuốt ve đầu Archie nhưng nhẹ nhàng đẩy ra khi anh kề mặt lại gần tôi.
“Không phải ở đây” tôi nói giọng từ tốn. Vui vẻ, vui vẻ, phải vui vẻ lên nào, phải là một cô gái chưa từng ốm đau hay buồn bã một ngày nào trong đời.
Archie hôn tôi. Anh có mùi tẩu thuốc. Tôi đặt tay lên ve áo vét của anh và không phản đối khi tay anh mơn trớn lên ngực mình. Tối nay anh sẽ về nhà với vợ và nếu để kế hoạch diễn tiến theo những gì tôi đã vạch ra, tốt hơn hết là anh nên về nhà với vợ nhưng tâm trí thì nghĩ về tôi. Cô em gái có chồng đã đưa cho tôi một miếng bọt biển được nhúng trong quinine sulphate, thứ đó bảo vệ bên trong, ngăn không cho tôi có thai. Tôi chưa bao giờ gặp gỡ Archie mà không chuẩn bị trước thứ này, nhưng trong thoáng chốc, sự cẩn thận của tôi dường như là thừa thãi. Anh kéo nhẹ váy tôi về đúng chỗ, vuốt lại đường xếp ly và đứng dậy, trở về bàn mình.
Gần như cùng lúc anh vừa ngồi xuống bàn thì Agatha đi tới, vừa gõ nhẹ lên cửa vừa đẩy cửa bước vào. Khó mà nghe được tiếng giày cô ấy trên thảm. Ở độ tuổi ba mươi sáu, Agatha cao hơn tôi khá nhiều và lớn hơn tôi gần mười tuổi. Mái tóc vàng nâu của cô đã phai bớt sắc vàng và ngả sang nâu.
“Agatha,” Archie nói, giọng gay gắt, “lẽ ra em phải gõ cửa.”
“Thôi nào Archie, đây có phải phòng thay đồ đâu.” Rồi cô ấy quay sang tôi và nói, “Cô O’Dea, tôi không nghĩ sẽ gặp cô ở đây đấy.”
Chiến lược của Archie luôn là giấu tôi ở nơi dễ thấy. Tôi thường được mời đến các bữa tiệc hay thậm chí là nhà họ vào những ngày cuối tuần. Sáu tháng trước, lẽ ra anh ấy nên viện cớ về sự xuất hiện của tôi ở văn phòng, có thể là Stan cho mượn cô Nan để làm vài việc vặt chẳng hạn. Stan là chủ của tôi tại Công ty cao su Đế quốc Anh và là bạn của Archie. Nhưng dù vậy thì anh ta là loại người chẳng cho ai mượn bất cứ thứ gì.
Archie còn chẳng thèm giải thích lý do về sự hiện diện của tôi, kẻ đang ngồi ở nơi không thuộc về mình. Agatha nhướng mày khi cô nhận ra rằng chồng mình không bận tâm đến những lời nói bóng gió thông thường nên cô bắt đầu lấy lại sự bình tĩnh bằng cách đổi hướng sang tôi.
“Ôi nhìn bọn em này,” Vừa nói Agatha vừa chỉ vào trang phục chúng tôi đang mặc “Chúng em là chị em sinh đôi.”
Thật là cả một nỗ lực lớn để tôi không chạm tay lên mặt, gương mặt hẳn là đang đỏ gay lên. Nếu cô ấy vào phòng sớm hơn hai phút thì sao nhỉ? Cô ấy có giả vờ lờ đi mọi bằng chứng như cái cách cô ấy đang cố gắng làm từ nãy đến giờ không?
“Đúng” Tôi nói “Đúng vậy thật, chúng ta là một cặp sinh đôi.”
Vào mùa này, gần như mọi phụ nữ ở London đều là một cặp song sinh, quần áo giống nhau, tóc dài ngang vai giống nhau. Nhưng đồ của Agatha là hàng Chanel chính hãng, và những viên ngọc trai cô ấy đeo cũng chẳng thể là đồ giả. Cô ấy không hề chỉ ra điểm khác biệt này với thái độ khinh thường, cô ấy không phải loại người như vậy. Một đức tính hoàn toàn trái ngược với tôi. Agatha chưa bao giờ phản đối việc con gái của một nhân viên, một thư ký đơn thuần, hiện diện trong vòng kết nối xã hội của mình. “Cô ấy là bạn của con gái Stan,” Archie nói. “Một tay gôn cừ khôi.” Và bấy nhiêu lời giải thích đã là đủ với Agatha.
Dạo gần đây, những bức ảnh chụp của Agatha trông tăm tối và kém xinh hơn nhiều so với ngoài đời. Cô ấy từng có đôi mắt long lanh và xanh biếc, những đốm tàn nhang đầy nữ tính trên mũi và khuôn mặt thay đổi nhiều biểu cảm khác nhau trong phút chốc. Cuối cùng, Archie đứng dậy, bắt tay chào như thể cô là một đối tác kinh doanh. Và tôi đã quyết định làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn. Một hành động mà chỉ những người đang làm điều ác mớicó thể làm. Người phụ nữ xinh đẹp và đầy tham vọng này, cô ấy xứng đáng với những điều tốt đẹp hơn là Archie. Cô ấy xứng đáng có một người đàn ông chung thủy và nâng niu cô trong vòng tay với sự tình yêu thương không gì có thể lay chuyển được. Khi cảm giác tội lỗi dần len lỏi trong tâm trí khiến tôi nản lòng, tôi tự nhắc bản thân rằng Agatha được sinh ra trên đôi chân của chính cô ấy, và đó là cách cô sẽ tự mình đứng vững.
Cô ấy đã nhắc đi nhắc lại hai hay ba lần với Archie rằng cô đã có một buổi hẹn với người đại diện văn học mới của cô, Donald Fraser. “Em cũng đang ở thị trấn nên em nghĩ chúng ta có thể đi đâu đó ăn trưa cùng nhau, trước khi anh có kì nghỉ cuối tuần.”
“Hôm nay thì không được rồi” Archie chỉ vào chiếc bàn trống không của mình một cách thiếu thuyết phục. “Anh còn cả núi việc phải làm”
“À.” Agatha nói “Anh chắc chứ? Em đã đặt bàn ở Simpson’s đấy.”
“Ừ” Anh nói. “E là em đến đây vô ích rồi.”
“Cô có muốn đi với tôi không, cô O’Dea? Một bữa trưa của những quý cô?”
Tôi không thể chịu được cảnh nhìn cô ấy bị từ chối hai lần. “Ồ, tất nhiên rồi. Sẽ tuyệt lắm đây.”
Archie ho khan và tỏ ra cáu kỉnh. Nếu là những người đàn ông khác thì họ có thể đã lo lắng khi phải đối mặt với cuộc gặp gỡ này, giữa vợ và người tình. Nhưng anh đã chẳng còn bận tâm nữa. Anh muốn kết thúc cuộc hôn nhân này, nên nếu điều đó xảy ra do Agatha bắt gặp chúng tôi đang ở với nhau thì cứ để mọi chuyện diễn ra như vậy đi. Và khi tôi và vợ anh đang ăn trưa, anh sẽ đi đến cuộc hẹn ở Garrard and Company để mua chiếc nhẫn đẹp nhất - viên kim cương thật đầu tiên cho tôi.
“Kể tôi nghe về người đại diện văn học mới đi,” Tôi vừa nói vừa đứng dậy. “Sự nghiệp văn học của cô thật thú vị, phu nhân Christie.” Đây không phải là một lời tâng bốc. Mà đối với tôi, sự nghiệp của Agatha thú vị hơn nhiều so với công việc tài chính của Archie. Dù bây giờ cô ấy chưa được nhiều người biết tới nhưng không có nghĩa tương lai cũng sẽ như vậy. Một ngôi sao đang lên nhưng chưa nổi lên hoàn toàn. Tôi ghen tị với cô ấy.
Agatha khoác tay tôi, một cử chỉ tôi dễ dàng đón nhận. Tôi có ba chị em gái nên việc thân thiết với những người phụ nữ khác gần như trở thanh bản năng trong tôi. Mặt Agatha phảng phất nét cười. Archie đôi khi phàn nàn về số cân Agatha đã tăng trong bảy năm qua kể từ khi Teddy được sinh ra nhưng cánh tay của cô ấy trông có vẻ ốm và mảnh dẻ. Tôi để cô ấy dẫn tôi qua các tòa nhà văn phòng và ra đường phố London sầm uất. Má tôi ửng hồng vì lạnh. Agatha đột nhiên buông tay tôi ra và đưa một tay lên trán giữ để cơ thể có thể lấy lại thăng bằng.
“Phu nhân Christie, cô không sao chứ?”
“Agatha,” Giọng cô ấy trở nên sắc nhọn hơn so với khi ở trong văn phòng của Archie. “Hãy gọi tôi là Agatha.”
Tôi gật đầu, sau đó vẫn gọi cô ấy như trước. Mỗi lần như vậy cô ấy đều đề nghị tôi thay đổi cách xưng hô nên phần lớn buổi chiều hôm đó tôi không gọi tên cô ấy thêm lần nào nữa.
***
Có người phụ nữ nào mà bạn đã từng quen biết giờ đã trở nên nổi tiếng chưa? Nào hãy nhìn lại, bạn có thể thấy những điều này trong quá khứ chứ? Cách mà cô ấy giấu kỹ bản thân mình, sự quyết tâm cô ấy được thể hiện qua lời nói. Cho đến ngày Agatha rời khỏi cõi đời này, cô luôn tự nhận mình là một người không tham vọng. Cô ấy nghĩ cô đã giấu sự mãnh liệt của mình một cách kĩ càng nhưng tôi có thể thấy rõ điều đó qua ánh mắt của cô, cái cách cô quét mắt khắp căn phòng hay cách cô phân tích những người đi qua mình, tưởng tượng cả một câu chuyện dài đằng sau rồi tóm gọn nó chỉ bằng một câu. Không giống như Archie, Agatha luôn muốn biết quá khứ của bạn. Nếu bạn không tiết lộ, cô ấy sẽ tự vẽ ra một câu chuyện và thuyết phục bản thân rằng đó là sự thật.
Agatha và tôi được dẫn lên lầu, đến phòng ăn dành cho phụ nữ ở Simpson’s. Khi chúng tôi vào chỗ ngồi, dù những người phụ nữ khác vẫn đội mũ nhưng vì cô ấy bỏ mũ ra nên tôi cũng làm tương tự. Agatha vuốt mái tóc xinh xắn của mình trở lại nếp cũ. Hành động này của cô dường như để tự trấn an mình hơn là để khoe mẽ hay thể hiện bản thân. Cô ấy có thể hỏi tôi đã làm gì trong văn phòng của Archie nhưng cô ấy biết tôi đã chuẩn bị sẵn lời nói dối và cô thì không muốn nghe điều đó.
Thay vào đó là một câu hỏi, “Mẹ cô vẫn còn sống phải không cô O’Dea?”
“Vâng, bố và mẹ tôi đều còn sống.”
Agatha nhìn thẳng tôi. Đánh giá tôi. Hồi xưa, ai cũng nói rằng tôi là một gái xinh đẹp. Tôi thanh mảnh, trẻ trung và tràn đầy nhựa sống. Nhưng tôi lại không phải nàng Helen của thành Troy. Nếu như tôi là nàng Helen thì có lẽ mối quan hệ giữa tôi và Archie đã chẳng đáng lo lắng rồi. Nét đẹp bình dị của tôi chứng tỏ rằng anh ấy thật sự đang yêu tôi.
“Teddy khỏe chứ?” Tôi hỏi.
“Teddy khỏe.”
“Thế còn việc viết lách của cô?”
“Cũng ổn.” Vừa nói cô ấy vừa vẫy tay như thể chẳng có chuyện gì to tát cả. “Toàn mánh khóe thôi ấy mà, dùng chiêu trò để đánh lạc hướng người khác.” Vẻ mặt cô ấy như thể chỉ nghĩ đến điều đó thôi cũng đủ làm cô vui vẻ. Tôi nhận ra rằng dù chưa được người khác công nhận nhưng cô ấy vẫn hết sức tự hào về công việc của mình.
Bất thình lình, một tiếng xoảng lớn vang lên khi người phục vụ mặc chiếc áo trắng đánh rơi khay đĩa anh ta đang dọn. Tiếng rơi làm tôi nhảy dựng lên. Ở bàn bên cạnh người đàn ông đang ăn tối với vợ cũng vội đưa tay lên che đầu như một phản xạ tự nhiên. Cách đây không lâu, những tiếng ồn xé tan London đại diện cho những điều đáng lo ngại hơn nhiều so với việc bát đĩa bị vỡ vụn. Và tất nhiên, nhiều người đàn ông ở đây đã chứng kiến viễn cảnh tồi tệ nhất.
Agatha nhấp một ngụm trà và nói, “Tôi thật nhớ sự bình lặng trước cuộc chiến. Cô có nghĩ chúng ta sẽ trở lại như trước được không, cô O’Dea?”
“Tôi không biết làm sao để chúng hồi phục lại như trước.”
“Tôi cho là cô còn quá trẻ để có thể làm những việc như chăm sóc người khác.” Cô ấy nói.
Tôi gật đầu. Trong suốt cuộc chiến, hầu hết người chăm sóc cho binh sĩ là những người phụ nữ đã có chồng. Người ta cố tình làm vậy để hạn chế nảy sinh tình cảm giữa hai bên. Agatha đã được chỉ định đến một bệnh viện ở Torquay, nơi cô đã được học rất nhiều về các chất độc.
“Chị gái Megs của tôi đã trở thành y tá.” Tôi nói. “Từ sau chiến tranh, đó là nghề của chị ấy. Giờ chị ấy đang làm việc tại một bệnh viện ở Torquay.”
Agatha không hỏi gì thêm. Cô ấy không biết nhiều về chị gái tôi. Thay vào đó, cô ấy hỏi, “Cô đã từng mất một người thân thiết với mình chưa?”
“Có một anh chàng tôi từng quen ở Ireland.”
“Anh ta bị người khác giết à?”
“Không hẳn vậy. Nói đúng hơn là anh ấy chẳng quay về nhà nữa.”
“Chắc cô cũng biết Archie từng tham gia Quân đoàn bay. Tôi đã nghĩ những người làm việc trên không sẽ khác.”
Như vậy chẳng phải là vơ đũa cả nắm sao? Lúc nào chả là người nghèo hứng chịu những vết sẹo của thế giới. Agatha thích dẫn lời của William Black: “Có người sinh ra trong niềm vui ngọt ngào, người khác lại chìm trong đêm đen vô tận.” Trong suy nghĩ của tôi, ngay cả lúc này đây - khi chúng tôi đang ăn trưa tại nhà hàng Simpson’s và chồng cô ấy đang mua nhẫn đính hôn cho tôi - tôi vẫn phải chấp nhận rằng Agatha là người đến trước và tôi chỉ là người đến sau.
Agatha chỉ thể hiện đúng một biểu cảm trên khuôn mặt và tôi có thể thấy cô ấy đang cố để không suy nghĩ về một điều gì đó. Như thể cô ấy muốn nói một điều gì đó với tôi nhưng lại chẳng thể nói được. Tôi chắc rằng cô ấy đưa tôi đi ăn trưa để đối đầu với tôi. Hoặc có thể là cầu xin lòng thương xót từ tôi. Nhưng việc trì hoãn những cuộc trò chuyện không mong muốn là điều hết sức dễ dàng, càng dễ hơn khi đối đầu với người khác không phải bản năng của bạn.
Vì muốn trì hoãn, Agatha tiếp tục nói, “Chiến tranh cũng chỉ là rác rưởi mà thôi. Cuộc chiến nào cũng vậy. Là một điều quá sức tồi tệ mà một người đàn ông phải chịu đựng. Nếu tôi có con trai, tôi sẽ làm bất cứ điều gì để giữ thằng bé tránh xa cuộc chiến bất chấp hậu quả ra sao, ngay cả khi nước Anh đang bị đe dọa đi chăng nữa.”
“Tôi nghĩ nếu có con trai tôi cũng sẽ làm điều tương tự.”
Khi người phục vụ hỏi về độ chín của miếng thịt, tôi đã chọn loại tái hơn so với sở thích của mình. Tôi cho rằng bản thân chỉ đang cố gây ấn tượng với Agatha vì phàm là những người càng giàu có lại càng thích món steak của mình nhiều máu hơn. Khi tôi xẻ miếng thịt, chất dịch màu đỏ khiến dạ dày tôi quặn lên.
“Cô có còn nghĩ về anh chàng người Ireland kia không?” Agatha hỏi.
“Chỉ mỗi ngày trong cuộc đời tôi thôi.”
“Đó là lí do cô không bao giờ kết hôn ư?”
Không bao giờ kết hôn. Cứ như tôi sẽ vĩnh viễn không kết hôn vậy. “Tôi nghĩ vậy.”
“Chà…” cô ấy nói, “cô vẫn còn trẻ. Và ai biết được? Có khi một ngày nào đó anh ta sẽ trở về và hoàn toàn khỏe mạnh.”
“Tôi thật sự rất nghi ngờ khả năng đó.”
“Trong suốt cuộc chiến, đã có lúc tôi nghĩ rằng mối quan hệ giữa Archie và tôi sẽ không bao giờ đi đến hôn nhân. Nhưng chúng tôi đã kết hôn và sống rất hạnh phúc. Cô biết đấy, chúng tôi đang sống hạnh phúc.”
“Tôi chắc là như vậy.” Ngột ngạt và ngoại tình. Trò chuyện về chiến tranh giúp tôi sẵn sàng đối mặt với những điều khó chịu nhất. Một người không có gì chắc sẽ được tha thứ khi cướp đi một thứ - người chồng - từ người đã có hết tất cả mọi thứ.
Người phục vụ quay lại và hỏi liệu chúng tôi có muốn dùng món bánh tráng miệng không. Cả hai chúng tôi đều từ chối. Agatha đặt nĩa xuống đĩa thịt đã ăn được một nửa. Nếu cô ấy cư xử bớt hoàn hảo đi thì có lẽ cô ấy đã đẩy đĩa thức ăn ra xa. “Tôi phải bắt đầu ăn ít lại thôi. Archie nói tôi quá béo.”
“Cô trông vẫn rất tuyệt.” Tôi nói thế để xoa dịu cô ấy, nhưng đấy cũng là sự thật. “Trông cô rất xinh đẹp.”
Agatha bật cười, có chút chế giễu nhưng là tự chế nhạo bản thân mình chứ không phải chế nhạo tôi, và tôi lại mềm lòng. Gây tổn thương người khác không làm tôi vui lên chút nào. Cái chết của mẹ Agatha thật không đúng thời điểm chút nào, nó quá gần với thời điểm Archie sẽ rời đi. Mọi thứ diễn ra không theo kế hoạch của tôi. Cha của Agatha đã qua đời khi cô mới chỉ mười một tuổi, sự ra đi của mẹ đã khiến cô ấy trở thành một trong những thành viên lớn tuổi nhất trong gia đình khi còn quá trẻ.
Chúng tôi cùng nhau đi ra ngoài sau khi Agatha khăng khăng đòi thanh toán bữa trưa. Đang bước trên đường, cô bỗng quay sang tôi, cong ngón trỏ và ngón cái nắm lấy cằm tôi.
“Cô có kế hoạch gì cho cuối tuần này không, cô O’Dea?” Bằng giọng nói như thể cô biết tỏng mọi dự định của tôi vậy.
“Không,” Tôi nói. “Nhưng tôi sẽ có một kỳ nghỉ vào tuần tới. Tại khách sạn Bellefort ở Harrogate.” Ngay lập tức, tôi tự hỏi bản thân lý do tại sao mình lại kể chuyện đó với cô ấy. Tôi thậm chí còn chưa nói điều này với Archie kia mà. Nhưng có lẽ việc có quan hệ với chồng của một người phụ nữ khác sẽ khiến bạn cảm thấy gần gũi hơn với cô ấy, có khi còn hơn cả cảm giác gần gũi khi ở bên chồng cô ta.
“Tự thưởng cho bản thân.” Agatha nói như thể việc này chẳng hề gây hứng thú cho một người vốn có óc xét đoán như cô. “Thật tuyệt vời.”
Tôi cảm thấy hết sức biết ơn khi Agatha không hỏi tôi lấy đâu ra tiền để chi tiêu phung phí như vậy. Cô ấy buông cằm tôi ra với ánh nhìn phức tạp mà tôi không thể hiểu nổi.
“Thôi thì tạm biệt nhé.” Cô ấy nói. “Chúc cô có một kì nghỉ vui vẻ.”
Cô quay đi. Bước vài bước. Dừng lại. Quay lại chỗ tôi và nói, “Cô không hề yêu anh ấy.” Khuôn mặt của cô ấy đã hoàn toàn thay đổi, gương mặt bình tĩnh với cảm xúc bị kìm nén ban nãy giờ đã thay bằng cặp mắt mở to và run rẩy. “Sẽ rất tệ nếu cô yêu anh ấy, nhưng cô hoàn toàn không, hãy để anh ấy ở bên người có thể làm điều đó.”
Mọi suy nghĩ trong tôi đột ngột biến mất. Tôi cố gắng từ chối đáp lại thứ xúc cảm kỳ quái, giống như cơ thể tôi dần tan biến thành những mảnh vụn rồi bay lơ lửng vào không khí. Agatha không chạm vào tôi như lúc nãy mà thay vào đó, cô nhìn chằm chằm vào mặt tôi và chờ xem phản ứng của tôi. Mặt tôi cắt không còn một giọt máu, cảm giác tội lỗi dâng trào khiến tôi không thể thở hay cử động.
“Phu nhân Christie.” Đó là tất cả những gì tôi có thể thốt ra. Cô ấy đang đòi một lời thú nhận mà tôi không có tư cách gì để thốt ra.
“Cô O’Dea.” Cuối cùng, cô ấy cắt ngang câu chuyện một cách dứt khoát và trở lại dáng vẻ thường ngày. Tôi gọi tên cô ấy như mở đầu cho một lời phủ nhận, còn cô ấy gọi tên tôi để gạt bỏ lời phủ nhận đó một cách cứng rắn.
Tôi đứng trước nhà hàng nhìn cô ấy bước đi. Trong ký ức của tôi, hình ảnh cô ấy như dần tan biến vào một đám mây mù lớn nhưng điều đó không chính xác cho lắm. Lúc đó đang là ban ngày – sắc nét và rõ ràng. Có lẽ cô ấy chỉ đơn giản là đã rẽ vào khúc cua nào đó hoặc hòa mình vào dòng người đông đúc ngoài kia.
***
Lẽ ra tôi phải quay lại làm việc, nhưng thay vào đó tôi đi đến văn phòng của Archie. Công việc thư ký giờ đây không còn quá nhiều ý nghĩa với tôi vì Archie chi trả ngày càng nhiều chi phí cho tôi. Tôi biết anh ấy sẽ lo lắng về bữa ăn trưa giữa tôi và Agatha. Nếu tối nay Archie thực sự nói với Agatha rằng anh ấy sẽ rời đi, có thể cô ấy lại buộc tội tôi không yêu anh ấy một lần nữa, do đó, tốt hơn hết là làm anh ấy thấy rằng tôi có yêu anh.
Trên đường đi, tôi đi ngang qua cửa hàng sách, nơi trưng bày hằng trăm cuốn sách thiếu nhi có bìa màu hồng in hình chú gấu nhỏ đang nắm chặt sợi dây của quả bóng bay và lơ lửng trên không trung. Winnie the Pooh1. Cuốn sách trông thật kỳ lạ, tôi đi vào và mua một cuốn để Archie tặng cho Teddy. Trong một khoảnh khắc, tôi đã cân nhắc đến việc tự mình tặng cho con bé xem như một món quà Giáng sinh. Đến lúc đó có thể bố mẹ con bé đang sống xa nhau, Teddy sẽ đón Giáng sinh với bố con bé và tôi. Một cảnh tượng thật ấm cúng: ba người chúng tôi trao quà cho nhau bên dưới cây thông Noel. Có vài trường hợp những đứa trẻ sống chung với bố sau khi bố mẹ chúng ly hôn và Archie luôn miệng khẳng định rằng Teddy thương anh nhiều hơn. Hoàn toàn giống với cách nói chuyện thường ngày của anh. Không chỉ nói suông, anh còn rất tin tưởng vào điều bản thân đang nói nữa.
1 Gấu Pooh xinh xắn
Khi trở lại văn phòng Archie, tôi đưa anh cuốn sách để anh tặng cho Teddy. Sau khi khóa cửa, anh kéo tôi vào lòng, cởi cúc váy và kéo nó lên eo tôi.
“Chuyện này sẽ không kéo dài lâu đâu.” Hơi thở của anh quanh quẩn bên tai khiến cả người tôi run rẩy, dù tin chắc anh thích tư thế này. Không phải tất cả đàn ông đều thích vậy sao?
Tôi rời khỏi đùi anh và vuốt lại váy của mình. Mũ của tôi vẫn yên vị trên mái tóc và hầu như chẳng mảy may xê dịch.
“Cô ấy thế nào?” Anh trở lại bàn làm việc và hỏi.
“Trông cô ấy buồn.” Nếu cô ấy có nói với anh rằng hai chúng tôi đã đối đầu với nhau, tôi sẽ phủ nhận điều đó. “Và lo lắng nữa.”
“Em không được mềm lòng,” Anh nói. “Đâm một nhát nhanh chóng và dứt khoát mới là cách thức tốt nhất dành cho cô ấy.”
“Chắc phải vậy thôi.”
Tôi gửi anh một nụ hôn gió và bước đi về phía cửa. Hy vọng không hành động hay lời nói nào của tôi làm giảm quyết tâm của anh ấy. Cuộc nói chuyện giữa tôi với Agatha khiến việc Archie rời bỏ cô ấy càng trở nên cấp bách hơn. Tôi đã mở chốt rồi.
“Nan,” Archie cất lời trước khi tôi bước ra khỏi cửa. “Lần sau em gặp anh thì anh sẽ là một gã độc thân.”
“Không hề.” Tôi đáp lời anh. “Anh sẽ thuộc về em.”
Anh mỉm cười và tôi biết tôi không việc gì phải lo lắng cả, ít nhất là về chuyện Archie báo tin cho Agatha. Người đàn ông này có một sứ mệnh. Một khi đã quyết định làm điều gì, anh ấy làm điều đó với sự lạnh lùng của một phi công thả bom tàn phá và tước đi những sinh mệnh bên dưới trong khi đang nhẹ lướt trên bầu trời, không ai có thể chạm tới.
BIẾN MẤT
Một ngày trước
Thứ Năm, ngày 2 tháng Mười hai năm 1926
Một câu chuyện nào đó trong lịch sử thế giới kể lại rằng có một người đàn ông luôn nói với nhân tình của mình: anh ta không yêu vợ mình, có lẽ chưa bao giờ yêu cô ấy; không quan hệ tình dục trong nhiều năm và không một lời nhắc, thậm chí là những lời thì thầm về điều đó; cuộc hôn nhân vắng bóng đam mê, vắng bóng tình cảm, vắng bóng niềm vui - một chốn cằn cỗi và đau khổ; anh ta ở lại chỉ vì con cái, hoặc vì tiền, hoặc vì chuẩn mực xã hội; vì tiện lợi và phù hợp; bên người yêu mới là nơi duy nhất anh ấy có thể nghỉ ngơi giữa muôn vàn khó khăn và phiền muộn.
Có bao nhiêu phần câu chuyện này là sự thật? Tôi đoán là không nhiều, ít nhất câu chuyện trên không đúng đối với trường hợp của nhà Christie.
Tối hôm đó, Archie lại có chuyến đi quen thuộc từ London đến Sunningdale. Cả hai đặt tên cho ngôi nhà này là Styles, theo tên trang viên trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Agatha. Một ngôi nhà phong cách Victoria xinh xắn với những khu vườn rộng lớn bao quanh. Khi Archie bước vào, Agatha đang đợi chồng trong bộ trang phục phù hợp với bữa tối. Dù Archie chưa bao giờ kể tôi nghe cô ấy đã mặc gì nhưng tôi biết đó là một chiếc váy voan màu xanh bọt biển, tôi còn tưởng tượng đến phần cổ áo hình chữ V nhấn mạnh bộ ngực nở nang của cô ấy. Archie chỉ nói rằng cô ấy có vẻ rất mất tập trung nên anh quyết định đợi đến sáng mới nói với cô rằng anh sẽ rời đi. Theo như lời anh là: “Chẳng phải ban đêm dễ khiến cảm xúc dâng trào hơn sao?”
Agatha biết điều gì sắp đến và quyết tâm chiến đấu trong im lặng. Thường thì chú chó săn nhỏ Peter không bao giờ rời khỏi cô nhưng để tránh bị làm phiền trong buổi tối hôm nay, cô đã cho nó lên giường với Teddy. Cô cố nặn ra vẻ mặt vui vẻ mà chồng mong muốn.
Đôi khi tôi nghĩ Agatha sáng tạo ra Hercule Poirot, như một nhân vật trái ngược hoàn toàn với Archie. Poirot không bao giờ bỏ lỡ bất cứ cảm xúc nào và có thể cảm thông trước những thay đổi cảm xúc của người khác. Poirot có thể tiếp nhận, đánh giá nỗi buồn của của người khác và tha thứ cho lỗi lầm của họ. Trong khi đó, Archie sẽ chỉ nói rằng Hãy vui lên và tiếp tục quy trình ban đầu.
Sau khi quyết định hoãn lại viễn cảnh không thể tránh khỏi kia, Archie ngồi xuống một đầu bàn ăn dài, đối diện vợ trong một bầu không khí im lặng bao trùm. Khi tôi hỏi hai người đã thảo luận những gì, anh trả lời, “Chỉ trò chuyện xã giao thôi.”
“Cô ấy thế nào?”
“Hụt hẫng.” Archie nói như thể đó là một điều sỉ nhục đối với anh. “Trông cô ấy như đang tự chìm đắm trong nỗi buồn vậy.”
Sau bữa tối, Agatha đề nghị cả hai đến phòng khách để uống một ly rượu mạnh nhưng Archie từ chối và đi lên lầu gặp Teddy. Thư ký riêng của Agatha kiêm bảo mẫu của Teddy, Honoria đang dỗ Teddy ngủ.
Khi Archie vừa bước vào phòng, chú chó nhỏ ngay lập tức lao ra khỏi cửa và Teddy hét lên để phản đối. “Mẹ đã hứa sẽ để Peter ở lại với con đêm nay cơ mà!”
May mắn thay, Archie đã có món quà Winnie the Pooh để an ủi con bé. Anh kể với tôi sau khi Teddy vui mừng xé tờ giấy gói quà, anh đã đọc cho con bé nghe chương đầu tiên. Con bé xin anh tiếp tục đọc và đến khi anh quay trở lại thì Agatha đã ngủ say mà không bao giờ biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để giành lại anh. Archie nói thêm, “Cô ấy ngủ say như chết.”
Nhưng đến thứ Bảy tuần sau, khi từ Godalming đến Styles để trả xe cho Archie, tôi nhìn thấy cuốn Winnie the Pooh nằm trên bàn ở tiền sảnh, vẫn còn bọc trong giấy gói quà màu nâu. Và khi ở Simpson’s, trông Agatha lơ đễnh và thiếu sức sống như một người mất ngủ đang chịu đựng qua từng ngày sau quá nhiều đêm thức trắng. Cô ấy yêu chồng mình. Sau mười hai năm chung sống, cô yêu anh một cách mù quáng, tràn trề niềm tin và hy vọng, như thể cô chẳng biết bất cứ điều gì trên đời trong suốt ba mươi sáu năm qua.
Tôi biết cô ấy sẽ không ngủ trước khi Archie lên giường. Theo tôi suy đoán, đây mới thực là những gì đã xảy ra:
***
Việc Agatha đứng đợi và chào đón anh về nhà là đúng. Cô đánh màu má cao và cương nghị. Cô quyết tâm giành lại anh không phải bằng sự tức giận và đe dọa mà bằng sự tôn thờ mãnh liệt cô dành cho chồng nên cô đã chọn lựa trang phục rất cẩn thận. Tôi biết chính xác cô ấy đã mặc gì vì một đống lộn xộn bị vứt ngổn ngang trên sàn phòng ngủ vào sáng thứ Bảy và người giúp việc khá là không vui khi phải gom đi giặt. Khi nhìn thấy bộ váy, tôi đã quỳ xuống, nhặt lên và ướm thử lên người mình. Chiếc váy dài hơn người tôi khá nhiều, voan màu bọt biển mơn trớn chân tôi. Nó có mùi nước hoa Yardley, mùi Old English Lavender nhẹ nhàng và kiều diễm.
Thật ngớ ngẩn khi mặc bộ váy này giữa mùa đông nhưng không thể phủ nhận rằng cô ấy hẳn đã trông rất đáng yêu khi mặc nó để chào đón anh. Những đốm tàn nhang nổi bật trên khắp mũi và ngực. Có lẽ cô còn cầm một ly rượu, không phải cho bản thân (cô ấy hầu như không uống bao giờ) mà để đưa cho anh, một ly Scotch mà anh yêu thích.
“A.C.2 ” Cô nói và bước đến gần anh. Đặt một tay lên ngực anh, đợi anh đưa chiếc áo khoác và cầm lấy cốc rượu. Từ đêm tân hôn họ đã gọi nhau là A.C.
2 Archibald Christie và Agatha Mary Clarissa (tên thời con gái của Agatha Christie) đều viết tắt là A.C
“Đây.” Archie không đáp lại lời âu yếm. Anh đưa áo khoác cùng với cuốn sách thiếu nhi đã được gói lại cho cô. “Cái này là cho Teddy.” Archie không nói với cô ấy rằng tôi là người mua cuốn sách nhưng hẳn cô có thể đoán được. Anh không phải người yêu sách. Thậm chí anh còn chưa đọc những cuốn tiểu thuyết cô ấy viết, thậm chí là cuốn đầu tiên. Agatha thả gói quà xuống bàn.
Trong phòng khách, Agatha tự rót cho mình một ly nước. Cô rất giỏi trong việc chờ đợi. Cô đã đợi nhiều năm để kết hôn với Archie, sau đó cô lại chờ chiến tranh kết thúc để được sống cùng anh. Cô gửi cuốn sách đầu tiên của mình cho một nhà xuất bản và đợi hai năm đến khi họ chấp nhận. Đến khi nhận được tin rằng sách sẽ được xuất bản thì cô gần như quên mất mình đã từng viết cuốn sách đó. Cô ký hợp đồng với Bodley Head cho năm cuốn tiểu thuyết đầu tiên và ngay lập tức nhận ra sai lầm khi ký một bản hợp đồng bất công như vậy, nhưng thay vì chấp nhận những lời đề nghị thương lượng lại, cô chờ đợi. Bây giờ cô đã được tự do và đã chuyển sang một nhà xuất bản cao cấp hơn nhiều. Một người phụ nữ buộc phải dồn hết tâm trí vào một việc và mong cầu điều tốt đẹp nhất sẽ xảy đến. Một người phụ nữ phải sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi thời cơ phù hợp.
Căn nhà quá lạnh khiến hai cánh tay trần của cô nổi da gà, khiến cô nhích gần Archie hơn. Anh có vẻ ngoài khỏe mạnh và bất khả xâm phạm, tỏa ra hơi ấm, không phải hơi ấm tình người mà là nhiệt độ theo đúng nghĩa đen.
“Teddy đâu?” Anh hỏi.
“Trên lầu với Honoria. Đang tắm chuẩn bị đi ngủ.”
Anh gật đầu, ngửi thấy mùi oải hương. Đàn ông luôn thích sự cố gắng của người phụ nữ, đặc biệt khi cô ấy là người xa lạ với anh, vào thời điểm này, người phụ nữ ấy chính là vợ anh, khi anh quyết định nói rằng anh sẽ rời đi. Agatha đã hướng dẫn người đầu bếp chuẩn bị bữa ăn yêu thích của anh, Beef Wellington, một bữa tối phù hợp với mùa đông. Cô thắp nến lên. Giờ chỉ cô, anh và một chai rượu vang Pháp ngon lành. Agatha tự rót cho mình một ly để tạo không khí gần gũi hơn nhưng nhấp môi chưa đầy một ngụm. Cô ngồi bên cạnh anh, không phải đối diện bàn như Archie đã kể. Anh thuận tay trái, cô thuận tay phải, khuỷu tay của họ chạm vào nhau thật thân mật. Sự thân thuộc của những người đã ở cùng nhau rất nhiều giờ, sống chung một nhà và ngủ chung một giường. Archie chỉ là con người và tệ hơn nữa, anh chỉ là một người đàn ông. Một cảm giác u sầu nào đó đã chiếm lấy anh. Nếu nói anh chưa bao giờ yêu cô thì thật sai trái. Thật ra việc anh quyết tâm cưới tôi khiến anh nhớ lại lần cuối mình cảm thấy cấp bách. Là khi anh muốn kết hôn với Agatha. Mặc dù chiến tranh vẫn đang diễn ra, họ không có tiền, và cả hai gia đình đặc biệt là mẹ anh khăng khăng bắt họ phải đợi thêm. Bây giờ đây, trong ánh nến chập chờn, cô ấy lại mang dáng dấp của quá khứ, giống như trong đêm tân hôn của họ. Đêm Giáng sinh, ngày kỷ niệm của cả hai đã gần kề. Khó mà lờ đi những kỷ niệm như thế tràn về trong ký ức chúng ta, nhất là vào thời điểm này trong năm.
Anh ăn xong và không ghé qua phòng để chúc Teddy ngủ ngon. Dù gì thì cũng đã muộn và con bé cũng đã ngủ rồi.
Tôi biết chính Archie là người đã cởi chiếc váy của vợ và vứt nó nằm nhàu nhĩ trên sàn nhà. Anh luôn thích người phụ nữ khỏa thân trong khi anh vẫn ăn mặc chỉn chu. Và đây lại là cơ hội cuối cùng để anh ở bên người phụ nữ đặc biệt này. Riêng tư trong phòng ngủ, vợ anh run lên vì thỏa mãn và vui sướng. Cả vì lạnh nữa. Người giúp việc đã nhóm lửa trong lò sưởi phòng ngủ. Trong ánh lửa bập bùng hư ảo, Agatha trông có vẻ dễ bị tổn thương bởi sự tôn thờ của mình.
Hôn nhân. Hai cuộc đời đan xen vào nhau. Một thứ dai dẳng và khó buông bỏ. Archie không phải là một người đàn ông không có cảm xúc, và vào đêm cuối cùng với vợ, sau bao tháng ngày kìm nén tình cảm với cô ấy, anh ấy đã để những cảm xúc mới mẻ dành cho cô cuốn lấy bản thân lần cuối cùng.
“Agatha.” Anh không ngừng lặp đi lặp lại tên cô. Tôi đoán rằng anh ấy còn nói Anh yêu em nữa. Và vì vậy, cô ấy sẽ đáp lại lời anh, những giọt nước mắt chảy dài trên má như thể cô ấy đã giành lại được anh. Họ không nhận ra thời gian đã trôi nhanh thế nào, càng về khuya tấm khăn trải giường càng nhàu nát vì hai người không ngừng mặn nồng ân ái. Chỉ duy nhất đêm nay, cô là nhân tình của anh và không bao giờ trở lại làm vợ anh được nữa.
BIẾN MẤT
Ngày cuối cùng trước khi biến mất
Thứ Sáu, ngày 3 tháng Mười hai năm 1926
Agatha mở mắt ra và thấy mình nằm đơn độc trên chiếc giường. Archie đã thức dậy trước bình minh, bỏ lại sau lưng đêm qua như cách một người đàn ông mới có thể làm. Anh tắm, gột rửa hết mùi hương của vợ khỏi cơ thể, bất cứ thứ tình cảm nào anh dành cho cô đều đã bị bỏ lại trong căn phòng ngủ kia. Ngược lại, khi Agatha cựa quậy và nhận ra bản thân đang khỏa thân dưới tấm ga trải giường, phát hiện ra điều bất thường khiến cô lập tức nhớ lại tất cả mọi chuyện xảy ra đêm qua. Cô mỉm cười chiến thắng và vươn vai. Archie lại là của cô một lần nữa. Cô đã giành lại anh.
Vừa ngâm nga, cô vừa mặc lại chiếc váy ngủ dài bằng lụa, bộ đồ đáng ra cô đã mặc để đi ngủ. Trước khi xuống cầu thang, cô khoác thêm chiếc áo choàng ngủ bên ngoài. Cô liếc mắt nhanh qua gương và thấy điều duy nhất mình cần vào thời điểm hiện tại là lướt những ngón tay qua mái tóc đỏ đã phai màu của mình. Nếu để nhận xét về bản thân, cô có thể thấy mình trông rất đẹp. Gương mặt ửng hồng ngập tràn hạnh phúc. Hạnh phúc. Khía cạnh mà Archie ngưỡng mộ nhất. Hôm nay, ánh mắt đầu tiên anh nhìn thấy chính vẻ mặt rạng rỡ của cô, điều đó sẽ khiến anh chìm đắm trong tình yêu, một tình yêu hữu hình. Cô vội vã xuống lầu để bắt kịp anh trước khi anh đi đến văn phòng.
Hãy tưởng tượng cô ấy sẽ thất vọng đến nhường nào khi đi đến chân cầu thang và thấy anh. Archie đang đứng đó quần áo chỉnh tề, đồ đạc đã đóng gói hết trong vali và thái độ của anh hoàn toàn cứng nhắc.
“Hẳn là anh không tiếp tục chuyến đi chơi vào cuối tuần đâu nhỉ?” Mặt cô tái đi và màu ửng hồng trên gò má cũng dần biến mất. Tất cả niềm vui sướng và hân hoan tan biến trước khi Archie có thể nhìn thấy.
“Agatha.” Giọng anh đầy vẻ răn đe. Đúng hơn là trách mắng. Cứ như thể cô là một đứa trẻ cư xử không đúng.
“Agatha,” Cô nhại lại anh. Cô lớn tiếng hơn, cao giọng, xuyên qua những bậc thang lên tầng trên. Có lẽ nó còn xuyên qua cửa phòng ngủ của Teddy. Bấy giờ, cả bố và mẹ con bé đều sẽ không đi vào để kiểm tra xem nó đang ngủ hay thức. “Agatha.” Cô lặp lại. “Anh nói như thể tôi là người làm sai vậy. Như thể chỉ có tôi là người duy nhất gây rắc rối. Tôi nói cho anh biết, chính là anh. Chính là Anh. Archie. Archie. Archie.”
Anh thở dài và liếc về phía nhà bếp, nơi người đầu bếp đang chuẩn bị bữa sáng. Honoria sẽ đưa Teddy xuống đây bất cứ lúc nào. Anh không muốn bất cứ ai nghe thấy cuộc đối thoại này, khi anh nói ra điều anh buộc phải nói thì cô sẽ càng kích động hơn mà thôi. Anh đã lên một kế hoạch và không gì có thể làm nó thay đổi. Chiếc nhẫn đính hôn của tôi nằm trong vali của anh. Một chiếc nhẫn với giá đắt cắt cổ được anh thanh toán đầy đủ.
“Đi nào,” Vẫn giữ nguyên tông giọng của một người cha đang mắng đứa con ngỗ ngược. “Chúng ta có thể nói chuyện trong phòng làm việc của tôi.” Anh bước tới và nắm lấy khuỷu tay cô.
Agatha không có văn phòng của riêng mình. Cô viết sách ở bất cứ đâu mà cô có cảm hứng, miễn là nơi đó có một cái bàn và một cái máy đánh chữ. Thậm chí cô còn không nghĩ mình là một tác giả. Nghề nghiệp chính và danh tính của cô là Người Phụ Nữ Đã Kết Hôn. Đó là con người cô. Đã Kết Hôn. Với Archie. Nếu không còn là một người như vậy nữa thì cô sẽ là ai đây?
Cô ngồi trên chiếc ghế sô pha vải lụa trong phòng làm việc của Archie, Peter chạy đến và nhảy lên bên cạnh cô. Archie không thích chó leo lên đồ đạc trong nhà nhưng giờ anh có nhiều vấn đề quan trọng hơn cần phải giải quyết nên anh ấy cố gắng kiềm nén và đóng cửa lại với một tiếng lách cách.
Agatha từng kể với tôi về lần thất tình đầu tiên do bị một chàng trai đá, vì quá đau lòng nên cô đã chạy đến bên mẹ với đôi môi run rẩy. Một tay bà Clarissa Miller đưa cho con gái chiếc khăn tay và di chuyển ngón tay trỏ của bàn tay còn lại lên xuống để cô điều chỉnh lại âm tiết của mình. “Không được khóc. Mẹ cấm con đấy.” Với bản năng vâng lời và không mong muốn gì hơn ngoài việc làm hài lòng mẹ, cô bé Agatha đang nức nở vội nuốt nước mắt vào trong, ngăn chúng chực trào ra ngoài.
Nhưng không chỉ có những lần đau lòng vì thất tình. Thời trẻ, cô là người vui tươi và sôi nổi, từ chối hết lời cầu hôn này đến lời cầu hôn khác. Trên thực tế, khi Archie xuất hiện, cô đã đính hôn với một người đàn ông trẻ tên Tommy. Anh ta khác những người cô từng gặp và còn tốt tính nữa. Cô dám chắc rằng anh ấy sẽ không bao giờ bắt cô phải đối mặt với tình cảnh như lúc này hay khiến cô cảm thấy khó khăn khi phải làm theo lời khuyên ngày trước của mẹ.
Archie không ngồi bên cạnh cô trên ghế sô pha mà ngồi vào một chiếc ghế dựa đủ gần để cô có thể chạm vào anh. Đó là một cử chỉ tự nhiên sau đêm họ ở bên nhau, cô chấp nhận vị trí như vậy và chìa cánh tay ra.
“Agatha.” Nhưng anh đáp lại cô vô cùng lạnh lẽo. Tiếp sau đó là những từ mà cô ấy đã sợ hãi suốt nhiều tháng qua. “Nói ra điều này thật không dễ dàng.”
“Vậy thì đừng nói nữa.” Cô cầu xin, thu lại cánh tay đáng thương đang vươn về phía anh và kéo Peter vào lòng, vuốt ve chú chó để trấn tĩnh bản thân. “Xin đừng nói gì cả.”
“Anh chỉ nói điều em cần phải biết. Anh yêu Nan O’Dea và anh sẽ cưới cô ấy.”
“Không. Tôi không cho phép điều đó. Không thể được. Anh yêu tôi.” Ký ức đêm qua vẫn hiện lên rất rõ ràng, rất gần, như thể nó đang diễn ra ngay lúc này. Không giống như Archie, cô chưa tắm, mùi hương của anh vẫn còn vương trên người cô, át đi mùi nước hoa oải hương. “Tôi là vợ anh.”
“Ly hôn thôi,” Archie nói. Chỉ từ ngắn ngủi này để tuyên bố tình trạng thực tế quả là làm mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn nhiều. Mục đích cuối cùng rõ ràng đến mức không cần ngữ cảnh hay là một câu hoàn chỉnh đễ diễn tả. Archie đã chiến thắng cảm xúc. Không có bất kỳ cảm xúc nào, thậm chí anh còn chẳng lo lắng về việc vợ mình sẽ gục ngã trước mặt mình. Chỉ có một từ duy nhất khiến anh quan tâm nhất bây giờ. Ly hôn.
Agatha ngồi lặng im. Tay cô lướt ngày một nhanh hơn trên bộ lông mềm mại của chú chó săn nhưng vẻ mặt cô lại không thay đổi gì. Về phía Archie, anh bạo gan một cách ngu ngốc và bắt đầu thừa nhận rằng mối quan hệ của chúng tôi đã kéo dài được gần hai năm.
“Anh không cần phải nói chuyện đó với cô ấy.” Tôi vẫn nói dù biết anh ghét bị la mắng.
“Em nói đúng,” Anh thừa nhận. “Anh đã bị sự im lặng của cô ấy đánh lừa. Đúng là anh không ngờ tới được. Trông cô ấy cứ như chẳng thể nghe lọt tai bất cứ điều gì anh nói.”
Dường như mọi chuyện diễn ra quá nhanh, anh bắt đầu hướng dẫn Agatha nộp đơn ly hôn. “Lý do sẽ là ngoại tình,” Anh nói. Lúc bấy giờ, tòa án cho phép lý do này. “Tôi đã nói chuyện với Brunskill…”
“Brunskill!” Ông Brunskill là luật sư của Archie, một người đàn ông có ria mép và đầu óc có vấn đề. Thêm một sự phẫn nộ mới. Lẽ ra anh nên biết những gì anh vừa nói giống như thêm dầu vào lửa.
“Đúng vậy. Brunskill nói em có thể nói mà không cần đề cập đến tên của bên thứ ba. Điều quan trọng là không để tên của Nan xuất hiện trong vụ này.”
Bàn tay đang vuốt ve âu yếm Peter đột ngột dừng lại. “Đó là điều quan trọng nhất ư?”
Đáng ra Archie phải nhận ra điều mình vừa nói là sai lầm, nhưng thay vào đó, anh vẫn nói tiếp. “Vì có thể các bài báo sẽ đề cập đến điều này. Do gần đây sách và tên tuổi của em đã được biết đến nhiều hơn rồi.”
Cô đột ngột đứng dậy làm Peter ngã xuống sàn với một tiếng kêu trách móc. Cô luôn chăm sóc nó kĩ lưỡng nhưng có vẻ như lần này, cô không để ý đến tiếng kêu của nó.
Archie vẫn ngồi yên trên ghế. Sau này, anh kể lại với tôi rằng, “Cố gắng nói lý lẽ với một người phụ nữ đang rối trí chẳng có ích lợi gì cả.”
Chồng của Agatha đã yêu một người phụ nữ khác. Sự thay đổi đột ngột trong cuộc sống khiến cô chẳng thể nào chấp nhận nổi. Thậm chí cô ấy còn phải tiếp nhận thông tin này với thái độ bình tĩnh và giữ phẩm giá cho bản thân. Archie đã phá vỡ các quy tắc với cái cớ là niềm đam mê và còn bắt cô phải chọn lựa các mảnh ghép một cách hợp lý. Anh bắt cô tìm cách bảo vệ danh tiếng cho tình địch của mình. Thật quá sức chịu đựng. Cô nắm chặt tay và hét lên một tiếng thật lớn, đầy phẫn nộ.
“Agatha,” Archie nói. “Làm ơn. Người làm và con sẽ nghe thấy tiếng em đấy.”
“Con. Con! Đừng có nhắc đến con với tôi.” Vì anh không chịu đứng dậy, cô phải cúi người xuống, tay nắm chặt lại, giáng từng nắm đấm xuống bộ ngực đang mặc com lê của anh. Những cú đánh của cô chẳng thể nào khiến Archie cảm thấy đau. Anh ấy nói với tôi rằng anh phải cố nhịn để không cười.
“Anh thật độc ác,” Tôi chỉ buông nhẹ vài từ nhận xét, như thể sự tàn nhẫn của anh chẳng hề làm tôi bận tâm chút nào.
Agatha tội nghiệp. Cô ấy đã thức dậy, từ giấc mơ ngọt ngào nhất giờ đã biến thành cơn ác mộng tồi tệ nhất đời cô. Và giờ dù cô có nói hay làm gì đi chăng nữa cũng không thể giành lại bất kỳ cảm xúc nào từ chồng.
Cuối cùng, Archie đứng dậy, nắm lấy cổ tay để ngăn cô lại. “Thế là đủ rồi,” Anh nói. “Tôi đi đây. Sau khi xong việc, tôi sẽ đến nhà của gia đình Owen vào cuối tuần. Chúng ta có thể sắp xếp phần còn lại vào tuần tới.”
“Chắc cô ta cũng sẽ ở đó?”
“Không,” Archie nói vậy bởi anh nghĩ đây là câu trả lời sẽ ít bị phản ứng nhất, và nói dối cũng đã trở thành bản năng thứ hai của anh kể từ lần đầu tiên anh ấy vướng vào tôi.
“Cô ta sẽ ở đó,” Agatha nói. “Tôi biết cô ấy sẽ ở đó. Tiệc tại gia, ngày cuối tuần của các cặp đôi. Nếu anh không ở với vợ, anh sẽ ở với cô ta, con điếm đó. Con điếm nhỏ bé bẩn thỉu của anh.”
Một lỗi phổ biến các bà vợ hay mắc phải khi nhìn chồng ra đi. Lăng mạ tôi chẳng thể nào nối lại tình cảm với Archie. Một người đàn ông đang cuồng dại là kẻ bất khả xâm phạm nhất trong các sinh vật. Mặt anh trở nên tối sầm và cau có và anh siết chặt nắm tay hơn.
“Cô không được nói Nan như vậy.”
“Anh,” Cô nói. “Anh đang dạy tôi không được làm gì ư? Anh không nên bỏ đi cùng một người phụ nữ không phải vợ anh. Anh không nên rời xa tôi lúc này, lúc tôi cần anh nhất! Tôi muốn nói về Nan thế nào thì tôi sẽ nói thế ấy.”
“Bình tĩnh nào, Agatha.”
Cô đá vào chân anh. Vì cô chỉ đi dép lê nên anh hầu như chẳng đau đớn gì. Chắc hẳn cô đang rất điên tiết vì sức mạnh có hạn của bản thân. Cô giật cổ tay mình ra khỏi tay anh mạnh đến nỗi khi anh buông tay ra, cô đã ngã ngửa ra sau. Archie nhìn thấy những vết đỏ trên cổ tay cô khi cô không ngừng xoa bóp cổ tay. Nhưng anh không cảm thấy hối hận, anh tin chắc rằng chính cô tự chuốc lấy điều này. Anh chỉ có một mục đích duy nhất, đó chính là thoát khỏi cô.
Đêm hôm qua, Archie đã khuất phục trước những hồi ức và khát khao xác thịt nhưng hôm nay anh đã quay trở lại với nhiệm vụ của mình. Giống như bất kỳ con người kiên định nào, anh sẽ không cho phép mình bị thuyết phục. Anh sải những bước dài, băng qua phòng làm việc để quay lại hành lang phía trước. Anh xách theo chiếc va li và bước ra xe, chiếc Delage đã qua sử dụng được Agatha mua cho anh bằng tiền từ hợp đồng mới của cô. Archie đã sửa sang lại vẻ ngoài của nó, như thể tự bản thân anh giành được quyền sở hữu chiếc xe bằng chính sức mình vậy. Động cơ khởi động của xe bằng điện, không cần quay bằng tay nên anh có thể nhảy vào và chạy trốn khỏi cô ngay lập tức. Chắc cô đã rất tức giận khi lao mình qua ngưỡng cửa và nhìn thấy anh đang bỏ đi cùng với món quà xa hoa cô tặng.
“Archie!” Cô ấy khóc và chạy theo anh suốt một quãng đường dài. Cô vừa chạy vừa liên tục gào tên anh “Archie!”
Bụi từ bánh xe bay lên tạo thành một đám mây trước mặt cô. Archie thậm chí không thèm quay lại liếc mắt nhìn qua kính chắn gió. Anh kiên quyết một đi không trở lại, rời xa cô và không thể tiếp cận bằng tất cả mọi cách.
Sau này, “không thể tiếp cận” cũng là từ Honoria thường sử dụng để mô tả Agatha. Công việc của Honoria là đánh thức Teddy và chuẩn bị cho con bé đi học. Sau khi thức dậy, cô nghe thấy những tiếng động lớn phát ra từ phòng làm việc của ông Christie: hai vợ chồng đang cãi vã và mọi chuyện đang rất tồi tệ. Nên cô đi đến phòng Teddy, con bé đã thức tự bao giờ, đang ngồi trong một góc và chơi với búp bê. Teddy là một đứa trẻ như vậy - một đứa trẻ bảy tuổi có thể tự rời khỏi giường và tự tạo niềm vui cho chính mình mà không cần làm phiền ai cả.
“Chào con, Teddy.”
“Buổi sáng tốt lành ạ.” Teddy vén mái tóc đen ra khỏi tầm mắt mình. Con bé không hề ngạc nhiên khi thấy Honoria, cô bé thường tỉnh dậy khi cả bố và mẹ đã rời khỏi nhà. Trước khi năm tuổi, bố mẹ đã bỏ con bé cả năm trời ở nhà để đi du lịch vòng quanh thế giới. Bản thân Agatha cũng từng được “Bảo mẫu”, một người hầu cô yêu quý nuôi dưỡng trong suốt phần lớn thời thơ ấu. Vì vậy, đối với Agatha, đây là một cách hoàn toàn hợp lý để nuôi dạy một đứa trẻ.
“Đến đây nào.” Honoria vừa nói vừa đưa tay ra. “Chúng ta cùng kiếm chút gì đó để con ăn sáng, sau đó là thay quần áo và đến trường nhé.”
Teddy đứng dậy và nắm lấy tay Honoria. Hai người họ đi đến đầu cầu thang ngay khi Archie đang cố thoát khỏi trò kịch của Agatha trong phòng làm việc. Teddy giơ tay lên như để vẫy chào bố nhưng Archie sập cửa lại và không để ý đến con bé. Chỉ một khắc ngắn ngủi trước khi Agatha xuất hiện, không khí khẩn trương và đặc quánh đến nỗi Honoria đã nghĩ rằng cô sẽ bị tấn công. Honoria bước đến gần hơn thì Agatha mở tung cửa và chạy ra ngoài. Teddy nắm lấy mép chiếc áo khoác len cardigan của Honoria và giữ cô bảo mẫu lại với mình. Honoria ôm đứa trẻ vào trong lòng và vỗ về an ủi khi chứng kiến cảnh tượng Agatha vừa khóc vừa gọi “Archie! Archie!”
Honoria lịch sự đợi bên trong và giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Cô nghe tiếng xe đã chạy đi, nhưng Agatha không quay lại nên cô dắt Teddy xuống cầu thang, đi vào bếp, sau đó Honoria quay trở lại sảnh trước. Phong cách nổi bật của căn nhà là những khung cửa sổ lớn ở cả phía trước và phía sau. Qua khung cửa sổ, Honoria có thể thấy Agatha đang đứng đó trong chiếc áo choàng ngủ và đôi dép lê, tóc cô ấy bay trong gió nhẹ, bụi đất đọng lại xung quanh cô trong ánh sáng nhạt đầu ngày. Honoria chưa bao giờ thấy một người chỉ đứng yên mà lại tạo ra một cảm giác hỗn loạn đến như vậy.
“Agatha?” Honoria bước ra ngoài và cất tiếng. Hai người phụ nữ đã đủ thân thiết để bỏ qua các hình thức lễ nghi giữa người làm và tiểu thư qua một bên. Honoria đưa tay ra chạm vào vai Agatha. “Agatha, cô không sao chứ?”
Agatha đứng đó như thể cô không hề nghe thấy. Cô nhìn theo chiếc xe đã đi từ lâu mà vẫn chẳng thể tin nổi. Honoria gọi lại lần nữa nhưng Agatha vẫn không đáp lại. Honoria cảm thấy để cô ấy lại một mình sẽ không ổn chút nào, nhưng cả hai đứng chung với nhau thế này trông cũng thật kì lạ. Một người mặc quần áo tươm tất và sẵn sàng bắt đầu ngày mới. Còn một người đứng im như tượng, mặc quần áo như một người tàn tật và cần một chặng đường dài để hồi phục.
Tình trạng này không kéo dài quá lâu. Agatha định thần lại và tiến vào phòng làm việc của Archie, ngồi xuống rồi viết một bức thư cho chồng. Đó có thể là một lời cầu xin hoặc cũng có thể là một lời tuyên chiến. Không ai có thể biết được cô đã viết những gì ngoại trừ Archie - người đã đọc qua một lần rồi lập tức ném nó vào lửa.
Giờ tôi tự hỏi liệu Agatha có kế hoạch gì không. Dù sao thì cô ấy cũng là một nhà văn, cô ấy luôn cân nhắc từng dòng văn mình viết một cách cẩn thận cũng như những hành động tiếp theo của bản thân. Hình ảnh cô ấy ngồi tại bàn làm việc, chẳng có chút gì liên quan đến hình ảnh người phụ nữ đó trong tình trạng điên loạn hoặc sắp mất trí nhớ. Tôi chỉ có thể thấy lòng quyết tâm của cô ấy, thứ mà bạn chỉ có thể hiểu nếu đích thân cảm nhận. Lòng quyết tâm sinh ra từ tuyệt vọng và sau đó chuyển thành mục đích. Sau đó, khi tôi nghe tin cô ấy biến mất, tôi chẳng mấy ngạc nhiên về điều đó. Tôi hiểu cô ấy.
Vì tôi cũng đã từng biến mất một lần.
NƠI SƠ MARY AN NGHỈ
Có lẽ bạn sẽ thấy khó mà có thiện cảm với một người phá hoại hạnh phúc gia đình người khác như tôi nhưng tôi đâu có yêu cầu bạn phải có thiện cảm với tôi. Tôi chỉ mong bạn gặp tôi vào một ngày mùa đông ở Ireland, khi tôi mười chín tuổi đang ngồi trên một chiếc xe hàng chở sữa đi mượn.
Một người đàn ông Ireland buồn rầu - theo như tiêu chuẩn của tôi lúc bấy giờ thì ông khá già - giữ dây cương của hai con ngựa bờm xờm đang kéo xe. Áo khoác của tôi không đủ dày để chống lại thời tiết lạnh và ẩm ướt. Nếu Finbarr là người chở tôi đi thay vì bố anh thì tôi đã có thể âu yếm bên anh ấy để có thêm hơi ấm rồi. Nhưng Finbarr sẽ không bao giờ đưa tôi đến đúng đường mà chúng tôi đang hướng tới. Thỉnh thoảng ông Mahoney thả một tay ra khỏi dây cương và vỗ vai tôi. Đây không hẳn là một hành động thể hiện lòng tốt mà hành động đó có thể làm cho ông cảm thấy tốt hơn nhưng lại chẳng thể giúp gì cho tôi. Những chai sữa rỗng va vào nhau tạo nên những tiếng leng keng khi chúng tôi đi qua những con đường đất ghập ghềnh. Nếu những chai này đầy sữa, tôi hy vọng khi chúng tôi đến tu viện thì sữa vừa kịp đông cứng. Con đường từ Ballycotton đến Sunday’s Corner thật sự là một quãng đường dài.
“Cháu sẽ không ở đây lâu đâu,” Tôi nói pha một chút giọng địa phương Ailen của bố tôi vào ngữ điệu, như thể điều đó có thể khiến ông Mahoney yêu mến tôi hơn. “Finbarr sẽ đến gặp cháu ngay khi anh ấy hồi phục.”
“Nếu thằng bé hồi phục.” Đôi mắt dữ tợn của ông ta nhìn vào mọi nơi trừ tôi. Tôi tự hỏi điều gì tệ hơn sẽ xảy ra? Rằng đứa con trai duy nhất của ông ta sắp chết? Hay anh ta sẽ phục hồi và đòi tôi bồi thường cho sự xấu hổ tôi đã mang lại cho anh? Từ quan điểm của ông Mahoney thì kết quả tốt nhất sẽ là Finbarr khỏe lại và quên mất rằng anh ấy đã từng để mắt đến tôi. Điều duy nhất ông muốn ở hiện tại là khóa tôi lại và cất vào một nơi an toàn để ông có thể về nhà và nhìn thấy con trai mình còn sống, ít nhất một lần nữa.
“Anh ấy sẽ bình phục thôi.” Tôi nói bằng giọng quyết liệt với một niềm tin chỉ những người trẻ mới có thể có: tin vào những điều không thể xảy ra. Bên dưới chiếc áo khoác tôi đang mặc là một chiếc váy có dính vệt máu loang lổ từ cơn ho của Finbarr.
“Giọng cháu nghe giống một người Ireland đấy. Giữ được chất giọng như vậy cũng tốt. Ngày nay, tiếng Anh không còn phổ biến ở vùng này nữa.”
Tôi gật đầu nhưng chỉ thực sự hiểu lời ông ấy nói khi tự bản thân mình nghiệm lại. Nếu ông ấy la to Sinn Fein3 thì nó sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi. Tôi còn chẳng biết IRA4 viết tắt cho cái gì. Ireland của tôi chính là đại dương, là những chú chim đậu trên bờ biển, là những con cừu, những ngọn đồi xanh và Finbarr. Chẳng liên quan gì đến bất kỳ chính phủ nào, dù là chính phủ của những thứ mà tôi đã kể trên hay chính phủ của chính tôi.
3 Một đảng chính trị của Ireland
4 Individual Retirement Account – Tài khoản hưu trí cá nhân
“Cháu là một cô gái may mắn.” Ông Mahoney nói. “Cách đây không lâu, nơi duy nhất dành cho cháu là trại tế bần, nhưng những nữ tu ở đây sẽ luôn quan tâm đến các bà mẹ và trẻ sơ sinh.”
Tôi nghĩ rằng có vẻ như trại tế bần chính là nơi duy nhất dành cho tôi. Chắc chắn rằng ông Mahoney sẽ không bao giờ đưa tôi đến một nơi dành cho bọn tội phạm, vì vậy ông ấy sẽ phải để tôi ở lại với gia đình của ông. Và như vậy, tôi sẽ dùng đến những đồng xu cuối cùng cho chuyến hành trình của mình ở nhà ông. Tôi cho là tôi tự nguyện đi cùng ông ấy, nhưng nói như vậy có vẻ cũng không thích hợp khi thực tế là bạn chẳng còn nơi nào khác để đi.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến được tu viện ở Sunday’s Corner. Ông Mahoney nhảy ra khỏi xe và chìa ra bàn tay to lớn, chai sạn của ông để giúp tôi xuống. Tu viện trông rất đẹp với những viên gạch đỏ và những tháp pháo hiện ra lờ mờ và xiêu vẹo, nhìn giống như sự kết hợp giữa trường đại học và lâu đài. Tôi chẳng mong đợi về việc có thể nhìn ngắm bên trong hai nơi này. Trên bãi cỏ phía trước tu viện là bức tượng của một thiên thần có cánh, hai tay nắm chặt đặt ở hai bên chứ không phải đang chắp lại cầu nguyện. Phía trên cửa tu viện, nơi ngóc ngách của mái vòm, nơi lẽ ra phải có cửa sổ lại có một bức tượng làm bằng thạch cao - một nữ tu sĩ mặc bộ đồ màu trắng và xanh, lòng bàn tay hướng ra ngoài, như thể đang cung cấp nơi trú ẩn cho tất cả những người đến đây.
Bố mẹ tôi chưa từng theo đạo. Bố tôi thường nói, “Chủ nhật là để nghỉ ngơi” để giải thích lý do vì sao ông không đi lễ, còn mẹ tôi theo đạo Tin lành. Tôi hầu như chỉ đến nhà thờ với hai bác Rosie và Jack của tôi.
“Hẳn kia là Đức mẹ Đồng trinh,” Tôi thì thầm.
Ông Mahoney bật ra một tràng cười sảng khoái, thứ âm thanh chế nhạo rằng tôi biết quá ít về mọi thứ trên đời. Rằng tôi đến Ireland với hy vọng được sống trong ngôi nhà nền đất khiêm tốn của ông. Ông Mahoney có quầng thâm dưới đôi mắt đã mờ đi vì tuổi già nhưng tôi có thể nhìn ra được rằng đôi mắt ông đã từng giống mắt Finbarr bây giờ. Tôi nhìn ông chằm chằm, sẵn sàng chào đón ánh mắt của ông và khiến ông thay đổi quyết định.
“Các sơ sẽ chăm sóc cháu chu đáo.” Chắc ông ấy tin rằng các sơ sẽ làm vậy thật, giọng ông nhẹ nhàng, gần như tiếc nuối. Ông ấy đi xuống đoạn đường nhỏ vừa rồi nhưng lại quay lại và đi về hướng tôi trước khi tôi kịp dỡ hành lý của mình ra và nói, “Chúng tôi sẽ gửi tin của Finbarr cho cháu. Tôi hứa đấy.”
Ông lúi húi xách chiếc va li của tôi ở phía sau xe xuống, chiếc va li của mẹ mà tôi đã đánh cắp trước khi rời đi. Mẹ sẽ đưa nó cho tôi nếu tôi hỏi xin bà. Bà ấy có thể cầu xin tôi ở lại, hoặc tốt hơn hết là bỏ trốn cùng tôi. “Làm sao con lại có thể có ý nghĩ đó được?” Mẹ sẽ hỏi tôi như vậy nhưng tất cả đã quá muộn rồi. “Mẹ sẽ làm bất cứ điều gì và chiến đấu với tất cả mọi người kể cả bố của con để không phải mất thêm một đứa con gái khác nữa.”
Nếu khoảnh khắc đó tôi biết điều mình sẽ làm ở hiện tại thì tôi đã lê bước trên đôi chân của chính mình rời khỏi tu viện. Tôi sẽ đi bộ dọc theo con đường dài, băng qua những ngọn đồi, và bơi qua Biển Ireland buốt giá để trở về Anh.
Bên trong, các nữ tu đã đổi quần áo của tôi thành một chiếc áo nâu xám không có phom, không cần thay đổi cho dù bụng tôi có to lên đến đâu chăng nữa, và một đôi guốc không vừa chân. Một nữ tu trẻ có khuôn mặt ngọt ngào cầm lấy va li của tôi. Cô ấy mỉm cười ấm áp và hứa, “Chúng tôi sẽ chăm sóc chiếc va li của cô thật tốt.” Tôi không bao giờ nhìn thấy chiếc va li một lần nào nữa. Một nữ tu lớn tuổi ngồi xuống và cắt tóc cho tôi đến mức mái tóc chỉ có thể che lại tai của tôi. Tôi sẽ phải để tóc như vậy khá lâu và tôi lo lắng Finbarr sẽ nghĩ gì khi anh đến đón tôi.
Tôi đã không nghe theo lời khuyên của ông Mahoney là nên nói chuyện bằng giọng địa phương Ireland. Sau khi các nữ tu giải thích các quy tắc của ngôi nhà mới, tôi hầu như không nói gì cả và cứ như vậy trong suốt nhiều tuần.
***
Một người trẻ tuổi không thể biết được cuộc đời của mình sẽ như thế nào hay phát triển theo chiều hướng nào. Khi bạn già dặn hơn, bạn sẽ nhận ra rằng những khó khăn xuất hiện trong từng khoảnh khắc cụ thể, không lúc này thì lúc khác, nhưng những khó khăn đó cũng sẽ dần trôi qua đi. Nhưng khi bạn còn trẻ, khoảnh khắc ấy dường như là cả thế giới, là tất cả. Cảm giác như điều đó sẽ kéo dài vĩnh viễn. Nhiều năm sau, tôi sẽ tiến lên và sống một cuộc đời tuyệt vời hơn, tôi sẽ đi du lịch khắp nơi trên thế giới. Nhưng mùa đông năm đó tôi chẳng khác gì một đứa trẻ, London và Quận Cork là hai nơi duy nhất tôi biết mà cũng chỉ biết chút ít mà thôi. Tôi biết mình còn quá trẻ nhưng tôi không biết mình trẻ như thế nào, càng không biết tuổi trẻ chỉ là một khoảng khắc thoáng qua. Tôi biết chiến tranh đã kết thúc nhưng tôi vẫn chưa thể tin vào điều đó. Đại chiến thế giới thứ nhất dường như không phải là một sự kiện chỉ xảy ra ở một nơi duy nhất, nó không nằm im một chỗ và không thể di chuyển được như nước Anh và không đời nào kết thúc một cách dễ dàng như vậy được. Ở London, quán rượu yêu thích của bố tôi đã bị nổ tung thành một đống đổ nát, càng nhiều quả bom rơi xuống thì càng thêm nhiều những thùng bia lăn ra đường. Trong suốt quãng đời còn lại của mình, bố tôi luôn nói thế giới đã mất đi sự trong trắng vô tội trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Sau khi quần áo của bản thân bị tước đi và tóc thì bị cắt ngắn, nhiệm vụ đầu tiên tôi được giao tại tu viện là chăm sóc nghĩa trang của các nữ tu cùng với hai cô gái khác, cả hai đều đang bụng mang dạ chửa. Tôi ra ngoài quét, cào, làm sạch những mảng địa y trên những tấm bia đá. Tôi có thể đã cảm nhận được hương vị của tự do trong không khí lành lạnh nếu những thanh sắt không chắn tầm nhìn của tôi. Bên phải là một bức tường đá cao. Những âm thanh mỏng manh truyền qua bức tường, tôi không nhận ra đó là tiếng của những đứa trẻ, chúng được phép ra ngoài hít thở không khí trước bữa ăn tối. Qua song sắt, có thể nhìn thấy con đường dẫn ra khỏi tu viện. Không có dấu hiệu nào cho thấy ông Mahoney sẽ đổi ý và quay lại đón tôi. Trong số các cô gái, không ai nói chuyện với tôi cả. Chúng tôi không được phép nói chuyện hay thậm chí là biết tên của nhau.
Trên những tấm bia đá của các nữ tu có những cây thánh giá dày, mỗi tấm khắc dòng chữ: Nơi sơ Mary an nghỉ. Như thể chỉ có một người phụ nữ mất nhưng bằng cách nào đó, cô ấy cần đến năm mươi ngôi mộ. Tôi trải tấm vải thô của mình lên những phiến đá, chạm ngón tay vào những dòng chữ màu xám được chạm khắc, và trong khoảnh khắc đó, tôi biết rằng: Thế giới chưa bao giờ là vô tội.
***
Nhưng tôi đã từng vô tội.
Giờ hãy cùng quay trở lại mốc thời gian xa hơn một chút. Trước khi chiến tranh nổ ra. Lần này bạn sẽ nhìn tôi năm mười ba tuổi - gầy gò và nhanh nhẹn như một chú dế - lần đầu tiên bố mẹ gửi tôi tại trang trại của hai bác Rosie và Jack vào kỳ nghỉ hè.
“Nan thích chạy” Bố tôi vừa nói vừa lên kế hoạch. “Con bé không hợp với thành phố nhỉ.” Ông ấy làm thư ký tại Công ty Bảo hiểm Phòng cháy chữa cháy Porphyrion, và thường nói những lời tương tự về bản thân, như cách ông ấy hay nói về việc không hợp với thành phố chẳng hạn. Bố tôi cảm thấy đau khổ khi phải khom lưng hàng giờ đồng hồ trên bàn làm việc chỉ để kiếm được chút ít tiền. Tôi luôn nghi ngờ rằng bố thấy hối tiếc khi bản thân rời Ireland chứ không phải hối tiếc cho chúng tôi. Vợ ông là người Anh và điều đó có nghĩa gia đình ông cũng là người Anh. Hiển nhiên là ngoại trừ tôi ra.
Chị Megs và cô em gái Louisa của tôi là những cô gái nữ tính đúng nghĩa. Cả hai đều quan tâm đến quần áo, đầu tóc và nấu ăn, hoặc ít nhất họ giả vờ đó là những gì mình quan tâm. Chị cả Colleen chỉ quan tâm đến sách và trường học. Tôi cũng thích sách, nhưng tôi còn thích đá bóng với tụi con trai trong xóm nữa. Thỉnh thoảng, sau khi trời tối, bố tôi sẽ về nhà và thấy tôi đang chơi với bọn nó, đứa nào cũng dơ hầy và mồ hôi nhễ nhại ở bãi đất trống.
“Nếu là con trai, chắc nó sẽ là nhà vô địch.” Ông khoe khoang.
“Con bé đã quá tuổi để thành nhà vô địch rồi.” Mẹ tôi cằn nhằn, nhưng bố tỏ ra chút gì đó chua xót
“Ba đứa kia là của bà,” bố nói, “còn đây là cô gái Ireland của tôi.”
Cha tôi lớn lên trong một trang trại ngay bên ngoài làng chài Ballycotton. Từ hồi tôi lọt lòng, ông ấy đã quay lại thăm quê một hoặc hai lần khi mà anh trai của ông chi trả hết chi phí đi đường. Nhưng chúng tôi không bao giờ có đủ tiền để tất cả mọi người cùng nhau về đó. Chỉ cần nghĩ đến việc tôi sẽ đi về đó, chưa kể đến việc tôi sẽ dành hết một mùa hè ở đó cũng làm tôi thật hồi hộp. Tôi biết đó chỉ là một ngôi nhà khiêm tốn nhưng nó cũng rộng hơn nhiều so với căn hộ của chúng tôi ở London. Căn hộ chỉ có hai phòng ngủ, một cho bố mẹ và một cho bốn cô con gái. Bác Jack đã chăm sóc cho trang trại rất tốt. Vợ của bác, bác Roise được thừa kế một khoản tiền nhỏ khi cha qua đời, họ đã dùng số tiền đó để lát thêm sàn gỗ cứng và làm thêm giá sách trên các bức tường trong phòng khách. Họ cắt ngắn bãi cỏ gần nhà để làm sân quần vợt. (“Quần vợt ư?”, bố tôi chế giễu khi ông nói với chúng tôi về điều đó. “Thật là một ý tưởng vượt quá địa vị của ông ấy.”)
Trong tâm trí tôi, phong cảnh nơi đây hiện hữu một màu xanh sống động nhất. Núi đồi trập trùng và những bức tường đá thấp cứ kéo dài hàng dặm mà không bị gián đoạn để tôi có thể đá bóng xuyên qua những đồng cỏ bạt ngàn với người anh họ Seamus nhỏ bé của mình. Tôi đan hai tay vào nhau và khuỵu gối bên cạnh mẹ, cầu xin mẹ hãy cho tôi đi. Tôi vẫn hay làm vậy để đùa cợt một chút về sự khẩn thiết của bản thân.
Mẹ tôi cười, “Chỉ là mẹ sẽ nhớ con lắm đấy.” Mẹ nói vậy và tôi sẽ nhảy cẫng lên, vòng hai tay ôm mẹ. Mẹ tôi có khuôn mặt dễ mến, nhiều đốm tàn nhang cùng đôi mắt xanh và to. Đôi khi tôi cảm thấy hối tiếc vì đã đánh mất chất giọng East End của mình vì điều đó đồng nghĩa với việc mất đi giọng nói của bà.
“Con cũng nhớ mẹ nữa.” Tôi thừa nhận.
“Đây không phải là một kỳ nghỉ đâu nhé,” Cha tôi cảnh báo trước. “Jack trả tiền đi đường nên con sẽ phải làm rất nhiều việc nhà để đền đáp lại số tiền đó đấy.”
Hầu hết là những công việc ngoài trời và lliên quan đến ngựa và cừu. Quả là một niềm hạnh phúc đối với tôi. Tôi rất biết ơn vì bác tôi đã thuê một cô gái làm những việc này.
***
Và giờ chúng ta đến với khoảng thời gian có cậu bé người Ireland. Finbarr Mahoney là con trai của một ngư dân. Hai năm trước khi chúng tôi gặp nhau, ở bến tàu trong làng, anh ấy tình cờ nhìn thấy một người nông dân già cả và nhăn nheo sắp vứt một chú chó Border Collies con còi cọc nhất trong lứa vừa sinh xuống biển lạnh giá.
“Đây.” Finbarr nói và nâng một xô cá thu lên. “Tôi sẽ đổi với ông cái này.”
Không ai có thể biết có điều gì khẩn cấp đến mức buộc người ta phải thực hiện một giao dịch như vậy. Finbarr luôn tỏa ra một bầu không khí vui vẻ và nhẹ nhàng nhất. Như thể mọi thứ đều trở nên thật dễ dàng, thậm chí cả sự sống và cái chết. Anh ôm chú chó con lên và đưa cái xô cho người đàn ông, anh biết rằng mình sẽ phải trả lại tiền xô cá cho cha mình.
“Ông ta sắp ném con chó đi,” Cha của Finbarr mắng. “Bộ mày thực sự nghĩ là ông ta mong gặp một người nào đó có thể trả tiền để mua con chó đó hả?”
Finbarr đặt tên cho chú chó là Alby, mới đầu anh cho nó bú bình rồi sau đó là huấn luyện nó. Bác Jack cảm thấy rất hài lòng khi thuê Finbarr chăn cừu từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác bằng xe đạp vào những ngày bác ra khơi. Bác Jack nói Alby là con chó chăn gia súc tốt nhất ở Quận Cork.
“Đó là vì thằng bé có cách để giao tiếp với các sinh vật.” Bác Roise nói. “Thậm chí thằng bé có thể biến một con dê thành người chăn gia súc đỉnh nhất. Không ai có thể nói với bác là nếu chú chó đó rơi vào tay một người khác thì người ta cũng sẽ huấn luyện nó được giống như hiện tại.”
Bác tôi cũng có một chú chó giống Collie, nó chăn gia súc khá tốt nhưng không là gì so với Alby. Tôi nghĩ rằng Alby nhỏ bé, nhẹ nhàng và duyên dáng là tạo vật xinh đẹp nhất mà tôi từng thấy. Còn Finbarr với mái tóc đen mượt, gần như lấp lánh màu xanh biển trong nắng hè chính là tạo vật xinh đẹp thứ nhì. Như lời bác Rosie đã nói thì anh ấy có cách riêng để giao tiếp với các sinh vật, nếu vậy thì cuối cùng, rốt cuộc tôi là gì? Finbarr hơn tôi vài tuổi, mỗi khi đi ngang qua, anh ấy sẽ chào tôi bằng cách giả vờ ngả chiếc mũ vô hình mà anh đội. Tôi chưa bao giờ thích những người thường xuyên mỉm cười, cứ như họ luôn nghĩ rằng mọi thứ đều thật buồn cười vậy. Nhưng nụ cười của Finbarr thì lại khác, anh cười không phải vì thích thú mà cười vì hạnh phúc, như thể anh ấy thích thế giới này và tận hưởng từng khoảnh khắc được tồn tại ở trong đó vậy.
“Luôn luôn hạnh phúc có vẻ là một điều tuyệt vời nhỉ,” Tôi nói với bác Roise trong khi chúng tôi đang dọn dẹp vào buổi tối.
Ngay lập tức, bác ấy biết tôi đang nói đến ai. “Thằng bé đã luôn sống như vậy từ trước đến giờ.” Bác Rosie nói với lòng yêu mến sâu sắc. “Luôn tươi cười vui vẻ, chứng minh rằng việc giàu hay nghèo cũng không quan trọng. Có nhiều người vừa sinh ra đã luôn hạnh phúc. Bác nghĩ đó là điều may mắn nhất. Nếu con luôn thật tâm vui vẻ hạnh phúc thì con sẽ không bao giờ phải lo lắng về khó khăn thử thách mình có thể gặp phải.”
Một tối nọ, sau bữa ăn tối, Finbarr đạp xe sang nhà khi tôi và Seamus đang chơi quần vợt. Tuần đầu đến đây tôi đã học cách chơi và bây giờ thì tôi có thể giành chiến thắng trong mọi trận đấu. “Ta không hiểu hai đứa lấy đâu ra nhiều năng lượng như vậy sau khi đã làm việc vất vả suốt cả ngày.” Bác Jack nói, lắc đầu đầy ngưỡng mộ.
“Alby đâu rồi ạ?” Seamus hỏi Finbarr. Khi đó thằng bé mới mười tuổi và giống như tôi, thằng bé cũng bị con chó làm cho lóa mắt.
“Anh để nó ở nhà rồi. Anh nghĩ em đang chơi quần vợt. Nó sẽ đuổi theo những quả bóng và phá hỏng trò chơi mất.”
Brutus, con chó săn của bác tôi đang nằm dưới hiên nhà đầy mệt mỏi sau một ngày chăn gia súc nên nó chẳng thèm chơi với chúng tôi.
“Anh có thể chơi với Nan.” Seamus nói và đưa cây vợt của mình cho Finbarr. “Chơi thắng một trận giúp em được không?” Những lọn tóc xoăn đỏ của cậu bé rũ xuống vì thất bại dù nỗ lực đánh bại tôi.
Tôi tâng quả bóng lên bằng vợt, tôi biết trông mình có vẻ như đang khoe khoang nhưng chẳng thể ngăn bản thân làm điều đó. Finbarr mỉm cười như thường lệ, đôi mắt xanh chuyển sang màu xám bởi ánh nắng chiều đang nhạt dần. “Sẵn sàng chưa?” Tôi đánh bóng qua lưới trước khi anh kịp trả lời. Chúng tôi giả vờ vờn nhau một lúc, cứ chuyền bóng qua lại cho nhau. Sau đó, chúng tôi chơi nghiêm túc hơn, tôi đã thắng hai trận trước khi Alby lao qua những ngọn đồi, chạy thẳng đến chỗ Finbarr rồi sau đó đổi hướng, nhảy lên để cướp quả bóng giữa không trung.
Chúng tôi ném vợt đi và đuổi theo nó. Vẫn còn những quả bóng khác nhưng dường như đuổi theo Alby là một điều tự nhiên phải làm. Tiếng cười tràn ngập bầu trời, bác Jack và bác Rosie cũng bước ra hiên để cười đùa cùng chúng tôi. Cuối cùng, Finbarr ngừng chạy, đứng yên tại chỗ và hét lên, “Alby, dừng lại.”
Chú chó dừng lại ngay lập tức. Vậy nên rõ ràng là Finbarr vẫn luôn có khả năng làm điều đó.
“Nhả ra,” Finbarr ra lệnh và Alby nhả quả bóng xuống cỏ. Finbarr tiến lại chỗ chú chó bằng những bước chân đều đặn, sau đó anh nhặt quả bóng lên và giữ nó trên không. “Nan,” anh ấy nói, “Ước điều gì đó đi”
“Em ước mình có thể ở lại Ireland mãi mãi.”
Anh ấy ném quả bóng thành một đường vòng cung dài và Alby lao tới bắt lấy trái banh giữa không trung, chân nó cách mặt đất hàng dặm.
“Thành hiện thực.” Finbarr nói và quay sang tôi. Điều đó đủ kỳ diệu để biến ước muốn của tôi thành sự thật.
***
Vài ngày sau, anh ấy về nhà sau khi giúp đỡ bác Jack. Tôi đã hoàn thành việc dọn chuồng và đang nằm trên đồng cỏ, người thì vẫn còn nồng nặc mùi phân. Tôi nằm đọc A Room with a View còn Brutus nằm bên cạnh, dựa đầu lên bụng tôi.
“Bác em sẽ sớm cần một chú chó mới.” Finbarr nói. Alby đứng bên cạnh, hai tai vểnh lên. ” Nhìn nó mệt mỏi vào cuối ngày là em có thể biết nó đang già đi.”
“Không phải đôi khi Alby cũng thấy mệt sao?” Tôi che mắt lại cho bớt chói để nhìn rõ anh hơn.
“Không bao giờ.” Finbarr nói điều đó hết sức quả quyết với một sự tự tin kì lạ. Đó chắc là điều anh mơ ước.
“Chà, Brutus cũng sẽ không bao giờ già đi.” Vỗ nhẹ vào cái đầu nhỏ màu nâu của Brutus, tôi cũng nói với niềm mong ước. Có tiếng chim chiền chiện hót líu lo và da diết ở đâu đó gần chúng tôi. Tất nhiên ở London cũng có những chú chim nhưng tôi chưa bao giờ thật sự chú ý đến chúng. Kể từ khi đến Ireland, tôi đã biết bầu trời chính là vũ trụ riêng của những chú chim, ở ngay trên đầu chúng tôi, chúng có cuộc sống ca hát thuộc về riêng mình.
“Xem anh mang đến cho em cái gì này.” Finbarr chìa ra một cây cỏ bốn lá. Tôi không ngồi dậy mà với tay lấy nó và ngay lập tức, chiếc lá thứ tư bay vụt đi. Anh ấy vẫn giữ chiếc lá đó giữa hai ngón tay từ nãy đến giờ.
“May mắn giả tạo.” Tôi vừa cười vừa búng cọng cỏ đi, vẫn còn đọng lại cảm giác thích thú.
Finbarr ngồi phịch xuống bên cạnh tôi. Anh ấy không bao giờ bận tâm đến sự phủ nhận, cũng giống như việc anh không bao giờ để tâm đến việc tôi thắng hết trận quần vợt này đến trận quần vợt khác. Anh ấy chẳng bao giờ bận tâm đến bất cứ điều gì hết.
“Hy vọng người anh không có mùi tanh của cá.” Anh nói.
Tôi đã nghĩ về việc nói dối và trả lời không, nhưng thay vào đó, tôi đáp, “Chà, em thì có mùi của phân cừu và phân ngựa, vì vậy chúng ta rất hợp nhau đấy.”
“Anh cũng ngửi thấy mùi những mùi đó.” Anh đan các ngón tay vào nhau, vòng tay qua sau đầu và gối đầu lên tay. “Em thích đọc sách lắm hả?”
“Đúng vậy.”
“Anh sẽ đọc cuốn sách đó sau khi em đọc xong.” Anh ấy nhìn thẳng lên bầu trời thay vì nhìn vào cuốn sách của tôi. “Vậy thì chúng ta có thể cùng nhau bàn luận về cuốn sách.”
“Anh có thích đọc sách không?”
“Không. Nhưng anh có thể bắt đầu từ bây giờ.”
“Cuốn sách này chủ yếu kể về một cô gái.”
“Anh không ngại đọc sách về các cô gái.”
Tôi quay đầu sang và nhìn anh chằm chằm, anh ấy cũng nghiêng đầu về phía tôi. Lông mi anh đen dài bao quanh lấy đôi mắt màu xanh lam sâu thẳm. Chẳng bao lâu sau, bác Jack sẽ đi lên trên đồi và chắc chắn không muốn nhìn thấy chúng tôi nằm cạnh nhau, mặc dù chúng tôi nằm cách nhau hơn hai feet đi chăng nữa.
“Em nghĩ em muốn trở thành một nhà văn.” Tôi nói với anh điều tôi chưa từng nghĩ tới trước đây. Tôi thích đọc nhưng chưa bao giờ thử sức với việc viết ra những câu chuyện hay bài thơ.
“Em sẽ là một nhà văn vĩ đại.” Finbarr nói. “Dù làm gì thì em cũng sẽ trở thành một người vĩ đại.”
Anh ngậm một ngọn cỏ vào trong miệng và hướng mắt trở lại bầu trời, hai chân bắt chéo. Alby giật mạnh ống quần của anh để thể hiện rằng nó không hài lòng với việc chạy bộ suốt ngày dài hoặc đang háo hức trở về nhà để ăn bữa tối.
“Nan O’Dea.” Tiếng của bác Rosie vọng ra từ trong nhà. “Làm ơn dậy đi tắm ngay thôi nào, mau mau còn ăn tối nữa chứ.”
Tôi biết sở dĩ giọng của bác nghiêm khắc như vậy là vì tôi và Finbarr đang nằm cùng nhau chứ chẳng liên quan gì đến việc tắm rửa của tôi cả. Chúng tôi đứng bật dậy, cả hai đều tóc tai rũ rượi, làm việc ngoài trời suốt một ngày đã khiến má của chúng tôi ửng hồng.
“Con ở lại ăn tối chứ, Finbarr?” Bác Rosie gọi vọng ra lần nữa, lần này đã tha lỗi cho anh. Mọi người đều không thể giận anh lâu.
“Con rất thích thưa bác O’Dea.”
Với tất cả sức lực như của hai chú chó con, chúng tôi cùng nhau chạy đua vào nhà. Finbarr thắng. Anh nhảy lên hiên bằng cả hai chân, giơ hai tay lên trời. Chiến thắng.
***
Đôi khi tình yêu bạn dành cho một nơi cũng gấp gáp và đầy kịch tính như khi yêu một người vậy. Gần như ngay khi vừa trở lại London, tôi bắt đầu cầu xin để được quay lại Ireland. Các chị em của tôi thuộc về mẹ tôi và nước Anh, nhưng Ireland mới là nơi dành cho tôi. Ký ức của tổ tiên về những ngọn đồi xanh tươi luôn hiện hữu trong tôi, nơi đó hiện diện trong xương máu của tôi và tôi bắt đầu cảm thấy đau đớn khi phải rời xa vùng đất ấy. Bấy giờ, khi nghĩ về Finbarr, anh trong tôi cũng giống như một phần khác của phong cảnh.
“Mẹ sẽ gửi con về đó nhưng chỉ khi nào con hứa là con sẽ không bao giờ ở hẳn lại đó.” Mẹ tôi nói. “Mẹ không muốn bất kỳ đứa con gái nào của mình sống xa nhà, thậm chí cả con, Colleen.”
Những lời cuối cùng được nói với chất giọng đầy yêu thương nhưng Colleen không đáp lại. Chị ngồi ườn ra trên bàn bếp, đôi mắt xanh lục dán chặt vào những trang sách của Filson Young viết về tàu Titanic. Mái tóc vàng hoang dã của chị ấy đổ xuống bàn, che khuất khuôn mặt chị. Tất cả chúng tôi đều có mái tóc nâu và đôi mắt nâu giống bố, trừ chị.
Mẹ cười và lắc đầu. “Dù có ngôi nhà nào đó quanh đây sập thì con bé cũng sẽ chẳng nhận ra.”
Người thực tế nhất trong số chúng tôi, Louisa dùng tay đẩy đẩy vai Colleen. Colleen ngồi dậy, chớp mắt như thể vừa mới ngủ dậy. “Bây giờ chị ấy cũng đã sống xa nhà rồi mà.” Louisa vừa nói vừa gõ gõ lên các trang sách.
Ồ, dừng lại một chút để tôi giải thích nhé. Colleen đang tuổi mười bảy với tương lai rộng mở phía trước. Trong căn bếp nhỏ bé và tồi tàn, tất cả chúng tôi đang ngồi cùng nhau và hy vọng vào tương lai. Mẹ của chúng tôi vẫn giữ vững niềm tin rằng bốn cô gái của bà sẽ khiến ngôi nhà của bà thành ngôi nhà con đàn cháu đống.
Cha tôi bước vào, mang theo một ngày nặng nhọc của mình và phá vỡ cuộc trò chuyện vui vẻ như đôi khi ông vẫn làm. “Thằng bé Jones nào đó đang ở bên ngoài đợi con đấy.” Ông ấy nói với Colleen.
Chị đặt cuốn sách sang một bên và buộc cao mái tóc dày. Nhiều năm sau, tôi đã đọc một bài thơ của William Butler Yeats và nhớ như in những dòng thơ: “Em yêu của anh, chỉ có Chúa/ Mới có thể yêu em chỉ vì chính bản thân em/ Và không phải vì mái tóc vàng của em.” Tôi nghĩ ngay đến chị gái mình và cách những chàng trai yêu chị tôi ngay lập tức mà chẳng hiểu gì về chị ấy cả. Mẹ tôi làm việc tại một cửa tiệm đồ lót cho nam giới, Buttons and Bits vài ngày trong một tuần. Có một lần Colleen đi làm giúp mẹ một ca và người chủ cửa tiệm cấm chị không được làm việc ở đó nữa vì chị ấy thu hút quá nhiều chàng trai đứng dựa vào quầy và những anh chàng đó chẳng có hứng thú gì với việc mua sắm cả. Tóc của Colleen giống như tiếng còi hú hét giữa đường phố, thu hút sự chú ý của tất thảy mọi người trừ Chúa. Tôi ghét bài thơ đó.
Hàng đêm, khi chị em chúng tôi yên vị trên giường trong căn phòng ngủ chung, Colleen thường kể cho bọn tôi nghe những câu chuyện, có khi là kể lại cuốn sách mà chị ấy đang đọc, khi thì tự chế. Có những buổi sáng cả bốn người chúng tôi thức dậy với tư thế cong lưng, bụng đau quặn vì đã cười quá nhiều vào đêm hôm trước. Tôi sẽ yêu Colleen nếu chị ấy không có tóc. Megs, Louisa và cả mẹ tôi cũng nghĩ vậy.
“Cậu trai tên Jones đó có thể đứng đợi nếu thích.” Colleen nói. “Con chưa bao giờ nói rằng con sẽ đi gặp hắn cả.”
“Chắc con đã làm gì thì mới dẫn những gã đó đến đây.” Bố tôi nói trong lúc cởi bỏ áo khoác ra.
Colleen bật ra một tiếng cười ngắn nhưng đầy tức giận. Mới hôm qua, Derek Jones và hai gã khác đã bám theo Colleen và tôi trên đường đến Thư viện Whitechapel. “Mấy người đang cản đường đi của chúng tôi đấy.” Cuối cùng thì chị ấy đã nói vậy với họ một cách mạnh mẽ và sắc nhọn. Họ ngưng bám theo nhưng vẫn dõi theo chúng tôi với những ánh nhìn thèm khát. Colleen kéo chiếc mũ len dệt kim đang đội xuống để che hai tai. Khi ở thế giới thực, chị ấy thẳng thắn và không vô nghĩa như cái cách chị thích biến mất trong những cuốn sách. Chị ấy hỏi tôi, “Có phải chị thật may mắn khi có được những người ngưỡng mộ như vậy, phải không Nan?”
“Hãy thôi nói kiểu đó đi.” Mẹ nói với bố. “Con bé chẳng làm gì ngoài chuyện sống trong cùng một thế giới với mấy thằng đấy hết. Hay ông muốn tôi cạo đầu con bé luôn không? Làm ơn để con bé yên đi.”
Colleen nhặt lấy cuốn sách và biến mất vào phòng trong khi chúng tôi chuẩn bị bữa tỗi. Mẹ vỗ nhẹ vào lưng tôi vì tôi ở gần nhất. Mẹ luôn cảm thấy được xoa dịu khi chạm vào một trong những đứa con của mình. Chắc mẹ đang nghĩ đến điều mẹ luôn biết từ trước đến giờ. Đôi khi chỉ sống trong cùng một thế giới với những thằng đó chính là nguyên nhân của tất cả mọi chuyện rồi.
***
Mùa hè tiếp theo, hầu như đêm nào Finbarr cũng đến trang trại chơi quần vợt. Anh đã huấn luyện Alby nằm yên tuyệt đối dù có bất kể chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. Tôi nghĩ rằng thời gian nằm yên và chiến đấu với bản năng khi nhìn quả bóng quần vợt nảy qua nảy lại trước mặt chắc còn tiêu tốn của Alby nhiều năng lượng hơn khi chạy vòng vòng mười dặm. Nhưng thật sự là nó nằm im re như thể bị đóng băng và không bao giờ nhảy lên cho đến khi Finbarr ra lệnh cho nó.
“Chuẩn bị. Quả bóng,” Finbarr hô lên và cuối cùng chú chó có thể phóng lên không trung.
Đến mùa thu, sau khi trở về nhà ở London, tôi liệt kê những trò mà Alby có thể làm tại bàn ăn tối.
“Finbarr bảo nó đi ngang sang trái rồi lại đi ngang sang phải. Anh bắt nó đứng yên cho đến khi nghe được mệnh lệnh di chuyển.”
“Giống chó đó làm được như vậy thì cũng không có gì ấn tượng lắm.” Từ cách bố tôi nói, có vẻ như ông đang nhớ đến những con chó của ông hồi xưa.
“Chưa hết mà. Alby có thể làm tất cả các trò thông thường như là: ngồi, ngồi hai chân và che mặt. Bác Jack cũng nói nó là con chó chăn gia súc tốt nhất bác từng thấy.” Có nghĩa là Alby cũng là chú chó tốt nhất mà cha tôi từng thấy. “Và Finbarr còn dạy nó bắt bóng và giữ thăng bằng trên mũi. Anh ấy cũng dạy nó nhảy trên lưng ngựa và ngồi bằng hai chân nữa.”
“Cách em kể nghe như thể Finbarr mới là người thông minh vậy.” Megs nói. “Ý chị muốn nói rằng chú chó mới thật sự thông minh ở đây.”
“Cả hai đều thông minh.” Nhưng tôi biết Finbarr cũng có thể làm như vậy với bất kỳ con chó nào. Anh ấy có một tài năng thiên bẩm.
“Chắc mùa hè năm sau chị cũng sẽ đi.” Megs nói:
“Tạo một cuộc thi để em gái của con giành lấy cậu bé Mahoney thông minh này nào.” Cha tôi nói.
Chị em tôi luôn bí mật liếc nhìn nhau khi bố tôi nói điều gì đó vô lý. Chúng tôi sẽ không bao giờ đánh nhau chỉ vì một chàng trai.
Mẹ kết thúc cuộc trò chuyện bằng cách nói lại điều mẹ vẫn luôn nói, mẹ nói với tôi nhưng lại nhìn Colleen. “Đừng có mà kết hôn với chàng trai Ballycotton5 đó. Mẹ không muốn mỗi năm chỉ gặp cháu mình có một lần đâu.”
5 là một ngôi làng ven biển ở Quận Cork, Ireland
“Tại sao mẹ luôn nhìn con đầu tiên chứ?” Colleen phản đối. “Con là người cuối cùng rời xa mẹ, mẹ ạ.” Chị đứng dậy và thu dọn đĩa của chúng tôi, dừng lại để trao cho mẹ một nụ hôn lên má.
Đêm đó, ở trong phòng của chúng tôi, Colleen đã hỏi, “Nếu mùa hè năm sau chị đi cùng em ra khỏi thành phố thì sao nhỉ? Em có nghĩ rằng chị sẽ thích nơi đó không?”
Colleen và tôi ngủ trên giường cạnh cửa sổ, Louisa và Megs ở một giường khác cạnh tường. Tôi ngồi dậy và đáp, “Ồ, chị sẽ thích nơi đó cho xem.” Tôi lại bắt đầu lao vào những lời ca tụng thường nhật dành cho Ireland và chị ấy dùng tay vỗ nhẹ lên miệng tôi.
“Ừ, chị biết rồi. Nơi đó thật sự là chốn thiên đường. Nhưng ngay cả thiên đường cũng không phải dành cho tất cả mọi người.”
“Thiên đường có thể không dành cho tất cả mọi người nhưng Ireland thì có nhé.”
***
Mùa hè kế tiếp, tôi đã mười lăm tuổi. Trang trại của bác Jack đang phát triển mạnh mẽ, nhưng không đủ mạnh để trả tiền đi lại cho cả hai chúng tôi.
“Mẹ đang nghĩ không biết có nên để Colleen đi một lần cho biết không.” Mẹ nói khi bố nhận được lá thư của bác Jack. Mẹ đang thắt một chiếc nơ ở cổ áo để cố ra vẻ thông minh khi đến làm việc tại Buttons and Bits.
“Ồ, con sẽ không bao giờ tước Ireland ra khỏi Nan đâu.” Colleen nói nhanh, trước cả khi mặt tôi có thể tái lại vì mất mát.
“Vậy cũng tốt.” Bố nói. “Tôi muốn con bé này ở đây, nơi tôi có thể nhìn thấy con bé.” Bố vỗ nhẹ cằm chị đầy âu yếm nhưng nhìn cách Colleen cắn môi, tôi có thể nói rằng chị ấy biết ông không hề nói đùa.
Cuộc trao đổi diễn ra quá nhanh và ngay lúc này, khi kể lại chuyện đó tôi mới nhận ra rằng tôi đã nợ chị gái mình. Tôi đã quay lại Ireland một mình. Trong quãng thời gian này của cuộc đời, chắc hẳn tôi đã có sự lưỡng lự đan xen với những linh tính giống như trong mọi thời điểm của cuộc đời, thậm chí ngay cả khi còn thơ ấu. Nhưng thứ duy nhất tôi nhớ được là sự mờ mịt đẹp đẽ về mọi thứ ở tương lai. Không biết về cuộc chiến đang rình rập và cái cách nó sẽ hiển hiện trong suốt những ngày tháng sắp tới. Hiện thực không phải là những tờ báo khiến cho khuôn mặt của bác tôi nhăn lại vì lo lắng. Hiện thực là cách đại dương thổi hơi nước vào không khí mà tôi hít thở mỗi ngày. Hiện thực là những tấm khăn trải giường trắng sạch mà chúng tôi treo trên dây quần áo để phơi khô dưới ánh nắng mặt trời, để khi trải chúng lên giường, chút nước muối còn đọng lại sẽ lấp đầy giấc mơ của chúng tôi bằng những con sóng, hòn đá và những chú hải cẩu. Hiện thực là có một cậu bé tóc đen, mắt xanh đi cùng chú chó của mình băng qua những ngọn đồi xanh để gặp tôi.
“Nan,” Trời đã sáng, bác Rosie gọi khi tôi vừa bước xuống cầu thang và đang buộc tạp dề để giúp bác làm món bánh boxty truyền thống. “Finbarr Mahoney đang đợi ở phía trước. Nó muốn con đi cùng nó.”
“Con có được phép đi không ạ?”
“Chắc chắn là con có thể rồi.” Mẹ tôi ghét ý tưởng một ngày nào đó tôi sẽ chuyển đến Ireland nhường nào thì chị dâu của bà lại thích điều đó nhường ấy. “Bác Jack đang có việc vặt trong thị trấn nên hôm nay con không cần làm việc với ông ấy. Con có thể cưỡi Angela. Hãy để Finbarr dắt ngựa của Jack đi. Nhớ về sớm để còn giúp bác chuẩn bị bữa ăn tối. Và đưa Seamus đi cùng con đi.”
Ba người chúng tôi đi nửa dặm hướng về phía bờ biển. Alby chạy lon ton bên cạnh chúng tôi. Finbarr cho ngựa dừng lại và rút đồng hai xu từ trong túi ra. Anh thảy đồng xu cho Seamus. Anh ném tốt nhưng Seamus đã bắt trượt, cậu bé phải vật lộn xuống ngựa để lượm nó trên đường.
“Cậu bé ngoan,” Finbarr nói. “Tự mình đi tiếp nhé? Bọn anh sẽ gặp lại em tại đây trong vài tiếng nữa.”
Seamus ném lại đồng tiền cho Finbarr. Mới mười hai tuổi nhưng thằng bé biết rằng nó được cử đi cùng với tư cách là người đi kèm của tôi. “Em nghĩ em sẽ ở lại đây.” Em họ tôi nói và leo trở lại ngựa.
Finbarr cười, anh ra hiệu bằng giọng và con ngựa của anh phóng lên, phi nước đại về phía biển Ballywilling. Tôi hiểu là tôi cũng phải làm theo như vậy, hai chúng tôi vượt xa em họ tôi, nhưng Seamus là một người kiên định và cậu ấy đã nhìn thấu được kế hoạch này. Thực tế là thằng bé cũng được sinh ra trên yên ngựa và là một tay đua cừ khôi hơn nhiều so với Finbarr - người chưa bao giờ có một con ngựa của riêng mình, và tôi - người chỉ mới học cưỡi ngựa hai năm trước. Vì vậy, như bác Rosie đã hình dung, ba người chúng tôi cưỡi ngựa thành một nhóm, những con chim dẽ và chim choi choi vụt bay lên trời để tránh chúng tôi. Những đám mây trên cao chuyển dời sang một bên để những tia nắng xuyên qua. Tôi có thể phản bội mẹ ngay lập tức, rời khỏi London cùng với những đứa con tương lai của mình, băng qua đại dương, để sống trên những bờ biển này mãi mãi.
“Thủy triều đã rút rồi.” Finbarr nói, khi ngựa tôi tiến tới để sánh bước với ngựa của anh. “Chúng ta có thể đi dọc các hồ thủy triều từ bãi biển này sang bãi biển kế.”
Vó ngựa đạp lên những viên sỏi nhỏ và bước qua vùng nước mặn. Alby lao qua những con sóng và lướt như những chú cá heo ở những vùng nước trũng. Chúng tôi xuống ngựa và Finbarr dạy cho tôi vài tiếng huýt sáo mà anh dùng để ra lệnh cho Alby. Seamus vẫn ngồi trên yên ngựa và dõi theo chúng tôi từ một khoảng cách lịch sự.
“Đây, như thế này này.” Finbarr đang cố gắng chỉ tôi cách huýt sáo, bàn tay anh vòng quanh cằm tôi và đẩy môi tôi chúm lại.
Tôi cố phát ra tiếng huýt sáo rõ ràng khiến cho Alby chạy về phía trước, rồi lại chạy ngược về phía sau tạo thành một vòng tròn lớn. Sau đó thì tôi hết hơi, không thể huýt ra tiếng được nữa.
“Thử dùng những ngón tay của em xem,” Nói xong, anh đưa hai ngón tay trỏ vào miệng và phát ra một tiếng huýt sáo lớn đến mức khiến tôi giật bắn người. Alby chạy về phía trước và dừng lại dưới chân chúng tôi. Finbarr lấy một quả bóng cao su nhỏ trong túi và ném nó lên cao.
“Em ước đi.” Anh ấy nói.
“Em ước ngày hôm nay sẽ không bao giờ kết thúc.”
Quả bóng bay lên và chú chó cũng bay theo để chụp lấy quả bóng đó.
“Thành hiện thực rồi nhé.” Finbarr nói khi Alby vừa chụp được quả bóng.
Alby chạy lại phía chúng tôi và nhả quả bóng vào chân hai đứa. Tôi quỳ xuống ôm lấy nó. “ Cảm ơn mày nhé, Alby. Mày thật là đẹp, thật hoàn hảo.”
“Hệt như em vậy.” Finbarr quỳ xuống bên cạnh tôi và vén tóc tôi ra sau tai.
“Đừng có làm mấy cái đấy.” Seamus la lên nhưng vẫn chưa đổi giọng.
“Nan à, cảm ơn em hôm nay đã đi cùng anh.” Finbarr nói khi chúng tôi đưa ngựa về chuồng. “Lúc nào chúng ta cũng có việc phải làm nhưng anh hy vọng chúng ta có thể cùng nhau đi thêm một chuyến nữa trước khi mùa hè kết thúc.”
“Em cũng mong vậy.”
***
Tháng Tám đến và cũng là thời điểm chiến tranh nổ ra. Finbarr đã xuất hiện tại trang trại của chúng tôi. Tôi luôn nghĩ như vậy. Đó không chỉ là trang trại của bác Jack, bác Rosie và Seamus, nó còn là trang trại của tôi nữa.
Từ cửa sổ trong nhà bếp, tôi có thể thấy Finbarr đang đi bộ trên đồi, Alby thì theo sát gót anh. Chàng trai và chú chó bước những bước dài tương xứng, những bước đi ẩn chứa đầy mục đích nhưng cũng thật vô tư. Dù không ai bắt buộc, Finbarr vẫn lựa chọn gia nhập Quân Đội Anh trong sự chúc phúc của cha mẹ vì đối với một số người, đây là cách để thể hiện lòng yêu nước lúc bấy giờ. Người Anh không bao giờ, không bao giờ, sẽ không bao giờ trở thành nô lệ và hãy lên đường thực hiện nghĩa vụ với tổ quốc nào. Sau này bác Jack của tôi cũng tham gia khi chính phú bắt đầu nỗ lực vận động mọi người tham gia, nhưng lúc ấy chúng tôi chưa biết được điều đó. Hiện tại, chiến tranh là việc của những chàng trai trẻ.
“Ra ngoài đấy đi,” Bác Rosie nói khi bắt gặp tôi đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Lần này bác không cử Seamus đi cùng tôi, bác ấy biết Finbarr đến vì có lời muốn nói. Ta luôn có những biệt đãi đặc biệt cho những binh lính, dù đó là những vấn đề liên quan đến các cô gái đi nữa.
“Anh rất tiếc khi phải rời đi lúc này.” Giọng Finbarr trầm buồn nhưng sự nhẹ nhàng của anh vẫn còn nguyên vẹn. Đây không phải là sự thật. Chiến tranh chẳng để lại gì khác ngoài một mùa hè đổ nát. “Đây không phải những gì anh đã tưởng tượng.”
Dòng lệ làm mờ đôi mắt tôi. Mới đầu nó khiến tôi hơi xấu hổ nhưng Finbarr đã đưa tay ra nắm lấy tay tôi.
“Anh có sợ không?” Tôi hỏi.
“Chắc có, anh nghĩ vậy. Mặc dù anh không biết mình phải sợ hãi điều gì nữa. Anh hầu như chẳng thể tưởng tượng nổi chiến tranh sẽ như thế nào.” Xung quanh nơi chúng tôi đang đứng cảnh vật trông thật xanh tươi và tĩnh lặng. “Em biết anh có thể tưởng tượng ra điều gì không? Lúc chiến tranh kết thúc. Cuộc chiến này sẽ không kéo dài lâu đâu. Dài nhất là sáu tháng, chỉ sáu tháng thôi và tất cả sẽ kết thúc. Sau đó em sẽ chuyển đến ở tại Ireland và chúng ta sẽ có một trang trại của riêng mình. Anh sẽ huấn luyện chó, còn em thì viết sách.”
Khuôn mặt tôi nở một nụ cười gần như có thể xé toạc cơ thể tôi ra làm đôi. Anh ấy đã không đề cập đến từ kết hôn vì tôi còn quá nhỏ để làm điều đó. Nhưng mọi thứ anh ấy kể ra đều mang ý nghĩa tương tự, không phải sao? Tôi có thể kết hôn với Finbarr. Tôi có thể kết hôn ở Ireland. Tương lai của tôi đã được định sẵn, chỉ cần cuộc chiến nhanh chóng kết thúc.
“Em sẽ cầu nguyện cho anh chứ?” Finbarr hỏi.
Bố tôi đã bỏ đạo kể từ khi ông rời Ireland. Trong suốt cuộc đời mình, tôi chưa bao giờ cầu nguyện, ngay cả khi tôi đi nhà thờ với bác Rosie và bác Jack, nhưng tôi đã hứa sẽ cầu nguyện cho anh.
“Có thể cho anh một bức ảnh của em được không?” Lại một yêu cầu khác của người lính.
“Em không có bức nào ở đây cả.” Bố mẹ tôi chỉ có đúng một bức ảnh của tôi. Bức ảnh tôi chụp với ba chị em của mình cách đây rất nhiều năm rồi. ”Nhưng em hứa sẽ chụp một bức và gửi cho anh.”
Finbarr ôm tôi vào lòng và giữ như vậy một hồi lâu. Anh ấy không đu đưa, lắc lư hay di chuyển. Anh chỉ đứng đó với vòng tay siết chặt, cơ thể chúng tôi hòa vào nhau. Tôi đã ước rằng chúng tôi có thể ở mãi trong sự tĩnh lặng đó. Không cần tiến về tương lai phía trước, cũng như không bao giờ rời khỏi vị trí ấy. Finbarr đặt một nụ hôn lên cổ tôi. Tôi có thể cảm nhận được bác Rosie đang quan sát từ cửa sổ nhưng tôi không quan tâm. Ngay cả khi Finbarr bắt đầu hôn tôi một lúc lâu, chỉ đến lúc bác Rosie gõ lên cửa sổ đủ lớn để chúng tôi nghe thấy, khi ấy chúng tôi mới tách nhau ra.
“Em là cô gái của anh.” Anh vừa nói vừa ôm lấy vai tôi. “Không phải vậy sao, Nan?”
“Đúng” Tôi trả lời. “Em là cô gái của anh.”
Anh ấy rút từ trong túi ra một chiếc Claddagh6 và đeo vào ngón đeo nhẫn bên phải của tôi, vương miện hướng về phía tôi. Tôi đã được tỏ tình. Có một viên ngọc lục bảo nhỏ trên vương miện, không lớn hơn mẩu vụn từ một lát bánh mì là bao. Thật tệ khi phải thừa nhận rằng phần lớn cảm xúc tôi cảm nhận được là niềm vui sướng rạo rực khắp cơ thể. Trong mùa hè đó đã có bao nhiêu cô gái cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc khó tả khi được một chàng trai thổ lộ tình yêu và trao nhẫn trước khi ra trận? Chúng tôi không biết nó có nghĩa là gì. Không ai trong chúng tôi biết cả.
6 nhẫn truyền thống của người Ireland
BIẾN MẤT
Ngày cuối cùng trước khi biến mất
Thứ Sáu, ngày 3 tháng Mười hai năm 1926
Đôi khi cuộc sống sẽ hoàn toàn vỡ nát, trên một quy mô cực kì lớn mà bạn chẳng thể nào nhận thức được. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là đối mặt với ngày tệ hại ấy mà thôi. Sau khi Archie lái xe rời đi, Agatha cố gắng lấy lại bình tĩnh, nói một cách ngắn gọn, cô đặt tay lên phím máy đánh chữ rồi bỏ cuộc ngay lập tức. Cô chẳng thể viết được cái gì ra hồn. Cô chẳng thể làm gì ra hồn cho đến khi vấn đề giữa cô và Archie có thể được giải quyết, cho đến khi cô có thể sửa chữa mớ hỗn độn này. Cô sẽ tìm ra cách xử lí vấn đề này trong hôm nay và sau đó cô sẽ tiếp tục viết vào ngày mai.
Bất chấp những tin tức được lan truyền rộng rãi chỉ vài ngày sau đó, Agatha không bao giờ có ý định tự tử. Cô không phải loại người như vậy. Thậm chí ý tưởng đấy còn khiến cô ấy cảm thấy khó chịu là đằng khác. Cô ấy luôn cảm thấy phẫn nộ mỗi khi nghe thông tin có người nào đó tự tử. Những người đó thật lãng phí sinh mạng và hèn nhát. Chừng nào còn sống là vẫn còn hy vọng.
Hy vọng. Cô có thể đi cùng Morris Cowley yêu quý và theo Archie đến London. Cô có thể bước vào văn phòng của anh, nắm lấy ve áo của anh và buộc anh phải nhìn nhận việc giải quyết vấn đề quan trọng đến mức nào. Cô có thể khuấy động lại tình yêu anh từng dành cho cô. Anh sẽ nhớ rằng cô từng là một phần con người của anh. Cuối tuần này anh sẽ không đi chơi xa với ả tình nhân mà sẽ kết thúc mọi chuyện với cô ta, rồi sau đó, anh sẽ quay trở về nơi luôn dành cho anh, về lại căn nhà của hai vợ chồng.
Tất cả những vấn đề trên đều bao gồm cả việc cãi vã. Agatha không được nuôi dạy để gây ra những cuộc cãi vã hoặc thể hiện cảm xúc ở nơi công cộng. Cô ấy được nuôi dạy thành một con người bận rộn, vì vậy cô mặc thêm quần áo ấm, khoác chiếc áo khoác lông thú của mình và đồng hành cùng Honoria và Teddy trên đường đến trường. “Đây.” Agatha nói với Teddy, đồng thời đưa chiếc vòng và cây gậy để cô bé chơi lăn vòng. “Con có thể quay cái này trên đường đi.”
Teddy cảm thấy vô cùng biết ơn suốt chặng đường đi. Cô bé ném chiếc vòng xuống cỏ để nó lăn về phía trước. Peter đuổi theo cô bé. Peter là một chú chó đồng hành tuyệt vời, nó không bao giờ tỏ vẻ khó chịu hay có ý kiến về sợi dây xích trên cổ. Agatha lấy lại chiếc vòng và lăn nó khi họ đi dọc theo con đường đất.
“Mẹ tôi không tin vào việc cho con gái đến trường.” Agatha nói với Honoria. “Bà ấy nghĩ để trí tuệ phát triển tự nhiên là điều tốt nhất dành cho tôi.”
Honoria biết rõ điều này nhưng vẫn chăm chú lắng nghe như thể đây là lần đầu tiên cô biết được điều này. Một người đang trong cơn tuyệt vọng thường thích nghiền ngẫm quá khứ. Quá khứ của Agatha bao gồm bà bảo mẫu yêu quý và một cô giáo dạy trẻ ở một nơi nào đó. Thỉnh thoảng cô ấy cũng dành vài tháng để đi học ở các trường chính quy ở Torquay, khi đã lớn hơn thì cô đi du học và đã hoàn thành chương trình học, không học xong thì chẳng làm gì được. Honoria gật đầu, như thể cô ấy có thể lựa chọn hoàn thành hoặc không hoàn thành chương trình học.
“Nhưng hầu như tôi chỉ chơi bời ở Torquay, trên các bãi cỏ ở Ashfield.” Cô chăm chú nhìn theo Teddy, cô bé thật xinh xắn với mái tóc nâu dường như ngày càng dày và đen hơn. Đôi mắt của Agatha lại nhìn về quá khứ, cô như nhớ lại khoảnh khắc mình từng lăn một chiếc vòng tương tự trong vườn nhà, xuyên qua hàng cây nhựa ruồi, băng qua những cây họ du và lăn quanh cây dẻ gai to lớn, cô còn tự tạo ra những người bạn tưởng tượng để cùng đi với mình nữa. Liệu Teddy có đang suy nghĩ những điều tương tự không nhỉ? Con bé có tự tạo niềm vui bằng cách dựng lên những câu chuyện bất tận và sáng tạo ra những người bạn đồng hành cho riêng mình? Hay con bé chỉ quan tâm đến thế giới hữu hình, những người bạn thực sự và chẳng cần đến những người bạn tưởng tượng?
“Ôi, Honoria.” Agatha kêu lên. Chiếc vòng giúp cô bình tĩnh hơn nhưng nó khiến họ đi chậm lại. Kích thước của chiếc vòng chỉ dành cho trẻ em, vì vậy Agatha phải khom lưng để lăn. Teddy chạy đằng trước hai người, con bé vẫn trong tầm mắt họ nhưng quá xa để nghe thấy cuộc trò chuyện. Agatha từ bỏ, cô ném chiếc vòng sang một bên và định sẽ nhặt lại nó trên đường về.
“Cô phải đối mặt với chuyện đó thôi, cô Agatha ạ. Tôi biết rất khó khăn nhưng cô phải đối mặt với nó. Việc anh ta ra đi là chuyện tốt mà.”
Honoria cảm thấy mệt mỏi khi thấy Agatha vẫn tin rằng trận chiến đang diễn ra trong khi rõ ràng đã có người khác giành chiến thắng rồi.
“Chỉ đơn giản là tôi không thể tin nổi điều đó.” Agatha không bao giờ nói về những điều thân mật giữa mình và chồng nên cô sẽ không kể với Honoria về đêm hôm trước. Mà thay vào đó, cô kể nhanh một danh sách dài những vụ tương tự của những người bạn mà cô biết có chồng đi quan hệ với phụ nữ khác nhưng sau đó đã bỏ những cô gái đó và trở về nhà. Cô lại nghĩ đến việc chờ hết hạn hợp đồng với Bodley Head để có thể ổn định công việc tại William Collins. Chiến lược này rất phù hợp với sự nghiệp của cô và bây giờ nó cũng sẽ phù hợp với cuộc hôn nhân của cô. Những gì cô cần lúc này để vượt qua tất cả mọi thứ là sự kiên nhẫn và một kế hoạch.
Honoria lắng nghe, nhưng đối với cô, kế hoạch này chẳng khác nào sự tuyệt vọng. Nhìn cách Agatha đang siết chặt hai tay vào nhau, cô biết rằng chính Agatha cũng biết rằng bản thân cảm thấy tuyệt vọng nhường nào khi làm như vậy. Đôi khi sự thật trần trụi cần được nói ra rõ ràng.
“Đại tá Christie sẽ không bỏ cô gái đó đâu.” Honoria nhấn mạnh. “Tôi rất tiếc phải nói thế, nhưng dù cô có tô vẽ thêm bất cứ điều gì cho câu chuyện này thì cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Tôi có thể nhìn thấy điều đó từ vẻ mặt của anh ta. Và tại sao cô lại muốn duy trì cuộc hôn nhân với một người đàn ông thích con điếm kia hơn cô chứ? Tốt hơn là hãy đối mặt với sự thật. Anh ta đã rời khỏi cô rồi.”
“Rời khỏi tôi,” Agatha lặp lại. Má cô nhói đau vì không khí se lạnh.
Vào mùa hè năm ngoái, mẹ đã cảnh báo cô rằng cô không nên xa chồng và dành quá nhiều thời gian ở Torquay. Cô chẳng hề biết rằng hóa ra đó lại là mùa hè cuối cùng của mẹ mình. “Nếu một người phụ nữ xa chồng quá lâu, cô ấy sẽ đánh mất người chồng đó.” Mẹ cô nói. “Đặc biệt là đối với một người chồng như Archie.”
Quả thực lúc đó Archie cũng đã bị tôi làm cho mê mệt. Hẳn là ở sâu thẳm bên trong Agatha luôn biết nhưng cô ấy từ chối tin vào điều đó. Từ chối sự thật rằng cô có thể mất cả mẹ và chồng trong một khoảng thời gian ngắn như vậy. Nên lúc ấy cô đã siết chặt bàn tay mỏng manh của mẹ và bỏ qua sự run rẩy trong giọng nói của mình. Cô cam đoan, “Không có người đàn ông nào chung thủy hơn Archie. Anh ấy trung thành với lương tâm của mình. Mẹ có thể đặt cược mạng sống của mình vào sự chung thủy của anh ấy.”
Có lẽ bà ấy đã đánh cược mạng sống của bà vào lời hứa đó. Và thua.
Lúc này, cô bé Teddy luôn táo bạo và thiếu kiên nhẫn đã vượt trước Agatha và Honoria một khoảng cách đáng kể. Làng Sunningdale nằm ở Berkshire, tiếp giáp với hạt Surrey, từ nơi này có thể dễ dàng đến London bằng tàu hỏa. Những căn nhà ở đây đều có những khu vườn xinh xắn, và vì chúng nằm cách xa nhau nên luôn có sự riêng tư nhất định. Những con đường không được lát đá hay trải nhựa, nên mỗi khi có xe ngựa, xe đạp hoặc ô tô đi qua là bụi bay mù mịt. Hai người phụ nữ đều không phải những bậc phụ huynh lo lắng thái quá nên cả hai không ngăn Teddy đi lang thang phía trước. Họ chẳng cảm thấy lo lắng khi cô bé leo lên đỉnh đồi và biến mất.
Khi Honoria và Agatha nhìn thấy con bé trên con đường đi xuống đồi, họ cũng thấy bóng một người đàn ông đang quỳ trên mặt đất để nói chuyện với con bé.
“Cô có biết anh ta không?” Agatha hỏi Honoria. Theo như cô biết thì đây có thể là người mà họ thường xuyên bắt gặp, chắc gần như mỗi ngày.
“Không. Tôi không nghĩ là tôi biết anh ta.”
Cả hai người phụ nữ đều lấy tay che ánh nắng mặt trời. Những người lạ dường như luôn dành sự quan tâm đến Teddy. Có một lần trên bãi biển ở Torquay, một người phụ nữ đã nhấc bổng con bé lên và ôm vào lòng.
Agatha nhìn cách người đàn ông vuốt ve cổ của Peter bằng cả hai tay và cô cảm thấy anh ta chắc hẳn phải là người tốt. Sau đó, khi người đàn ông đứng lên, anh ta cao, cao hơn cả Archie và còn khá trẻ. Nhìn thấy hai người phụ nữ, anh ta đưa tay lên trán thay cho lời chào. Thay vì tiến về phía họ hoặc né tránh họ, anh ta bước vào hàng rào.
“Thật là kỳ lạ.” Agatha quan sát nơi anh ta từng đứng, như thể anh ta là một ảo ảnh mà cô có thể làm cho anh xuất hiện trở lại bằng cách nheo mắt nhìn về phía mặt trời.
“Teddy ơi.” Honoria gọi to. “Con đang ở đâu thế? Có nghe thấy cô đang gọi không?”
Khi họ đến chỗ con bé, người đàn ông đã biến mất, Teddy đang đứng chờ nhưng chân cô bé di chuyển liên tục. “Trời lạnh quá nên con bé không thể đứng yên được,” cô nói. Đôi tay đeo găng của Teddy cầm một vật gì đó nho nhỏ. Chắc thanh gỗ mới được chạm khắc gần đây, Agatha ngửi thấy mùi mùn cưa khi Teddy giơ nó lên cho cô xem.
“Thật đáng yêu.” Agatha nói vậy dù lông mày cô đang nhíu lại vì kinh ngạc. “Nó là một chú chó đúng không?”
“Đúng ạ.” Teddy nói. “Chú Sonny đã đưa nó cho con.”
“Là người con vừa nói chuyện lúc nãy hả? Chú Sonny ấy?”
“Vâng ạ. Chú ấy nói con cũng có thể gọi chú chó này là Sonny nếu con thích.”
“Ừ, nếu vậy thì con có thể gọi nó như thế.” Agatha nắm lấy tay con gái.
“Chú ấy nói rằng mọi con chó ở Mỹ đều được đặt tên là Sonny.”
“Điều đó nghe có vẻ kỳ lạ phải không? Chú ấy có phải người Mỹ không?”
“Con không biết ạ.”
“Chúng ta nên nhanh lên thôi,” Honoria lên tiếng, “nếu chúng ta muốn kịp giờ đến trường.”
“Tôi nghĩ tôi sẽ quay về nhà xem xem tôi có thể hoàn thành việc gì không.” Agatha nói.
“Cô hứa sẽ không đi đâu hết?” Honoria cảnh báo, có nghĩa là, cô ấy sẽ không đến chỗ Archie. “Hứa chứ?”
“Tôi hứa.”
Agatha đứng trên đường nhìn Honoria và Teddy đi tiếp cho đến khi họ khuất bóng. Với những bước nhảy chân sáo vui vẻ, Teddy giơ cao con chó gỗ đang nắm trong tay. Agatha cảm thấy bản thân bị tra tấn bởi nỗi lo lắng và hối tiếc đến cùng cực. Lẽ ra cô nên lấy con chó gỗ và cho nó vào túi để đảm bảo nó không bị mất.
Cô luôn nghĩ có lẽ Archie sẽ trở về. Có lẽ anh sẽ nhớ lại những gì họ đã trải qua đêm hôm trước cũng như trong suốt những năm vừa qua rồi sẽ tỉnh táo trở lại. Một lần nữa, anh quay trở lại thành người đàn ông đã khẩn trương thúc giục cô kết hôn. Đến giờ ăn tối, anh sẽ bước qua ngưỡng cửa, kéo chiếc va li không cần dùng đến nữa, vì anh đã quyết định quay trở về nhà.
***
Chắc bạn sẽ tự hỏi những điều tôi kể liệu có đáng tin hay không trong khi tôi cũng không có mặt ở đấy. Nhưng điều này cũng tương tự việc bạn luôn hy vọng vào việc nhận một tài khoản đáng tin cậy vậy. Hãy suy nghĩ một chút nhé. Liệu bạn có biết về sự kiện liên quan đến bạn, ngay cả khi bạn không tận mắt chứng kiến không? Thỉnh thoảng bạn vẫn kể lại những chi tiết trong sự kiện ấy sao? Thậm chí, có rất nhiều điều bạn còn chẳng được tận mắt chứng kiến, hoặc trải nghiệm bằng chính cơ thể của mình. Đây là vấn đề đơn giản của việc đan xen những gì chúng ta biết, những gì chúng ta được nghe kể lại và những gì chúng ta tưởng tượng. Không khác mấy so với cách một thám tử ghép các mảnh ghép lại để tìm ra câu trả lời đằng sau một tội ác.
Ví dụ như Thanh tra Frank Chilton, người đến giờ vẫn chưa có vai trò quan trọng trong câu chuyện này nhưng sẽ sớm trở thành một mảnh ghép quan trọng. Hai chúng tôi vẫn giữ liên lạc, lần này chúng tôi viết thư cho nhau trao đổi về những điều mà chúng tôi ghi nhớ bằng nhiều cách khác nhau và tái hiện những điều mà bản thân còn chưa biết. Tôi thuật lại tất cả những gì Archie và Agatha đã nói với tôi và những gì tôi biết về cả hai.
Một số bảng tin về ngày hôm đó khẳng định Agatha đã đến thăm mẹ của Archie trước đêm cô biến mất. Nhưng Peg là người cuối cùng mà Agatha muốn gặp. Peg luôn luôn quở mắng người khác bằng chất giọng Ireland đặc sệt của mình, bà chưa bao giờ đứng về phía Agatha, không một lần nào cả. Giống như cha tôi, Peg đến từ Quận Cork. Câu trả lời của bà cho mọi vấn đề khó khăn trên cuộc đời là lời răn dạy thô bạo: Con phải vượt qua nó. Tại sao Agatha lại phải đến thăm một người sẽ nói với cô ấy những gì cô ấy đã biết từ trước? Nhưng cô còn có sự lựa chọn nào khác ngoài việc vượt qua cái chết của mẹ và sự phản bội của chồng đâu chứ? Agatha được dạy dỗ để giải quyết ổn thỏa tất cả mọi việc, giữ bình tĩnh trong mọi khó khăn và không bao giờ làm ầm ĩ mọi chuyện.
Nhưng tối hôm đó, tiếng chuông đồng hồ không ngừng kêu vang, hết tiếng này đến tiếng khác nhưng chồng cô vẫn chưa về. Cô ấy đã phải mất bình tĩnh đến nhường nào và tâm trí cô thì hẳn đã rất rối loạn và ầm ĩ.
Nhốt mình trong phòng làm việc của Archie, Agatha cảm thấy bản thân bị xé nát thành từng mảnh bởi cuộc chiến giữa mong muốn của cô (Archie sải bước qua cánh cửa) và sự thật trần trụi (Archie ở một nơi khác, ôm lấy tôi trong vòng tay thay vì ôm cô).
Không, không, không, không.
Ai lại chưa từng nghe thấy từ đó vang vọng khắp cơ thể chứ? Âm thanh đó vang lên phản đối khi những sự kiện đang diễn ra trái với mong muốn tha thiết nhất, tuyệt vọng nhất của chúng ta. Bất kể điều gì xảy ra trong tiểu thuyết của Agatha, các nhân vật của cô dường như luôn giữ được sự bình tĩnh một cách đáng ngưỡng mộ. Thậm chí, một nhân vật trong số đó có thể bình luận rằng: “Thật là một cú đấm tồi” khi phát hiện ra một người thân yêu của mình vừa bị giết. Theo kinh nghiệm của tôi, hiếm người nào có thể đón nhận sự mất mát một cách nhẹ nhàng đến vậy, ngay cả đối với những người tự hào bản thân có cái đầu lạnh và khó bị cảm xúc chi phối. Khi bạn bị tước mất một thứ gì đó vô cùng thân thương và biết rằng nó sẽ chẳng bao giờ quay lại, bạn sẽ chẳng thể nào kìm được những tiếng than khóc, kêu gào lại cả.
Ở một nơi nào đó giữa nỗi buồn của mình, Agatha dừng lại để rà soát và đánh giá những thứ cô không thể sống thiếu. Chiếc xe của cô - chiếc xe tuyệt vời mà cô đã tự mình bỏ tiền ra mua. Chiếc máy đánh chữ, nhờ có nó cô mới mua được chiếc xe. Con và chú chó của cô. Nếu cô thật sự đánh mất Archie thì sao? Nhìn lại tất cả nỗi đau anh đã gây ra cho cô, phải chăng Nan đã loại bỏ được vấn đề lớn nhất ra khỏi cuộc đời cô rồi không?
Không. Không thể như vậy được. Thật quá sức chịu đựng mà. Archie là của cô. Là chồng của cô. Cô sẽ không bao giờ từ bỏ anh, không bao giờ.
Nhiều năm sau, cô ấy sẽ viết, “Trong cuộc đời này, người duy nhất có thể thực sự làm tổn thương bạn chính là người chồng.”
Agatha kêu gào. Cả Honoria, đầu bếp, quản gia và cô hầu gái mới Anna đều sống tại Styles cùng với gia đình Christie nhưng chưa từng ai nghe thấy tiếng gào này. Tuy nhiên, tôi biết cô ấy đã khóc. Nhưng cô ấy đã bóp nghẹt chúng đi bằng cách nào đó, có thể bằng ống tay áo hay bằng một chiếc gối trên ghế.
Đây không phải là một cú đánh tồi, mà là một sự phá hủy. Khuôn mặt xinh đẹp của Agatha trở nên sưng húp, đôi mắt xanh biển của cô nheo lại thành một đường ti hí. Peter cố gắng an ủi bằng cách phủ lên mặt cô những nụ hôn. Cô đẩy nó ra rồi lại ôm chặt nó vào ngực, nước mắt cô làm ướt bộ lông xù của nó. Những tiếng nức nở có thể kìm lại nhưng vẫn tiếp tục tàn phá cổ họng cô. Không, không, không, không. Cuộc sống của cô không phải như vậy. Cách các sự kiện diễn ra không phải như vậy.
Cô cố gắng gom góp lại quyết tâm như mẹ cô từng yêu cầu, nhưng không thể làm được, chẳng thể được nếu Archie không quay trở lại. Màn đêm cứ lì lợm ở đó và khung cảnh bên ngoài cửa sổ thì tối đen như mực. Agatha ngưng khiến bản thân suy sụp, giờ khuôn mặt cô đỏ bừng, nức nở và thương tích đầy mình.
***
Ở thời điểm này, tôi và Archie đã hoàn toàn yên tâm đi chơi cuối tuần cùng Noel và Ursula Owen tại nhà của họ ở Godalming. Sau một bữa tối vui vẻ, chúng tôi nghỉ ngơi và đến phòng khách thưởng thức rượu mạnh. Khi Archie vừa đến, anh đã kéo tôi sang một bên để thông báo anh đã đặt dấu chấm hết cho cuộc hôn nhân của mình.
“Tốt nhất chúng ta nên án binh bất động một thời gian đã.” Tôi nói. “Sau cuối tuần này, chúng ta nên cách xa nhau, để anh có cơ hội chọn lựa ra các tình tiết, hãy để mọi việc lắng xuống.” Nếu Archie không rời Agatha như đã hứa thì tôi đã bịa ra chuyến viếng thăm chị Megs để anh ấy không thắc mắc về sự vắng mặt sắp tới của tôi.
“Em không biết anh sẽ phát điên lên nếu như không có em ư?” Một nụ hôn vụng trộm và đắc thắng sau những lời anh vừa nói nhưng tôi biết rằng anh đã chấp nhận lý do của tôi. Ít nhất tôi sẽ có riêng một tuần dành cho bản thân mình.
Noel Owen là một người đàn ông có khuôn mặt hồng hào khỏe mạnh. Anh được thừa hưởng gia tài kếch xù từ một người họ hàng có quyền thế. Anh ta mang đến cảm giác của một người thích ở ngoài trời bắn chim bồ câu và giọng anh ta lúc nào cũng sang sảng, thậm chí còn có thể vang xa hơn cả súng trường. Anh ấy và Ursula thích Agatha nhưng điều này không ảnh hưởng đến việc họ sẵn sàng chấp nhận tôi là người chơi gôn thứ tư và là khách mời trong các bữa tiệc tại nhà cuối tuần.
Ursula và tôi ngồi cùng nhau trên một chiếc ghế trường kỷ màu hoa cà và trao đổi về một bài báo mà cô ấy đã đọc gần đây về một thuật ngữ mới trong tâm lý học có tên là Lucid Dreaming.
“Khái niệm này có nghĩa là một người có thể kiểm soát các sự kiện trong giấc mơ nhưng tôi nghĩ tôi sẽ thích hơn nhiều nếu có một thứ gì đó tương tự, ví như là Lucid Living. Kiểm soát những sự kiện xảy ra trong cuộc sống tốt hơn nhiều so với kiểm soát những gì xảy ra trong giấc mơ chứ.” Cô ấy nói.
Cô ấy và tôi cùng cười mặc dù điều đó đưa tôi trở về mùa hè ở Ireland và mỗi lần nhớ tới nơi đó tôi luôn có cảm tưởng như mình vừa bị đá một cú vào bụng. Những ngày ấy, dường như cả thế giới luôn nằm dưới sự kiểm soát của tôi, tôi có thể triệu hồi một cậu bé, cậu ấy có thể trèo lên đỉnh đồi để thăm tôi như thể chẳng có chuyện gì to tát cả.
Noel rót cho tôi một ly rượu mạnh khác, sau đó nắm lấy tay tôi và rống lên với Archie, “Anh không thể tặng cô ấy món đồ trang sức nào tốt hơn thế này hả, anh Christie?”
Tôi muốn giật tay mình ra nhưng thay vào đó tôi mỉm cười để anh ta kiểm tra chiếc nhẫn. Theo quan điểm của anh bạn này, chắc nó trông rẻ tiền và tầm thường giống như đồ chơi bọn trẻ con hay đeo và còn khiến làn da bên dưới chiếc nhẫn có màu xanh nhạt uể oải.
“Cái này biểu trưng cho tình cảm.” Tôi nói.
Noel vẫn không buông tay. Nụ cười khiến Ursula bây giờ trông như tượng sáp. Cô ấy quá gầy và còn đeo kính nhưng theo như tôi thấy sự chân thành trong tình yêu của chồng dành cho cô ấy giống như sự nồng nhiệt của anh để chào đón Archie vậy.
“Cô ấy sẽ sớm có cái khác tốt hơn thôi.” Archie đáp lời. Anh đứng đó, tay cầm ly rượu trông thật bảnh bao. Anh có một cái tốt hơn ở trong va li và dự định sẽ đưa nó cho tôi trước khi cuối tuần kết thúc. Anh ấy mỉm cười với tôi qua mép ly rượu. Anh không phải kiểu người lo lắng về chuyện tình cảm trong quá khứ và chưa bao giờ hỏi tôi về Claddagh. Trước mặt anh, tôi luôn đeo chiếc nhẫn có chiếc vương miện hướng về tôi.
Một lúc sau, Archie và tôi đang đứng ở hành lang trên lầu, giữa hai phòng của chúng tôi. Nếu anh có chút băn khoăn, lo lắng về tình hình của vợ mình lúc này thì vẻ mặt của anh đã không phản bội anh. Anh hôn tôi mãnh liệt và đầy mong đợi trước khi lẩn tránh và rút lui về phòng riêng của mình. Những người hầu của gia đình Owen sẽ không quầy rầy phòng anh ấy vào sáng hôm sau.
Tại hiệu sách ngày hôm trước, ngoài cuốn Winnie the Pooh, tôi đã mua một cuốn tiểu thuyết mới của tác giả người Mỹ F. Scott Fitzgerald: The Great Gatsby7. Tôi đọc một chương trong khi đợi Archie lẻn qua sảnh. Tôi đã nói rồi phải không? Vào thời điểm đó tôi không để ý quá nhiều đến tiểu thuyết của Agatha, tuy nhiên, không giống Archie, ít nhất tôi đã đọc chúng. Tôi cho rằng mình tao nhã hơn anh. E.M. Forster và John Galsworthy là những tác giả yêu thích của tôi, dù gần đây tôi cũng thích thêm một số nhà văn Mỹ như Hemingway và Gertrude Stein. Và cả Fitzgerald nữa. Khi lật giở từng trang trong cuốn tiểu thuyết, tôi đã nghĩ ông ấy thực sự đang làm rất tốt.
7 Gatsby vĩ đại
Khi Archie lẻn vào phòng tôi, anh lén lút như thể chẳng ai trong nhà biết chúng tôi định làm gì. Tôi đặt sách sang một bên để làm điều anh thích nhất, cởi bỏ quần áo của mình trong khi anh nằm trên giường quan sát, trên người vẫn mặc com lê và thậm chí còn mang cả giày nữa.
“Xõa tóc xuống đi nào.” Anh nói, giọng khàn khàn.
Tôi làm theo những gì anh bảo và tự hỏi liệu chúng tôi có tiếp tục như vậy sau khi đã kết hôn không - những mệnh lệnh, cưỡi trên người anh và những cú thúc của anh qua chiếc quần không kéo khóa. Nếu một phần nào đó trong tôi ghét hay khinh thường anh thì điều đó cũng chỉ tiếp tay cho màn trình diễn mà anh ấy yêu thích nhất. Đôi bàn tay dịu dàng của anh lướt dọc hai bên hông tôi và tôi nhắm mắt lại, bỏ lại hậu quả, bỏ lại người vợ đang đau buồn, khủng hoảng, và thậm chí bỏ lại cả động cơ của bản thân để tận hưởng niềm vui sướng khi hoàn thành nhiệm vụ trước mắt.
BIẾN MẤT
Ngày cuối cùng trước khi biến mất
Thứ Sáu, ngày 3 tháng Mười hai năm 1926
Tại ngôi nhà mới của mình ở Ascot, nơi không xa Sunningdale lắm, bà Annabelle Oliver bảy mươi bảy tuổi đang trải qua những rắc rối của một quý bà.
Chuyện này đã kéo dài trong vài ngày nay. Mẹ của bà vẫn thường gọi cái này là nhiệt từ bàng quang. Người ta không thích nói về chuyện này ngay cả khi đó là bác sĩ. Dù sao thì bác sĩ cũng là đàn ông mà, vì vậy tốt hơn hết là bà nên tự mình chăm sóc nó. Uống nhiều nước là cách để chữa bệnh, cách này luôn hiệu quả ở những lần trước. Trong căn nhà bà được thừa kế từ anh trai sau khi ông mất không hề có bóng dáng chiếc điện thoại nào. Anh bà không tin tưởng vào những chiếc điện thoại và bà cũng vậy.
Chính chiếc đồng hồ đã đánh thức bà dậy bằng những tiếng chuông xa lạ. Mười chiếc chuông vang vọng khắp ngôi nhà tạo thành thứ âm thanh quá lớn để đánh thức một người. Bà Oliver chớp chớp mắt và thức giấc. Bà cảm thấy khuôn mặt của mình hơi nóng nhưng bản năng mách bảo bà cần phải đến một nơi nào đó. Một bữa tiệc, chính nó. Bà rời giường và chuẩn bị quần áo nhưng nhanh chóng thất vọng với những bộ đồ trước mắt: cao cổ và tối màu. Tại sao vậy? Chắc mọi người sẽ nghĩ mấy thứ đồ này là đồ của một bà già mất.
Bà bước ra ngoài với hy vọng sẽ thấy một chiếc xe ngựa đang đợi nhưng thay vào đó chỉ có một chiếc xe hơi Bentley màu đen, ghế bám bụi và bị bỏ xó ngoài sân. Tốt lắm. Bà thích ngựa hơn xe ô tô nhưng dù sao bà cũng đã quen với việc tự làm mọi thứ một mình. Một phụ nữ trẻ tự đến bữa tiệc một mình không hẳn là một việc phù hợp nhưng nếu bà không xuất hiện sẽ khiến người chủ bữa tiệc cảm thấy rất lo lắng. Bà xắn tay áo, quay động cơ xe bằng tay và ngồi sau vô lăng rồi chạy vào màn đêm.
Cũng giống như căn nhà, chiếc xe từng thuộc quyền sở hữu của anh trai bà. Vào lúc này, bà Oliver không nhớ đến điều đó, bà chỉ nhớ cách lái xe, vậy nên bà lái ra khỏi nhà. Bà lái xe trên những con đường tròng trành tối tăm không một phương hướng cụ thể, chỉ có điểm đến ma quái trong tưởng tượng của chính bà.
Trời ơi, nóng chết mất. Bà nâng mu bàn tay lên che trán, cảm giác khá dễ chịu. Nhiệt tỏa xung quanh, da chạm vào da, bằng chứng cho việc bà còn sống và đang hướng đến một nơi thú vị, nơi nhiều người thân yêu đang chờ đợi bà. Bà chỉ đặt nhẹ một tay trên vô lăng và chiếc xe hơi lệch sang trái, một bánh xe trượt trên đá cuội và bụi cây bên đường. Bà nắm lấy tay lái và bẻ lái hướng sang phải, nhìn chăm chú qua kính chắn gió để quan sát đường.
Một cơn đau khủng khiếp đột nhiên ập đến, đủ nhanh và mạnh để khiến bà minh mẫn trở lại ngay lập tức. Chiếc xe tròng trành và bà đạp gấp chân phanh, đầu đập vào kính chắn gió.
Giờ lại có thêm một cơn đau mới, máu chảy thành dòng vào mắt bà. Bà đẩy cửa bước xuống xe. Lạnh kinh khủng. Đầu óc tỉnh táo. Và cô độc trên con đường quê giữa màn đêm tối tăm. Trong một khoảnh khắc, bà Oliver chợt hiểu ra: bà không phải một cô gái trẻ đang trên đường đến dự bữa tiệc, mà là một bà già đang bối rối vì đã lái xe hàng dặm từ nhà và đang đậu xe giữa đường. Chiếc xe đứng đó, trông vẫn ổn và nguyên vẹn. Chỉ cần bà có thể nổ máy lại lần nữa, bà có thể quay xe, lái về nhà và lên giường đi ngủ.
“Mình đã nghĩ cái quái gì vậy chứ?” Bà Oliver bắt chéo hai cổ tay và lấy tay ôm ngực. “Mình suýt đã tự giết bản thân rồi.”
Ôi, thật là nóng. Sương mù lại che phủ bà lần nữa. Bà cởi áo khoác len và ném lên ghế lái.
“Mình phải đến bữa tiệc ngay thôi.” Bà ấy nói. “Bà chủ bữa tiệc sẽ rất lo lắng nếu mình đến muộn.”
Bà đi vào bóng đêm, bỏ xe lại bên vệ đường. Bà không quay về nhà mà lao thẳng vào những bụi cây. Cây tầm ma cào vào cổ tay, ngay cả khi chân bà bắt đầu lún sâu trong làn nước âm u, băng giá đến mức có cảm giác như có thứ gì đó đang cắn quanh mắt cá chân bà nhưng bà vẫn tiếp tục bước đi.
“Chắc tôi sẽ nằm nghỉ một lát” Bà tự nói với mình và thả mình rơi tự do xuống mặt đất, cảm thấy không ổn lắm và còn khá lạnh nữa. Bà tự hỏi áo khoác của mình đã biến đến cái chốn quái quỉ nào rồi.
BIẾN MẤT
Ngày đầu tiên
Thứ Bảy, ngày 4 tháng Mười hai năm 1926
Mặt trời đã ló dạng vài tiếng trước khi cô hầu gái gõ cửa phòng Archie. Tôi nằm trên giường trong phòng đối diện phòng anh và đọc The Great Gatsby. Lật thêm một trang khác nữa, tôi thầm nghĩ nếu là một nhà văn thì tôi cũng sẽ viết loại sách như thế này, chứ không viết truyện trinh thám.
Dù tường rất dày, tôi vẫn có thể nghe giọng cô hầu gái hết sức rõ ràng. “Đại tá Christie, ông có một cuộc điện thoại. Người phụ nữ bên kia đầu dây nói chuyện này rất gấp.”
Những tiếng động dồn dập sau đó cho thấy Archie đã dùng lực rất mạnh để mở cửa. Sau đó, tôi nghe thấy tiếng bước chân vững vàng của anh theo cô hầu gái xuống hành lang. Tôi có thể đoán được những từ ngữ đang lướt qua tâm trí anh. Chắc chắn anh nghĩ giống như tôi, đó là cuộc gọi từ Agatha. Cô làm vậy vì không thể chịu đựng nổi nỗi đau đang giày xéo, mong ngóng anh quay về và bảo rằng đây là một cuộc gọi khẩn. Tôi rùng mình dưới tấm chắn, mừng vì mình không phải là người nghe thấy lời cầu xin và những giọt nước mắt của cô ấy.
Tôi gập sách lại và đứng dậy mặc quần áo. Ít nhất thì Agatha đã không xuất hiện trước cửa nhà Owen. Chẳng thể biết được một người đang phải chịu nỗi đau mất mát sẽ có thể làm những chuyện gì, đặc biệt khi đó là một người phụ nữ.
Điện thoại của nhà Owen đặt trong phòng khách. Khi tôi đang xuống cầu thang thì bắt gặp Archie vừa bước lên, anh mặc một chiếc áo choàng ngủ, mặt mày cau có.
“Là Agatha đúng không?” Tôi thì thầm hỏi nhỏ
“Là Honoria,” Anh thắt lại chiếc dây buộc quanh phần eo thon gọn của mình và đáp, “Cô ấy báo Agatha đã mất tích.”
“Ôi trời ạ.” Tôi nói. “Hy vọng cô ấy không sao.”
“Anh chắc chắn đó chỉ là một vở kịch mà thôi, dùng mánh này để buộc anh quay trở lại Styles. Anh cảm thấy hổ thẹn về Honoria, không tin nổi cô ấy lại phối hợp với Agatha để làm chuyện này.”
“Nhưng Archie à,” Tôi đưa tay chạm vào khuỷu tay anh. “Anh không nghĩ mình nên tìm hiểu cho ra lẽ để đảm bảo mọi thứ đều ổn ư? Anh phải nghĩ đến Teddy nữa chứ.”
Anh cau mày trước hành động sai lầm của tôi. Tôi nói như kiểu một người vợ đang khuyên nhủ chồng thay vì một cô nhân tình. Tôi bước lại gần hơn và đặt tay lên ngực anh. “Chiều cô ấy đi anh,” Tôi nói. “Cô ấy đang tổn thương mà, tổn thương rất nặng là đằng khác.”
Khuôn mặt Archie dịu đi, anh gật gật đầu. Tôi thấy nhói đau vì sự bẽ bàng này thay cho Agatha. Lòng tốt cô ấy nhận được từ chồng không nên do tôi chi phối. Anh đi lên cầu thang và tôi cùng vợ chồng Owen đi vào phòng ăn để dùng bữa sáng. Khi Archie vội vàng bước vào thì tôi đã ăn xong mứt và bánh mì nướng. Anh đã chuẩn bị xong và đang cầm trên tay một chiếc đồng hồ bỏ túi. Tôi cảm thấy sốt ruột trong khi anh ấy tự rót cho mình một tách cà phê. Điều quan trọng là anh ấy phải nhanh chóng về nhà và đảm bảo rằng mọi thứ đều ổn.
Chuông cửa vang lên. Một lúc sau, người giúp việc bước vào với vẻ bối rối. “Rất tiếc đã cắt ngang mọi người nhưng có một cảnh sát đang ở đây.”
Noel đứng dậy. “Để tôi đi xem có chuyện gì.”
Người giúp việc trả lời, “Anh ta yêu cầu được gặp Đại tá Christie.”
“Vậy thì,” Noel nói bằng giọng tự tin của một người bề trên so với vị cảnh sát, chứ không phải ngược lại. “Tôi cho rằng tốt nhất cô nên mời anh ta vào đây.”
“Tôi cũng đang định ra ngoài.” Archie nói. “ Tôi sẽ ra xem anh ta muốn gì trước khi rời đi.”
Anh gật đầu với tôi và tôi xem đây là yêu cầu tôi ở yên tại chỗ. Những người đàn ông đi ra sảnh và khi thấy Ursula cũng đi theo, tôi quyết định mình cũng nên làm vậy. Khi tôi ra đến tiền sảnh thì mặt Archie đã khá nhợt nhạt.
Noel đang mắng viên cảnh sát. “Điều này thật phi lý, Thomas. Cậu chắc chắn có thể tin tưởng người đàn ông này và để anh ta tự mình làm việc đó.”
“Một người phụ nữ đã mất tích.” Viên cảnh sát nói. Anh ta khá trẻ, cằm lấm tấm mụn. Giọng nói run run cho thấy nỗ lực làm trái lại lời Noel Owen để thể hiện rõ quan điểm của anh ta. “Tôi đã nhận được lệnh phải đưa Đại tá Christie trở lại Sunningdale.”
“Tôi chắc chắn rằng tất cả chỉ là sự nhầm lẫn mà thôi.” Sau khi tự bình tĩnh lại, mặt Archie đã có huyết sắc hơn. “Tôi rất sẵn lòng về nhà và dọn dẹp mọi thứ, và rõ ràng là tôi cần làm vậy. Nhưng nếu tôi có thể tự lái xe ô tô của mình thì sẽ không cần phiền người khác đi đi về về cùng với mình…”
“Xin ngài thứ lỗi.” Trông người sĩ quan có vẻ đau khổ khi nói điều này. Anh ta không trông mong có thể đi chung xe với Archie. “Tôi phải làm theo mệnh lệnh được giao.”
“Em sẽ lái xe của anh về Styles.” Tôi nói.
Tất cả mọi người đều quay sang nhìn tôi, viên cảnh sát nhướn mày. Tôi có thể nhìn thấy mắt anh ta đảo quanh đại sảnh tìm kiếm một người chồng đi cùng tôi. Một người đàn ông chưa thuộc về người nào khác.
***
Archie đã dạy tôi lái xe trên những con đường quê ở Berkshire và Surrey nhưng đây là lần đầu tiên tôi tự lái một mình. Việc lái xe một mình quá mới lạ khiến những suy nghĩ khác ra biến mất khỏi đầu tôi, tôi không đặc biệt lo lắng cho Agatha, tại thời điểm này là vậy. Tôi thông cảm với ý muốn bỏ chạy của cô ấy và tôi cũng tin rằng bằng cách này hay cách khác, thế giới sẽ bảo vệ những người như cô ấy. Tôi lái xe chầm chậm và nhìn thấy viên cảnh sát trẻ ở Godalming đang trên đường đi về nhà. Chắc anh ta cảm thấy rất nhẹ nhõm sau khi đuổi được Archie ra khỏi ghế lái phụ của mình.
Khi tôi đến Styles, xe của cảnh sát địa phương đã đậu trước cửa nhà từ bao giờ nên tôi lái xe vòng ra phía sau và đi vào nhà bằng lối đi của người giúp việc. Vào những ngày này, những căn nhà ở vùng ngoại ô London hiếm khi khóa cửa, vì chiến tranh đã kết thúc nên chẳng còn gì phải lo sợ nữa. Tôi rón rén bước vào nhà và nhìn thấy người hầu gái mới tên Anna ở sảnh trước, cô ấy đang áp tai sát vào cửa phòng khách. Archie chắc hẳn đang ở trong đó với cảnh sát. Cuốn sách tôi mua cho Teddy nằm trên một chiếc bàn nhỏ cạnh cầu thang và vẫn còn được bọc trong giấy gói. Tôi nhặt lên và kẹp nó dưới cánh tay của mình.
Anna quay lại và nhìn về phía tôi. Cô ấy có thân hình đầy đặn, xinh xắn, mặt có tàn nhang và dễ đỏ lên ngượng ngùng. Archie kể rằng cô ấy từng tán tỉnh anh và tôi không thể chịu nổi những cô gái như vậy - những kẻ nhằm vào những ông chồng hoặc bất kỳ người đàn ông nào chỉ để cải thiện hoàn cảnh của bản thân. Tôi nhìn cô ấy một cách nghiêm khắc khi cô ấy lùi xa khỏi cửa và mặt đỏ bừng lên vì bị bắt quả tang khi đang nghe trộm.
“Ồ, chào cô O’Dea ạ.” Cô ấy nói. Vào thời điểm đó có nhiều người thường xuyên lui tới Styles và tôi là một trong số những người đó. “Tôi không biết cô sẽ đến. Tôi có thể giúp gì cho cô không? “
“Không cần đâu, cảm ơn cô.” Tôi trả lời. “Tôi có đem đến một món quà cho Teddy, con bé có ở đây không?”
“Tôi nghĩ Teddy đang ở trong phòng dành cho trẻ em trên lầu. Cô có muốn tôi đưa món quà cho con bé không?”
“Tôi có thể tự mình đưa không? Trông cô có vẻ bận rộn.” Tôi nói với ngụ ý hứa rằng tôi sẽ không hé nửa lời về việc cô ấy nghe trộm miễn là cô ấy không chắn giữa tôi và căn phòng đó.
“Vâng, mời cô cứ tự nhiên.” Anna ra hiệu về phía cầu thang.
Tôi nhanh chóng lướt một vòng, ngang qua phòng của Archie và Agatha và quan sát thấy chiếc váy của cô ấy vẫn còn nằm trên sàn. Sau đó tôi lên phòng dành cho trẻ em, cửa phòng mở he hé, Teddy đang ngồi chơi với những người lính đồ chơi và một chú chó nhỏ bằng gỗ. Vừa nhìn thấy tôi, con bé bật dậy, chạy ra cửa và vòng tay quanh eo tôi.
“Cô O’Dea!” Con bé la lên, một kiểu chào vui vẻ chỉ những đứa trẻ mới có thể làm được.
Tôi vòng tay ôm lại con bé, vui vì con bé đang ở một mình mà không có Honoria lảng vảng xung quanh. Teddy có vóc dáng nhỏ bé hơn so với những đứa trẻ đồng trang lứa và khung xương mảnh dẻ. Con bé ngước khuôn mặt nhỏ nhắn của mình lên nhìn tôi, hai má nhợt nhạt và dưới mắt cũng có những vết thâm như thể con bé đã ngủ không ngon giấc.
“Nhìn con này, bạn nhỏ xinh đẹp.” Tôi nắm lấy cằm của con bé bằng ngón cái và ngón trỏ, như cái cách Agatha đã làm với tôi ngày hôm trước. “Mọi thứ đều ổn chứ hả?”
“Mọi thứ đều ổn ạ.” Teddy thở dài một cách ngập ngừng như kiểu một đứa trẻ biết có điều sai trái đang xảy ra nhưng lại không muốn trả lời như vậy.
“Cô có mang cho con một món quà này.”
Cô bé lùi lại để để có thêm sức gỡ sợi dây ra. Sau khi đã mở được bọc bên ngòai, con bé ném tờ giấy nâu xuống sàn. Hồi bằng tuổi Teddy, tôi sẽ tìm một nơi thích hợp để vứt những tờ giấy gói nhưng đây là cách mà Teddy vẫn sống. Không phải quý tộc nhưng cũng đủ sang trọng để con bé chỉ cần vứt quần áo và rác rưởi sang một bên là có người khác dọn đi. Một khi tôi trở thành mẹ kế của con bé, tôi sẽ khuyến khích nó trở thành kiểu người tự gấp quần áo và cất chúng đi, một người chú ý đến nơi sẽ vứt giấy gói đồ. Nhưng bây giờ tôi không có tư cách để khiển trách con bé.
“Ồ,” Teddy mỉm cười trước bìa sách màu hồng tươi vui. “Thật là một con gấu nhỏ vui nhộn.”
Tôi ngồi xuống tấm thảm dệt hình tròn và tựa lưng vào tường, Teddy ngồi vào lòng tôi. Tóc con bé cạ vào cằm tôi, tôi đọc cho con bé nghe trong khi đang tựa má trên đỉnh đầu nó. Cuốn sách rất đáng yêu và cảm động một cách khó tả. Chuyện về Christopher Robin lang thang đi tìm Khu rừng Trăm Mẫu.
“Nhưng con đừng bao giờ đi lang thang như vậy nhé.” Tôi nói với Teddy. “Bố mẹ của con sẽ nhớ con lắm đấy.”
“Con sẽ không như vậy đâu ạ.” Miệng con bé ngáp dài khi nó nói, “Cảm ơn cô vì đã tặng con cuốn sách này, cô O’Dea. Con rất thích nó.”
Teddy tự đọc một trang cho tôi nghe, sau đó tôi tiếp tục đọc to ngay cả khi tôi có thể cảm nhận được hơi thở của Teddy đang chậm lại và cái đầu nhỏ của con bé nghiêng về phía trước. Tôi hy vọng giọng đọc đều đều của tôi và câu chuyện ngọt ngào này có thể giúp con bé tiếp tục say giấc. Con bé rất cần một giấc ngủ vào lúc này. Và chẳng bao lâu sau, tôi thấy mí mắt mình dần nặng trịch, đầu tôi tựa lên đỉnh đầu con bé và tôi cũng chìm sâu vào giấc ngủ.
***
“Sao cô dám.”
Honoria nói trong tiếng rít giận dữ, dùng để đánh thức tôi trong khi vẫn để cho con bé ngủ. Peter chạy lon ton vào phòng, vẫy đuôi và lần đầu tiên tôi cảm thấy đáng báo động. Agatha dắt con chó đi khắp mọi nơi.
Teddy cựa mình trong giấc ngủ, Honoria bế con bé lên và đặt vào cũi. Sau đó cô ấy ra hiệu bằng đầu đầy tức giận. Tôi hôn lên trán Teddy rồi đi theo Honoria ra hành lang.
Đúng lúc đó Archie chạy lên cầu thang. “Lạy chúa,” Anh ấy nói với tôi. “Không được rồi, Nan. Chúng ta không thể để tên em dính dáng đến những chuyện này.“ Anh đã nói điều này rất nhiều lần khi đề cập đến vụ ly hôn. Giờ đây khi cảnh sát đã xuất hiện, chuyện tách tôi ra khỏi mọi thứ dường như trở nên quan trọng gấp đôi. Tôi hỏi:
“Dính dáng tới cái gì cơ?” Tôi hỏi. “Agatha đang ở đâu? Cô ấy ổn chứ?”
“Tất nhiên là cô ấy không ổn rồi.” Honoria nói. “Tất cả là do cô đấy, Nan O’Dea. Đừng có vờ như không phải lỗi mình nữa.
“Đủ rồi đấy, Honoria.“ Archie nói.
Không chịu lùi bước, Honoria khoanh tay thách thức. Archie nắm khuỷu tay tôi và dẫn tôi xuống cầu thang đến phòng làm việc, anh đóng cánh cửa lại. Căn phòng lạnh lẽo vì ai đó đã tắt lửa trong lò sưởi.
“Agatha lái xe đi lúc tối muộn hôm qua và không ai nhìn thấy cô ấy kể từ đó.” Anh ấy kể phần còn lại mà không nhìn vào mặt tôi. Chiếc Morris Cowley của cô ấy được phát hiện vào rạng sáng nay, ở rìa một hố khai thác đá phấn nằm bên dưới Newlands Corner. Chiếc xe chẳng thể lái được nữa, đèn xe sáng cho đến khi cạn bình ắc qui. Nắp ca-pô của chiếc xe nằm yên trên bụi cây. Ở hàng ghế sau có một chiếc áo khoác lông thú, một chiếc va li được đóng gói kĩ lưỡng và giấy phép lái xe. Toàn những manh mối đáng thất vọng. Thật đáng lo ngại khi nghĩ tới cảnh cô ấy có thể đã lang thang trong đêm lạnh giá mà không mặc áo khoác.
“Honoria nói rằng máy đánh chữ của Agatha đã biến mất.” Archie đặt tay lên bàn làm việc. Đôi khi Agatha vẫn ngồi đây viết vào ban ngày, khi anh đang đi làm. Đôi tay của anh trông như thể đang cố gắng giúp chủ nhân của nó thấu hiểu khoảnh khắc cuối cùng cô viết lách, cứ như thể trên tất cả mọi thứ, những tác phẩm của cô sẽ cho anh được chút manh mối về nơi cô ấy đang ở.
Bất chấp cái lạnh, vẫn có một lớp mồ hôi mỏng đọng lại trên trán Archie, anh rút khăn tay ra lau. Khi bỏ chiếc khăn vào túi trở lại, anh rút ra một lá thư được gấp cẩn thận. Sau khi nhìn chăm chú nó một lúc, anh xé nó thành từng mảnh rồi ném vào lửa.
“Đó là cái gì vậy?” Tôi hỏi. “Của Agatha à?”
“Đây là một trò biểu diễn phô trương đáng nguyền rủa,” Archie đáp. “Để trừng phạt anh, trừng phạt em và để tên em xuất hiện trên giấy ly hôn.”
“Nghe có vẻ không giống cô ấy.”
“Vấn đề là vậy, đúng chứ? Cô ấy không còn là chính mình nữa. Toàn bộ sự việc đẫm máu này đã khiến cô ấy không còn là chính mình nữa.”
Chính tôi. Tôi chính là tất cả sự việc đẫm máu ấy đây. Tôi chẳng biết phải nói gì. Chắc chắn đây không phải lúc nở những nụ cười mà anh luôn khao khát. Archie vỗ hai tay như kiểu anh có một nhiệm vụ phải hoàn thành nhưng trước tiên cần phải giải quyết một số chuyện khác trước đã. Trong một góc phòng trên sàn nhà, tôi thấy một tia sáng lóe lên từ một vật làm bằng vàng, đó chính là chiếc nhẫn cưới của Agatha. Tôi chỉ vào nó, Archie cúi xuống nhặt và nhét vào trong túi áo vest, mặt anh đỏ bừng lên.
“Điều quan trọng là em phải rời khỏi đây càng sớm càng tốt.” Anh nói.
Tôi đứng đó nhưng lại chẳng biết phải làm gì. Theo một cách nào đó, thật tốt khi có thêm một lý do hoàn hảo để không liên lạc trong vài ngày tới. Nhưng đồng thời nó cũng làm tôi chưng hửng, chuyện này nghe cứ như cuộc đào tẩu nhất thời của Archie. Chuyện này không ổn, không ổn chút nào.
“Nan này, em có đang nghe anh nói không đấy? Em không được phép ở đây. Mọi chuyện có vẻ không ổn lắm.” Anh chìa tay ra và kéo tôi vào lòng. Tựa đầu vào ngực anh, tôi có thể nghe thấy trái tim anh đang đập liên hồi, nhanh một cách kỳ lạ. Vào thời điểm đấy, đối với một người phụ nữ, danh tiếng bị tổn hại có thể gây ra mọi nỗi kinh hoàng. Nhưng tôi biết nhịp tim anh thất thường không phải vì quan tâm lo lắng cho tôi.
“Agatha,” Anh ấy thì thầm khi đang ôm chặt tôi, “Em đang ở đâu?”
***
Cái lạnh buốt rát trên mặt tôi trong suốt mười phút đi bộ đến nhà ga Sunningdale. Không giống Agatha, tôi không có áo khoác lông thú. Tôi tự hỏi bây giờ cô ấy xoay xở như thế nào sau khi bỏ lại món đồ ấm áp nhất của mình trên xe hơi. Nếu tôi lang thang ở Newlands Corner và lấy chiếc áo khoác đó mặc thì chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ? Ý nghĩ đó khiến tôi bật cười nhưng đồng thời cũng khiến tôi cau mày, tôi kéo sát chiếc áo khoác len vào người.
Nếu may mắn, Agatha sẽ xuất hiện vào cuối ngày. Còn vào lúc này, cảnh sát đang lục soát khắp nơi xung quanh Sunningdale, nhưng chắc chắn người ta sẽ không tìm thấy cô ấy. Cô ấy sẽ tự mình trở về hoàn toàn khỏe mạnh và bình an. Tôi không cần phải lo lắng chuyện đó. Các khớp ngón tay bắt đầu cảm thấy bỏng rát vì lạnh. Tôi thổi hơi vào lòng bàn tay. Tay tôi toàn mùi xà bông của Teddy và tôi tự hỏi họ sẽ nói với con bé rằng Agatha đang ở đâu nhỉ? Nếu có chuyện gì xảy đến với Agatha, bất cứ điều gì kéo dài vĩnh viễn thì tôi sẽ trở thành người mẹ toàn thời gian của cô bé. Đấy là nếu Archie sẽ không quá đau buồn và tiếp tục thực hiện kế hoạch của chúng tôi cũng như không đổ lỗi chuyện đã xảy ra với vợ anh ấy (dù là chuyện gì đi nữa) lên đầu tôi. Rất nhiều đàn ông có xu hướng đổ lỗi cho phụ nữ.
Nhưng nếu anh ấy không phải kiểu người đàn ông thích đổ lỗi thì tôi có thể tiếp quản mọi việc. Tôi có thể trở thành người dắt Teddy đến trường vào mỗi buổi sáng và lẻn vào phòng làm việc của Archie khi anh đang làm việc để viết vội những câu chuyện. Ngay cả Honoria cũng sẽ phải thay đổi giọng điệu của mình nếu cô ấy muốn ở lại Styles.
Tôi vội gạt bỏ những suy nghĩ này. Tôi không muốn bất kỳ chuyện xấu gì xảy đến với Agatha. Tôi muốn người ta tìm thấy cô ấy vẫn còn nguyên vẹn và khỏe mạnh. Nhưng tôi lại không thể giúp gì được và tôi cần phải quay lại giải quyết chuyện tình của mình. Tôi cần tập trung vào tuần tới trước đã, dành chút không gian riêng cho gia đình Christie trước khi quay trở lại để gia nhập vào đó mãi mãi.
BIẾN MẤT
Ngày đầu tiên
Thứ Bảy, ngày 4 tháng Mười hai năm 1926
Dù bao nhiêu năm trôi qua và bạn ngồi đọc những trang này ở bất kỳ nơi nào đi nữa thì bạn vẫn biết rằng Agatha Christie không hẳn là mất tích và cũng biết rằng cô ấy không chết vào tháng Mười hai năm 1926. Cô ấy sống rất thọ và viết thêm nhiều truyện và tiểu thuyết nữa. Ít nhất một cuốn sách mỗi năm, nhà xuất bản của cô thường nói - “Christie dành cho đêm Giáng sinh” để cho thấy hy vọng của họ vào lợi nhuận của tháng Mười hai. Agatha đã bỏ lại Archie và cuộc hôn nhân tan vỡ của cô để trở thành tác giả sách bán chạy nhất mọi thời đại. Không chỉ vậy, cô còn tìm thấy một tình yêu phù hợp với mình hơn như cách một người phụ nữ biết tận hưởng cuộc sống hơn sau khi học được một bài học đắt giá. Sau khi được quá khứ làm cho sáng mắt, cô đã có thể nhìn thấy điều gì là tốt nhất cho tương lai của mình.
Không ai có thể biết trước điều đó khi cảnh sát đem xe của cô trở lại. Xăng trong bình vẫn còn rất nhiều, động cơ dường như cũng hoạt động tốt, không có bất cứ dấu hiệu bất thường nào cả, không có lời giải thích rõ ràng. Cách đó một chút, có lẽ khoảng sáu viên cảnh sát khác đang đứng ở rìa hồ Silent Pool. Trong những năm qua, nhiều xác chết đã được vớt lên từ những hồ nước này.
Một cảnh sát nói, “Nếu sáng mai cô ấy không xuất hiện, chúng ta buộc phải vét hồ thôi.”
Tại Styles, cảnh sát đưa cho Archie một bản tóm tắt ngắn gọn về những gì họ đã tìm được và kế hoạch tiếp theo của họ. Archie tưởng tượng ra những tấm lưới được thả vào Silent Pool, hình dung cảnh họ quay trở lại bờ, thi thể vợ anh quấn trong những sợi chỉ của tấm lưới. Anh che mặt với vẻ thật sự kinh hoàng suốt một lúc lâu, đến nỗi cảnh sát ngừng nghi ngờ anh đã thực hiện một tội ác nào đó với vợ.
Trong phòng trẻ em, Teddy cầu nguyện trước khi đi ngủ như thường lệ, Agatha vẫn thường vắng mặt nên cũng không ảnh hưởng nhiều đến con bé. Archie đã bớt kích động đi nhiều. Bên ngoài, màn đêm đã buông xuống nhưng cảnh sát cùng với các tình nguyện viên từ thị trấn vẫn tỏa ra lùng sục khắp mọi ngóc ngách của vùng quê. Các vùng nước cứ chảy lững lờ như thể đang báo một điềm xấu. Tới lúc này, mọi người ở Berkshire và Surrey đều đang suy diễn về một giả thuyết để lí giải liệu Agatha đã đi đâu và chuyện gì đã xảy ra nhưng chẳng cái nào trong số đó gần với sự thật cả.
***
Trong căn hộ của tôi không có điện thoại nhưng ngay dưới nhà, phía góc đường có một bốt điện thoại. Tối đến, tôi bước ra đó nhấn nút A, bỏ tiền xu vào và đợi Archie trả lời.
“Anh có khỏe không?” Tôi hỏi với một giọng thật khẽ như sợ người qua đường nghe thấy. “Có thêm manh mối nào không?”
“Không.” Nếu không biết trước đó là anh, tôi không chắc mình có thể nhận ra đó là giọng của anh. Giọng nói ấy run rẩy và có gì đó không chắc chắn, dường như khác hoàn toàn với anh mọi ngày. “Cảnh sát đã vào cuộc, Nan ạ. Họ đang điều tra sâu hơn.”
“Chà, chuyện đó tốt mà, đúng không anh? Họ rất nghiêm túc tìm kiếm cô ấy.”
“Nghiêm túc đến mức kinh khủng. Họ muốn tìm cô ấy càng nhanh càng tốt. Chắc cô ấy sẽ mất mặt lắm khi biết được những chuyện ồn ào đã xảy ra.”
Tôi gật đầu, tưởng tượng ra cảnh phẩm giá của cô ấy bị rạn nứt. Quả thực là đáng báo động khi cô ấy không quay lại ngay lập tức để ngăn chặn chuyện ấy xảy ra. Giọng nói của Archie cho thấy anh đang rất kinh hãi, nếu cảnh sát bác bỏ toàn bộ sự việc và cho là nó vô nghĩa thì chắc chắn anh ấy đã thấy thoải mái hơn nhiều.
“Anh tìm kiếm trong đống giấy của cô ấy,” anh ấy nói. “Anh nghĩ là cô ấy có viết một câu chuyện về em.”
“Thật ư?”
“Ừ, anh khá chắc đó là em. Một người phụ nữ ngoại tình. Cuối cùng nhân vật chính đã đẩy cô ta xuống vách đá.”
Tôi hít sâu một cái rồi nở một nụ cười, có lẽ Agatha đã thực sự phát điên rồi. Mặc dù chắc sẽ có người đồng tình rằng việc cô ấy muốn giết tôi là hoàn toàn hợp lý.
“Có lẽ em nên thận trọng thì hơn.” Tôi nhẹ giọng, nhưng Archie đã chuyển sang một trạng thái lo lắng khác.
“Ôi Nan ơi. Tại sao anh lại đối xử nhẫn tâm với cô ấy như vậy? Em đã nói đúng, lẽ ra anh nên đợi.”
“Không đâu,” Tôi nói. “Sẽ chẳng bao giờ có thời điểm thích hợp cả.” Nghe anh quẫn trí như vậy cũng làm tôi rối trí theo, giọng anh nghẹn lại, có vẻ như anh thực sự đau buồn. “Cô ấy sẽ xuất hiện mà, chỉ là giờ cô ấy đang buồn thôi. Khi nhận ra mọi chuyện bắt đầu trở nên lộn xộn, chắc chắn cô ấy sẽ lao ngay về nhà thôi.”
Nhưng dường như Archie không muốn nghe những lời động viên. Tôi nghe thấy ai đó bước vào phòng và anh ấy nói với tôi rằng anh cần cúp điện thoại. Tôi nhanh chóng hỏi anh đã nói với Teddy những gì về chuyện của Agatha.
“Anh nói cô ấy về Ashfield để trông coi đồ đạc của mẹ.”
“Có khi cô ấy thực sự về đó cũng nên?”
“Cảnh sát ở Torquay đã điều tra, cô ấy không ở đấy. Không thấy cô ấy ở bất cứ đâu cả.”
Tôi không biết phải nói gì tiếp.
“Nghe này,” Anh nói tiếp bằng một giọng cứng nhắc. “Tốt hơn hết chúng ta ngừng nói chuyện cho đến khi sự việc được giải quyết. Chúng ta đều không muốn tên của em xuất hiện trong tất cả những chuyện này.”
“Đúng vậy,” Tôi tán thành. “Chúng ta không muốn điều đó.”
Anh tắt máy mà không nói lời tạm biệt.
Tôi đặt tai nghe trở lại chỗ cũ và mở cửa bốt điện thoại bước ra đường. Trời đã về đêm, tôi vừa bỏ lỡ với những mảng màu cuối cùng của hoàng hôn. Tôi thở hắt ra, hơi thở hiện rõ giữa cái lạnh thấu xương. Đi được nửa đường về nhà tôi mới nhận ra mình đang quan sát từng khuôn mặt của những người phụ nữ đi trên đường, xem đó có phải là Agatha không.
Cô ấy sẽ ổn thôi, tôi chắc chắn như vậy. Cô ấy thực tế hơn tôi rất nhiều và cô ấy cũng không phải một cô gái trẻ tuyệt vọng vì chẳng có chút tiền nào hay không có nơi để về. Cả thế giới luôn dang rộng vòng tay và giăng hẳn một chiếc lưới để đỡ nếu cô ngã. Cô ấy có thể quẫn trí nhưng tôi biết cô sẽ không bao giờ có ý định tự tử. Cô ấy cũng sẽ không bao giờ tự làm khổ bản thân như tôi đang làm: đi dạo một vòng thay vì về thẳng nhà, từng cơn rùng mình, tay không đeo găng và răng tôi bắt đầu va lập cập vào nhau.
Khi một người không đứng trước mặt bạn hay bạn không biết cô ấy ở đâu, bạn thường sẽ tưởng tượng ra tất cả mọi thể loại chuyện kinh hoàng đang ập đến cô ấy. Đến giờ, số lượng người hình dung ra Agatha đang vật lộn trong rừng rậm ngày càng tăng. Họ tưởng tượng cô chạy vào rừng và ngã vào một hồ nước lạnh cóng.
Tôi lắc đầu. Cô ấy đã dùng tay nắm lấy cằm tôi. Cô ấy uốn nắn tôi. Cô không yêu anh ấy. Như lời thanh tra Poirot của cô vẫn thường hay nói, “Ta phải tôn trọng tâm lý.”
Agatha là một người phụ nữ Anh lý trí, thực tế và biết kiềm chế cảm xúc. Nhìn cách những cuốn tiểu thuyết của cô ấy phân loại từng nhân vật là biết: Phụ nữ thì làm điều này, người Mỹ thì làm điều kia, người Ý sẽ giống như vậy. Có lẽ cô ấy cảm thấy thoải mái với những định nghĩa riêng của bản thân. Một quý cô người Anh cao quý, kiên định trước bất cứ khó khăn nào.
Giờ đây, nhờ tôi mà cô ấy đã từ bỏ bản năng tự nhiên của mình. Nhưng đồng thời, việc cô ấy giỏi nhất là thêu dệt ra những câu chuyện và dựng kịch bản. Và mọi chuyện đang diễn ra đều có mùi của một kịch bản, một phương thức để nhắc nhở Archie rằng cô ấy có ý nghĩa với anh đến mức nào, nói đúng hơn là anh yêu cô nhiều đến mức nào. Khi bạn lo lắng quá mức thì bạn sẽ chuyển sang những cảm xúc như vậy, phải không?
Tôi đầu hàng với cái lạnh và đi về nhà. Căn hộ của tôi ngăn nắp như một trại lính, không có đồ trang trí, không có ảnh, không có vật lưu niệm, chăn bông của tôi cùng màu với tường, không hẳn là màu trắng nhưng cũng không phải màu ngà. Chủ nhà đã cho tôi thuê với điều kiện tôi không được phép mang đàn ông về nhà. Bà Kettering, hàng xóm của tôi, là một góa phụ già, lẽ ra bà ấy sẽ để mắt đến những hành vi sai trái nhưng vì bà thích tôi nên bỏ qua những lần hiếm hoi Archie đến trước cửa nhà tôi. Ngay cả khi chỉ đứng ngoài cửa, chắc bạn nghĩ anh ấy sẽ nhận ra đây không phải nơi để ở mà chỉ là trạm nghỉ chân cho một người đang kiếm tìm chỗ nghỉ ngơi, người đó không có thời gian để trang hoàng cho hiện tại mà chỉ lập kế hoạch cho tương lai.
Tôi thu dọn đồ đạc cho chuyến đi đến Harrogate, đầu óc lại bất giác miên man những suy nghĩ về Agatha. Tôi vừa gấp một chiếc quần lót vừa nghĩ: cô ấy đi đến một khách sạn sang trọng để chăm sóc vết thương mà không thèm nhận thấy mọi người đang lo lắng cho cô. Nhưng chuyện đó vẫn chưa lý giải được vụ chiếc xe bị bỏ giữa đường. Nên tôi nghĩ rằng: cô ấy bỏ chiếc xe để chúng tôi cảm thấy lo lắng vì chúng tôi đáng bị như vậy, rồi sau đó cô ấy biến mất và đến một khách sạn sang trọng nào đó để cười nhạo hoặc đợi Archie đến tìm cô, sự lo lắng sẽ khơi lại tình yêu trong anh. Nhưng tỉ lệ để cô ấy làm ra chuyện này mà không cần người khác giúp đỡ là bao nhiêu? Người có khả năng trở thành đồng phạm của cô ấy nhất chính là Honoria nhưng trông Honoria cũng lo lắng hệt như tất cả những người còn lại.
“Agatha thuộc kiểu người cảm tính,” Archie từng nói với tôi như vậy. “đừng bị lừa bởi cách cô ấy cư xử.”
Kiểu người cảm tính. Làm như còn có kiểu người nào khác nữa vậy. Hãy đưa ra một ví dụ về kiểu người không cảm xúc và tôi sẽ chỉ cho bạn thấy sự nguy hiểm mà người đấy có thể mang lại. Làm sao để cảm xúc không chi phối trong khi cuộc đời cứ luôn xoay vần theo những hướng bất ngờ? Suốt cuộc chiến, Agatha đã viết cho người chồng mới cưới của mình những lá thư cầu chúc anh luôn an toàn, cây bút máy lướt trên mặt giấy như vẽ nên những câu thần chú. Hiện tại, ở Sunningdale, khi người đang gặp nguy hiểm không phải anh mà là Agatha, Archie chợt nhận ra bản thân anh cũng là một người cảm tính, anh thậm chí còn không được phép tham gia vào cuộc tìm kiếm. Anh hết đi lên đi xuống các tầng trong nhà xong rồi lại trồng cây chuối. Giờ anh cảm thấy hối hận vì đã quá vội vàng ném lá thư của cô vào đống lửa. Biết đâu cô ấy đã giấu manh mối hữu ích trong những câu từ đó thì sao? Bằng chứng về việc cô ấy còn sống khỏe mạnh và đang dồn nén tất cả nỗi lòng và sự giận dữ của mình ở hiện tại vào những câu chữ.
Tôi tháo chiếc Claddagh ra khỏi ngón tay và đeo lại chiếc nhẫn có chiếc vương miện hướng về phía tôi. Lần cuối cùng tôi gặp Finbarr là cách đây rất nhiều năm, khi anh ấy đến London tìm tôi sau khi chúng tôi mất con. Anh ôm tôi vào lòng và khóc ướt hết tóc tôi.
“Con bé có đẹp không?” Anh đã hỏi, khi tôi nói với anh ấy tôi đã mang thai con anh.
“Có chứ.” Tôi vừa nói vừa khóc, tay nắm chặt lấy cổ áo anh. “Đẹp hơn những gì anh có thể tưởng tượng.”
Ký ức về sự xinh đẹp của con cũng không thể xoa dịu hay hàn gắn cả hai. Dù Finbarr chẳng làm gì sai, tôi vẫn xua đuổi anh đi. Khi Ireland bị cuốn vào cuộc chiến giành độc lập, anh rời khỏi Anh để đến Úc. Ở đó, sẽ không ai hy vọng anh chiến đấu vì bất kỳ quốc gia nào và anh có thể làm công việc huấn luyện chó chăn gia súc, anh muốn tôi đi cùng nhưng tôi đã từ chối. Hồi tháng Chín vừa qua, tôi đã gửi thư đến địa chỉ cuối cùng của anh mà tôi biết. Trong thư tôi kể về Archie, về cuộc hôn nhân tôi tin rằng sắp diễn ra và lý do tôi cướp chồng của một người phụ nữ khác. Tôi nghĩ mình có nghĩa vụ nói anh biết vì tôi còn nợ anh ấy rất nhiều nhưng tôi chẳng nhận được hồi âm. Có lẽ những lời tôi viết đã làm anh thất vọng, anh sẽ chẳng thể tưởng tượng nổi tôi có thể trở thành một người phụ nữ như vậy. Hoặc có lẽ chỉ đơn giản là anh đã chuyển chỗ ở một lần nữa, đến Mỹ hoặc trở lại Ireland, nơi nào cũng được miễn là tôi không bao giờ có thể đặt chân tới nơi đó.
Vẫn còn quá sớm để Agatha vượt qua mọi việc. Tôi đem theo những bộ quần áo ấm áp nhất, cả ủng, mũ và găng tay để có thể đi dạo ở vùng quê, có lẽ tôi thậm chí sẽ chạy nếu tôi tìm thấy một con đường vắng vẻ. Tôi cố gắng hình dung ra Agatha đang chạy bên cạnh tôi, cả hai chúng tôi đều là người vô hình đối với thế giới ngoài kia và cuối cùng chúng tôi đến đích cùng một lúc.
Tôi gấp một chiếc váy và nghĩ: cô ấy đi đến Godalming để đối đầu với Archie và tôi, tạo ra một khung cảnh tuyệt vời trước mặt gia đình Owen. Trong cơn bão tố và sự thôi thúc8 xa lạ bên trong, cô lái khỏi mặt đường, sau đó bỏ lại chiếc xe và đi thơ thẩn vào màn đêm buốt giá. Nếu đúng vậy thật thì tin đầu tiên vào sáng mai mà tôi sẽ nghe được là xác cô ấy đã được tìm thấy và đóng băng giữa một hàng rào cây xanh nào đó hoặc trong những tấm lưới người ta dùng để trục vớt ở hồ Silent Pool.
8 nguyên tác: Sturm and Drang (tiếng Đức là Sturm und Drang) nghĩa là Bão táp và xung kích. Đây là một trào lưu nghệ thuật nổi bật ở Đức thời kỳ Khai sáng thế kỷ XVIII.
Tôi gấp một chiếc áo cardigan, chiếc áo len cashmere mềm nhất của tôi, một món quà từ Archie. Và suy nghĩ: ngay lúc này tại Styles, có thể Teddy đang chơi trên lầu, có thể con bé đang đọc Winnie the Pooh và vẫn không biết Agatha đã ra đi.
Cô có còn nghĩ về anh chàng người Ireland kia không?
Chỉ mỗi ngày trong cuộc đời tôi thôi.
Tôi quấn đôi giày trong một chiếc khăn quàng cổ. Cô ấy có thể đã lên một con tàu đến Mỹ và giờ đang ngồi thoải mái trong một khoang hạng nhất. Cả thế giới và một tương lai mới đang đón chờ cô ở phía trước. Tôi đã tạo đủ động lực để cô ấy trốn thoát rồi đấy.
Tôi đóng chặt va li của mình. Chuyện là thế đấy. Chẳng cần phải suy nghĩ về vợ của người tình, thậm chí không cần nghĩ đến Finbarr. Dù có chuyện gì xảy ra tiếp theo thì khi chuyện ấy kết thúc, cuộc sống của tôi với Archie cũng sẽ bắt đầu. Nhưng trước hết, tôi sẽ có một tuần cho riêng mình, tôi sẽ đắm chìm hoàn toàn vào kế hoạch của mình.
NƠI SƠ MARY AN NGHỈ
Nếu chị Colleen không mất thì có lẽ tôi đã ở lại Ireland trong suốt cuộc chiến. Ngay khi vừa nhận được tin báo, tôi nhớ chính xác những gì đã xảy ra vào thời điểm đó. Tôi đang đi ra khỏi chuồng ngựa cùng Brutus, tóc để xõa, tôi vỗ tay vào nhau để loại bỏ xà phòng làm sạch yên ngựa còn đọng lại. Ánh sáng ban ngày đang mờ dần và cùng lúc ấy, sương mù phủ xuống như một người bạn đồng hành của hoàng hôn. Và đột nhiên một cơn ớn lạnh bao trùm lấy tôi, cứ như tôi đã bị chìm trong làn nước băng giá. Mẹ tôi thường hay nói, “Lạnh sống lưng thật.”
Nhiều ngày sau đó, tôi nhận được bức điện. Không gì có thể ngăn tôi trở về nhà.
“Tại sao ở đây không nói rõ nguyên nhân.” Tôi khóc nức nở với bác Rosie, giơ bức thư chỉ có vài dòng ngắn ngủi lên. “Chị ấy mới mười chín tuổi thôi mà. Tại sao nó không nói nguyên nhân chứ?” Và đương nhiên tôi đã nghĩ, nếu người đến Ireland là chị ấy thay vì tôi thì chị ấy đã an toàn.
Bác Rosie vỗ vỗ lưng tôi an ủi, nghiêm túc nhìn bác Jack. Thực ra phải nói là hết sức trầm trọng mới đúng. Một người quá trẻ đã chết vì nguyên nhân nào đó mà không thể nói hết trong một bức điện.
“Con nên ở lại đây với hai bác.” Bác Rosie khuyên nhủ. “Con không thể làm gì để sửa chữa chuyện này hết, ở đây sẽ an toàn hơn so với ở London.”
Có lẽ nếu biết được nguyên nhân Colleen chết thì tôi đã không vội trở về Anh đến vậy, nhưng đây là loại tin tức mà một khi nghe thấy bạn sẽ đặt ra hàng loạt câu hỏi và làm bạn đứng ngồi không yên. Tôi chỉ có thể chấp nhận được một điều duy nhất là di chuyển đến London. Trên con thuyền rời bến ở Dublin, tôi đứng trên boong, nắm chặt lấy tay vịn và từ chối mỉm cười với những người lính. “Đến đây ngay, cô gái.” Một bà già rít lên với tôi. “Nhiệm vụ của cô là tạo những kỷ niệm hạnh phúc để tiễn họ đi đấy.”
Tất cả những gì tôi có thể nghĩ lúc này là về nhà với Colleen. Tôi biết điều này thật phi logic nhưng tôi vẫn quyết tâm gặp chị gái mình. Cùng lúc đó tôi lại tưởng tượng ra một viễn cảnh rằng khi tôi đến Anh, chị ấy đang ở trên một chiếc thuyền khác hướng đến Ireland, cả hai chúng tôi đều lênh đênh trên biển Ireland nhưng ngược chiều nhau, lướt qua nhau như những con sóng.
***
Khi tôi về đến nhà, mẹ tôi đang nằm trên giường. Bà ngồi dậy và ôm chặt lấy tôi nhưng không nói một lời.
“Chuyện gì đã xảy ra thế?” Tôi hỏi bố.
Ông ấy nắm lấy vai tôi, những ngón tay ông di chuyển theo cái cách làm tôi cảm thấy ông thật xa lạ với tôi.
“Con bé đã vượt quá giới hạn cho phép.” Ông ấy nói.
“Colleen? Vượt quá giới hạn?” Tôi chưa từng nghe thấy chuyện gì vô lý đến thế.
“Ta sẽ không để con gái mình vượt quá giới hạn. Không một đứa nào hết, con có nghe thấy không, Nan?“ Ông ấy buông tôi ra. Khuôn mặt ông có gì đó khác trước và giữ như vậy mãi về sau, cứ như thể có người khác đã chiếm lấy cơ thể ông. Trong tôi trào dâng một nỗi lo sợ rằng một khi tôi biết chuyện của Colleen, tôi cũng sẽ giống ông bây giờ.
Megs đến và kéo lấy khuỷu tay tôi. Đôi mắt sẫm màu và những đường nét của chị ấy hệt như tôi, chị cũng cao bằng tôi, còn chị Colleen lại cao ráo hơn. Megs và tôi đi bộ từ East End đến cầu Waterloo trong làn sương mù mùa hè của London. “Đi bộ là liều thuốc giải sầu hiệu quả.” Megs nói.
Đây là những lời mẹ đã nói với chúng tôi. “Đi bộ là liều thuốc giải sầu hiệu quả”, và Colleen ngước nhìn lên sau cuốn sách chị ấy đang đọc dở và nói, “Solvitur ambulando.” Trước vẻ mặt không cảm xúc của mẹ, Colleen dịch câu tiếng Latinh ấy ra, “Đi bộ giải quyết được mọi chuyện.” Mẹ chúng tôi cười tự hào thốt lên, “Cô con gái thông minh của mẹ.”
Bây giờ đây, khi đối mặt với nỗi đau tồi tệ nhất trong cuộc đời, mẹ chúng tôi chẳng thể bước đi nổi nữa. Louisa cũng chui lên giường và không chịu bước xuống. Không điều gì có thể giải quyết được nỗi đau buồn sau cái chết của Colleen.
Nhưng tôi và Megs cùng nhau đi bộ. “Bố sẽ không cho chúng ta tổ chức lễ tang.” Chị ấy nói.
“Tại sao lại không cho chứ?”
Khi chúng tôi đi đến cầu, tôi mới biết được mọi việc. Colleen đã có thai, tên kia ra trận và không bao giờ hồi đáp những lá thư chị ấy gửi.
“Nhưng hắn ta là ai?” Tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới là những chàng trai mà chị ấy đã từ chối và chẳng bao giờ thèm ngoái lại nhìn.
“Hắn nói với chị ấy hắn là một sinh viên ngành triết học,” Megs kể. “Chị ấy gặp hắn ở thư viện. Có thể hắn ta là một tên khốn hoặc cũng có thể hắn đã bị giết trong cuộc chiến. Dù hắn là gì đi chăng nữa thì khi bố biết chuyện đứa bé, ông ấy đã đuổi Colleen ra khỏi nhà.” Mặt chị tái nhợt, đôi mắt đen tối sầm lại, chị ghét phải thú nhận rằng chúng tôi có thể đãlàm ra những điều tước mất tình yêu của bố. Tôi không chắc mình còn nhìn thấy cha cười một lần nào sau khi Colleen qua đời hay không, nhưng cũng có thể đơn giản là do sau này tôi đã không còn nhìn ông ấy nữa. Khi ông ấy cứng rắn với chính đứa con gái của mình, ông ấy đã khiến tất cả chúng tôi cũng cứng rắn chống lại ông, và bao gồm cả vợ ông nữa.
Dưới ánh nắng yếu ớt chiếu rọi trên cầu Waterloo, tôi đứng tay trong tay với chị mình. “Đó chỉ là tình yêu thôi.” Megs nói với tôi. “Chị Colleen đã nói vậy đấy. Bố bảo rằng đó là một tội lỗi và là một nỗi ô nhục. Còn chị ấy nói, ‘Không phải như vậy đâu bố. Đó chỉ là tình yêu thôi.’”
“Sao ông ấy có thể?” Tôi chưa bao giờ nghĩ, Sao Colleen có thể? vì giờ tôi đã biết tình yêu là thế nào rồi, thật dễ để tưởng tượng ra cảnh tôi đi theo vết xe đổ của Colleen. Nhưng còn tình yêu của bố tôi thì sao? Tôi nhắm mắt lại và cố gắng hình dung ra một người thanh niên đủ sáng dạ để có thể mê hoặc cô chị gái thông minh và xinh đẹp của tôi, sau đó đủ nhẫn tâm để bỏ rơi cô ấy. Tôi quyết định tin rằng anh ấy chắc chắn đã bị giết.
Megs vẫn tập trung sự tức giận vào bố. “Chị nghĩ chắc ông ấy cho rằng mình còn một đứa con gái khác dự phòng.” Giọng chị nghe trống rỗng và cam chịu. Bố muốn mất thêm bao nhiêu đứa con gái nữa đây hay cho đến khi ông không còn một đứa nào để dự phòng?
Megs và tôi tách nhau ra và nghiêng người về phía trước, cả hai cùng nhìn chằm chằm xuống mặt nước. Colleen đã đi bộ ngang qua đây, dọc theo tuyến đường South Bank, tôi biết chị ấy sẽ đi dọc theo con đường này nhưng chẳng thể tìm ra cách giải quyết vấn đề. Megs và tôi cũng đi trên con đường đó nhưng chị gái của chúng tôi đã ra đi mãi mãi. Bây giờ, khi nhìn lại, tôi thấy hai cô gái tóc nâu trẻ trung, nhỏ bé giữa vạn vật, xung quanh họ chỉ toàn những cỗ máy chiến tranh được kích nổ từ mọi ngóc ngách trên thế giới. Nhưng lúc đó tôi và Megs lại chẳng thể thấy bất cứ điều gì. Trong ký ức của chúng tôi lúc đó, việc chiến tranh sẽ lan đến nước Anh vẫn là chuyện không tưởng. Nhưng điều đó sẽ sớm thay đổi vào vài năm kế tiếp, khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra.
Tất cả những gì tôi thấy lúc đó là một ngày hè đầy sương mù trong thành phố, Megs và tôi tựa vào nhau sau khi kiệt sức vì đi bộ và vì nỗi đau mất mát. Tôi ước mình có thể khóc nhưng bên trong tôi chẳng còn tí cảm xúc nào bởi giọng nói đều đều và nghe như không có thật của Megs. Nếu tay tôi đang cầm một bó hoa, tôi sẽ ném chúng xuống để chúng trôi dập dềnh theo làn nước, đến đúng nơi Colleen đã gieo mình xuống dòng sông Thames.
***
Nhiều năm sau, tôi được xem một bộ phim tên Brigadoon, nó nhắc tôi nhớ lại định nghĩa về Ballycotton trong tôi suốt những năm chiến trận: được bảo vệ, hoàn hảo, bất khả xâm phạm. Không bị thời gian và sự phát triển tàn phá, nằm ẩn mình trên những tầng mây, chờ ngày tôi quay về.
Ở London dần vắng bóng những chàng trai trẻ tuổi. Cuối cùng thì mẹ tôi cũng ra khỏi giường và đưa tôi đi chụp một bức ảnh chân dung, tôi đã hết sức ngạc nhiên khi thấy bà đã diện xong đồ và bước vào bếp.
“Hãy mặc chiếc đầm đẹp nhất của con nhé.” Bà ấy bảo tôi. “Chúng ta sẽ đến Forest Hill chụp một bức ảnh thật đẹp để gửi cho chàng lính Ireland của con.” Bà lấy tay uốn những lọn tóc tôi và đưa Vaseline để tôi bôi lên môi và lông mi.
Trên xe buýt, mắt mẹ tôi cứ chớp chớp liên hồi, bà vẫn chưa quen nhìn thấy ánh sáng tự nhiên tràn qua khắp các ô cửa sổ, bà đã ở trong nhà quá lâu. “Ôi, mẹ à.” Tôi nói.
“Đừng lo.” Mẹ nắm lấy tay tôi. “Chúng ta sẽ chăm sóc cho con, Nan à. Con gái yêu của mẹ. Và con không được khóc đâu nhé. Mẹ nói con nghe, thằng bé không muốn thấy bức ảnh toàn là nước mắt của con đâu.”
Tôi nghĩ Finbarr chẳng quan tâm nếu có nhìn thấy những giọt nước mắt đâu, tôi chưa bao giờ thấy anh ấy bận lòng về điều gì cả. Dù vậy, tôi vẫn mỉm cười đầy trách nhiệm trước ống kính. Ngồi trên ghế của người thợ chụp ảnh, tôi cười trong niềm hạnh phúc thật sự khi tưởng tượng ra mình đang nhìn vào khuôn mặt vui vẻ của Finbarr. Vài ngày sau, tôi tự đi lấy hình. Tấm ảnh rất đẹp, đẹp hơn nhiều so với tôi ngoài đời, tôi còn lo anh ấy sẽ thất vọng khi gặp lại tôi. Nụ cười như đang khoe niềm may mắn của tôi vì có được hàm răng trắng sáng và thẳng tắp. Trong lá thư gửi kèm bức ảnh, tôi viết những dòng chữ nhỏ xíu, chen chúc. Trong chiến tranh, giấy rất khan hiếm mà tôi thì lại muốn kể anh nghe mọi thứ trên đời. Trong bốn năm tiếp theo, tôi luôn đều đặn viết thư cho anh ấy một cách đầy trách nhiệm. Tôi viết về chuyện đã xảy ra với Colleen và nguyên do tôi không thể nhìn mặt bố mình cũng như ông ấy không còn nhìn vào bất kỳ ai trong chúng tôi. Tôi viết những điều nho nhỏ về trường học và bạn bè của tôi. Tôi viết về sự khởi đầu của chiến tranh ở London với vụ đánh bom bằng tàu bay Zeppelin và Megs muốn làm y tá ra sao nhưng bố không cho phép và mẹ cũng đồng tình với bố. Tôi thừa nhận tôi biết anh còn gặp nhiều hiểm nguy hơn nhưng tôi vô cùng sợ hãi những pha không kích. “Không có gì có thể độc ác hơn việc tấn công từ trên trời.” Khi cây bút chì của tôi di chuyển một cách cẩn thận để tiết kiệm giấy hết mức có thể, trong đầu tôi vẫn vẹn nguyên hình ảnh Finbarr ở thời bình. Trong tâm trí tôi, anh là người dễ nở nụ cười hơn ai hết. Anh viết lại cho tôi, nói rằng anh hy vọng sẽ được nghỉ đủ dài và tiết kiệm đủ tiền để đến London. Anh ấy giữ bức ảnh của tôi trong tay áo suốt những trận chiến và để bên cạnh giường anh vào ban đêm. Tôi đoán rằng các cạnh của bức ảnh đã sờn và mòn vẹt đi. Anh ấy sẽ chạm vào má tôi trước khi ngủ và chúc tôi ngủ ngon, ước chi tôi cũng có một bức ảnh của anh.
Hai người đàn ông đã làm chị gái tôi thất vọng. Đầu tiên là tên sinh viên ngành triết học và sau đó là bố chúng tôi. Nhưng tôi biết Finbarr sẽ không bao giờ làm tôi thất vọng. Anh sẽ co mình trong chiến hào với bức ảnh khuôn mặt tươi cười của tôi nhét trong nếp gấp tay áo và anh sẽ nghĩ đến ngày ở bãi biển Ballywilling. Anh ấy sẽ nhớ tới nụ hôn tạm biệt của chúng tôi và bất giác đặt tay lên môi.
“Anh yêu em, Nan à.” Finbarr viết. Những lá thư tạo thành kỷ niệm trên trang giấy, tôi vẫn chưa bao giờ được nghe anh ấy nói điều đó. “Chờ anh nhé.”
Cứ như trước giờ tôi còn làm chuyện gì khác ngoài chuyện đó ấy.
***
Bốn năm chiến tranh, từ bốn chị em giờ chỉ còn lại ba. Tôi viết một bài thơ về chị Colleen và thắng một cuộc thi, giải thưởng là năm shilling9 . Bài thơ được in trên báo nhưng bố tôi không chịu đọc. Một buổi sáng sau khi ông ấy đi làm, mẹ gọi Megs, Louisa và tôi vào phòng ngủ của bà.
9 là tên gọi đơn vị tiền tệ hoặc đơn vị đếm tiền tệ ở một số nước.
“Nhìn đây.” Bà vừa nói vừa mở ngăn kéo dưới cùng và lấy ra một hộp trà bằng thiếc. Bà vặn nắp để cho chúng tôi thấy nơi bà cất số tiền kiếm được ở Buttons and Bits. Tôi đi làm ở đó một hay hai ngày một tuần và biết rằng sẽ mất rất lâu để tích lũy được số tiền mẹ cho chúng tôi xem. “Không đứa nào trong số các con dẫm lên vết xe đổ của Colleen hết, có nghe thấy không?” Bà nói bằng giọng nghiêm khắc nhất tôi từng nghe. “Nếu có vấn đề gì thì nói với mẹ. Chúng ta sẽ lấy số tiền này để bỏ trốn.” Mẹ cho chúng tôi xem chiếc hộp bà đã bỏ chiếc nhẫn cưới cùng với các hóa đơn và tiền xu. “Chúng ta sẽ đến Mỹ hoặc Úc và nói con là một góa phụ thời chiến. Sau đó chúng ta sẽ quay lại đây và nói con đã kết hôn ở đó nhưng thằng kia đã bỏ đi hoặc đã chết rồi. Bố các con thật đáng nguyền rủa. Hãy hứa với mẹ ngay bây giờ đi. Mẹ không thể mất thêm một đứa nào nữa trong số các con hết.”
Cả ba chúng tôi đều hứa với mẹ. Tôi đưa năm shilling tiền thưởng cho mẹ để bà bỏ thêm vào nguồn dự trữ.
***
Khi người ta bắt đầu đưa tin về cuộc Tổng tấn công Một trăm ngày, tôi lo đến phát ốm, càng tệ hơn là khi Finbarr đột ngột ngừng viết thư cho tôi. Mẹ tôi cố gắng dỗ dành, “Chắc thư từ tiền tuyến chưa về đến thôi. Chúng ta chỉ chưa biết được nguyên nhân, con đừng lo lắng nữa.”
Có rất nhiều nguyên nhân. Tin xấu cứ ập đến hết cô gái này đến cô gái khác, hết bà mẹ này đến bà mẹ khác, hết ông bố này đến ông bố khác. Bấy giờ tôi đã mười chín tuổi nhưng trong thâm tâm tôi luôn nghĩ mình nhỏ hơn tuổi mười chín nhiều. Thế giới biến động liên tục xung quanh chúng ta. Một phút trước, mẹ tôi trở lại thành con người cũ của bà, lanh lợi và tràn đầy yêu thương. Rồi một phút sau con người đó biến mất, chỉ còn một người phụ nữ nhợt nhạt và tĩnh lặng nhìn chằm chằm ra khung cửa sổ.
“Mẹ đang nhìn gì vậy?”
“Không có gì.” Bà sẽ đáp như thế và quay lại bận rộn với công việc. Nhưng tôi biết bà ấy đang tìm kiếm điều gì. Bà đang mong chờ Colleen về nhà, tay dắt theo một đứa trẻ. Tình yêu và lý trí chưa bao giờ đồng hành cùng nhau.
***
Vào ngày Đình chiến, lần đầu tiên tôi thấy nhiều người tập trung ở một nơi như vậy trên đường phố London. Tôi cùng với Megs, Louisa và người bạn Emily Hastings của chúng tôi hòa vào đám đông ăn mừng, thật ồn ào và vui sướng làm sao. Chúng tôi không thể đi cùng hàng ngang với nhau vì mọi người đều đi như vậy.
Megs, Louisa, Emily và tôi cố gắng nắm tay nhau cùng băng qua các con phố nhưng chẳng thể làm được. Đáng lẽ bị mắc kẹt giữa đám đông dày đặc như vậy sẽ rất đáng sợ nhưng niềm hạnh phúc còn lớn hơn nhiều. Bạn không thể tưởng tượng được niềm vui và lòng tốt của mọi người đâu, nếu bạn sẩy chân, cả trăm bàn tay sẽ vươn ra để giữ bạn khỏi ngã. Nếu bạn hắt hơi, hàng nghìn người sẽ nói “Chúa phù hộ cho bạn”. Một người lính chụp lấy cánh tay của Megs khi chị ấy vấp phải lề đường, sau đó anh ta ngả mũ chào và tiếp tục say sưa với đồng đội. Tôi tìm kiếm trong đám đông như thể Finbarr đang ở trong đó, giống như sự may mắn khi được anh yêu, tôi sẽ có đủ may mắn để làm anh hiện ra ngay trước mắt mình.
Ở đâu đó trong đám đông, Agatha Christie cũng đang đi bộ. Trong khoảng thời gian này, một người phụ nữ đã kết hôn cô đơn vì chồng ra trận và thường tự làm mình bận rộn bằng cách tham gia một khóa học ngắn hạn. Khi tin đình chiến được công bố giữa giờ học, mọi người đổ ra đường ăn mừng và cũng kinh ngạc trước đám đông giống như chúng tôi. Phụ nữ Anh! Phụ nữ Anh! Cùng nhau khiêu vũ trên đường phố. Theo những gì tôi biết thì tôi và Agatha đã cùng nhau sánh bước một hoặc nhiều lần trong ngày vui hôm đó.
Tôi không chắc tôi và Megs bị xô đẩy và lạc nhau khi nào, có vẻ như tôi đã tuột khỏi tay chị ở đâu đó, nhưng đây là một chuyện buồn cười hơn là đáng sợ vì cuối cùng thì tất cả chúng tôi đều gặp lại nhau. Tôi đã đi đến tận Quảng trường Trafalgar. Một chiếc xe tải giao hàng lao nhanh trên Đại lộ Northumberland, những người lính chen chúc nhau từng inch nên tôi chẳng thể đọc được quảng cáo gì được viết trên thân xe. Ngay khi chiếc xe tải dừng lại vì đám đông trên đường, một người lính nhảy khỏi nắp ca-pô và đứng trước mặt tôi, chiếc mũ lưỡi trai quân đội che đi mái tóc đen cắt ngắn.
Thật là sự di chuyển mau lẹ và vui vẻ. Vài giây trước đó, thế giới chỉ là đám đông, chẳng có cá nhân nào mà chỉ là một số đông những người đang sống. Tôi gần như cũng không tồn tại ngoại trừ là một phần của đám đông. Nhưng giờ đây, dù hơn năm mươi người khác có chen vào khoảng không giữa chúng tôi thì cũng chỉ có tất thảy hai người ở London mà thôi. Chỉ có Finbarr và tôi nhìn nhau bằng ánh mắt hân hoan. Ồ, cứ như tôi vừa gọi là anh ấy hiện ra ấy. Hãy ước đi, Nan. Một loại phép màu khiến chúng ta tin rằng cuộc sống trên trái đất này có ý nghĩa. Mái tóc đen của anh ánh lên màu xanh lam giữa một London xám xịt, như anh vừa ở trên hòn đảo ngọc lục bảo của anh.
“Là em đúng không?” Anh hét lên, tay anh đang cầm một chai sâm panh. “Anh đang say ư? Hay anh đang mơ?”
“Là em đây.” Giọng tôi the thé do phải hét lên.
“Bước sang một bên đi.” Finbarr ra lệnh cho đám đông. “Kia là cô gái của tôi. Tôi nhìn thấy cô gái của tôi rồi.“
Liệu Biển Đỏ có thể từ chối Moses được không? Liệu đám đông có thể từ chối người lính mắt xanh đẹp trai này khi anh trở về nhà sau thắng lợi và vẫn bình an vô sự không?
Trong bộ đồng phục kaki và đôi ủng quân đội, Finbarr băng qua con đường thông thoáng và ôm tôi vào lòng. Khi đám đông trở lại như trước, anh nâng tôi lên vai, tôi nhìn thấy quần chúng chen chúc nhau khắp London, như một biển người vừa tràn vào thành phố, chảy qua những con phố và không gì ngăn cản được. Mọi thứ đều tỏa sáng rạng ngời, bầu trời phía trên chúng tôi cũng không còn nguy hiểm như lúc trước.
“Anh không nói với em anh sẽ đến London.” Tôi hét lên với anh và anh trượt tôi xuống khỏi vai và ôm vào lòng:
“Anh chỉ mới biết tin ngày hôm kia,” Anh nói. “Không có thời gian để báo em. Dù sao thì anh biết anh sẽ tìm thấy em.” Anh nói như thể London là Ballycotton và anh chỉ cần đi lang thang trên các bến tàu và hỏi những ngư dân nơi Nan O’Dea sống. “Thật giống một phép màu nhỉ?” Anh nói. “Em vẫn giống một phép màu như mọi khi.” Giọng anh đã thay đổi, trầm và khàn hơn, như có gì đó bên trong cổ họng anh đã bị vỡ, mà đúng là như vậy thật. Lúc đó tôi cứ nghĩ giọng anh khàn đi do khi nãy anh la hét nhưng sau này tôi mới biết giọng anh đã bị khí mù tạt thay đổi vĩnh viễn.
Anh hôn tôi sâu thật sâu và tôi cũng hôn lại anh. Tất cả mọi người xung quanh chúng tôi đều hò reo cổ vũ, họ không chỉ ăn mừng chiến tranh kết thúc mà còn ăn mừng chúng tôi được đoàn tụ. Nan và Finbarr bên nhau như một lẽ đương nhiên nếu thế giới không chia cắt chúng tôi. Chiến thắng thuộc về chúng tôi. Thế giới lại trở về với đúng quỹ đạo của nó, giờ chúng tôi đã có thể quay lại thành những con người hạnh phúc như lúc xưa.
Chúng tôi tay trong tay đi ngang qua đám đông và lần này tôi sợ rằng chúng tôi sẽ bị lạc nhau như tôi bị lạc Megs lúc nãy. Tôi hầu như không thể nhìn thấy chúng tôi đang đi về hướng nào hoặc chúng tôi đã đi qua những cửa hàng nào. Khi Finbarr kéo tôi vào sảnh của một khách sạn lớn, tôi giống như rơi vào một quả bong bóng trống rỗng và lặng im. Không có một vị khách và cũng không có ai đứng sau quầy lễ tân, tất cả những người đáng lẽ phải có mặt ở đây đã rời khỏi vị trí công tác của mình để xuống đường. Tiền sảnh tráng lệ đến mức choáng ngợp, một sự xa hoa tĩnh lặng mà tôi chẳng thể tưởng tượng đến mức chi phí. Bên cạnh những cột đá hùng vĩ, những chậu cọ to lớn vươn những chiếc lá hình lược mềm mại hướng lên trần nhà như để chào đón chúng tôi. Qua đế giày, chúng tôi cảm nhận được cái lạnh của sàn đá cẩm thạch. Nếu chúng tôi thì thầm, tiếng sẽ vang vọng khắp mọi nơi.
Vậy nên chúng tôi không thì thầm. Finbarr vẫn đang nắm lấy tay tôi, chúng tôi lao qua những bậc cầu thang rộng lớn và sang trọng. Finbarr vặn tay nắm cửa mỗi căn phòng chúng tôi đi ngang qua cho đến khi một cánh cửa mở ra đón chúng tôi. Chúng tôi bước vào trong và đóng mạnh cửa, thêm một quả bong bóng nữa bên trong quả bong bóng lúc nãy. Tôi lại phát hiện thêm một tài năng nữa của Finbarr mà tôi chưa được khám phá: tìm ra nơi ẩn náu giữa bất kỳ trạng thái nào, phấn khích hay hỗn loạn.
Lát nữa thôi chúng tôi sẽ có rất ít thời gian để trò chuyện khi vẫn còn mặc quần áo. Finbarr đề nghị kết hôn trước khi anh ấy trở lại Ireland nhưng tôi không thể rời đi trước khi được mẹ chúc phúc. Anh hứa sẽ gửi tiền để tôi đến Ireland, ngày hôm sau tôi sẽ gặp anh ở ga tàu để hôn tạm biệt anh. Chúng tôi cùng đồng ý sẽ kết hôn trong vòng vài tháng tới, ngay cả nếu mẹ tôi ngăn cấm chuyện này. Tôi sẽ trao cho mẹ một nụ hôn với ngàn lời xin lỗi và nói lời từ biệt. Không cần phải vội, chiến tranh đã kết thúc rồi, chúng tôi sẽ có tất cả thời gian trên thế giới.
Nhưng hơn hết, hiện tại chỉ có chúng tôi. Trên khắp thế giới này có bao nhiêu cặp đôi cũng đang ở cùng nhau trong giây phút này? Suốt cả một cuộc đời dài đằng đẵng, người ta chỉ có vài khoảnh khắc để nhớ lại tuổi trẻ đã mất. Không có thời gian để trò chuyện trong căn phòng khách sạn chúng tôi vừa lẻn vào, câu duy nhất Finbarr nói, “Anh phải quay lại trung đoàn của mình trước khi mặt trời lặn.” Vì vậy, chúng tôi dành một lúc lâu để nhìn nhau và cảm nhận sự gần gũi của đối phương, cô độc và yên tĩnh. Anh ấy đưa cho tôi chai sâm panh và tôi uống một ngụm, những bọt khí nóng xộc lên làm bỏng rát cả mũi, tôi chưa từng nhấp ngụm sâm panh nào trước thời điểm đó.
Chúng tôi lao vào nhau và ngã lên chiếc giường lớn mà chúng tôi chưa từng biết đến. Nhưng thứ xa hoa duy nhất mà chúng tôi mê đắm chính là hai người được tự do bên nhau, không có người kèm cặp và cuối cùng cũng được ở bên nhau sau ngần ấy thời gian.
Có lúc nào trong buổi chiều hôm đó tôi nhớ lại câu chuyện của chị Colleen như một lời cảnh báo không ư? Không hề. Không thể so sánh người đàn ông biến mất của chị ấy với người hiện tại đang ở trước mắt tôi. Đây là Finbarr, tôi biết anh sẽ không bao giờ từ bỏ hay bỏ rơi tôi, anh sẽ không bao giờ thất hứa hoặc nói dối nửa lời.
Và đúng là anh ấy không bao giờ làm vậy thật.
BIẾN MẤT
Ngày thứ hai
Chủ Nhật, ngày 5 tháng Mười hai năm 1926
Thông báo người bị mất tích được gửi đến các đồn cảnh sát trên khắp nước Anh:
Bà Agatha Mary Clarissa Christie mất tích ở nhà riêng Styles, Sunningdale, Berkshire. 36 tuổi, cao 1m7; tóc đỏ, cắt kiểu shingle; da trắng, người mảnh dẻ; mặc váy len xám, áo len xanh lá cây, áo cardigan màu xám và xám đậm, đội một chiếc mũ nhung nhỏ; đeo một chiếc nhẫn bạch kim đính một viên ngọc trai; không đeo nhẫn cưới; túi xách màu đen đựng 5 hoặc 10 bảng Anh tiền mặt. Rời nhà bằng ô tô lúc 9 giờ 45 tối Thứ Sáu, nói rằng sẽ lái xe đi dạo.
Thanh tra Frank Chilton ngồi hút loại thuốc hạng batrong toa xe từ Brixham đi Harrogate. Ông rất vui với chuyến đi này. Việc chuyển về ngôi nhà tranh bên bờ biển của mẹ ông trong những tháng mùa đông giá lạnh là một quyết định sai lầm, những cơn gió ngược từ ngoài khơi thổi vào len lỏi tận trong xương tủy, khuấy động lại ký ức về cái lạnh của những đêm ở chiến hào. Cái lạnh vẫn còn ở đó và sẽ ở đó mãi mãi.
“Họ huy động các sĩ quan cảnh sát tìm kiếm ở mọi quốc gia”, Sam Lippincott đã nói với ông. “Tôi thiếu nhân lực trầm trọng từ sau khi ông rời đi và giờ thêm Jim đang đi hưởng tuần trăng mật nữa.”
Trong vòng một giờ sau khi nhận được điện tín của Lippincott, Chilton đã đạp xe đến khu nhà gia đình Cooke để mượn điện thoại của họ. “Người ta đang lùng sục từng tấc đất của nước Anh như thể chính Nữ hoàng đã mất tích vậy.” Lippincott nói, giọng ông đầy sắc nhọn qua đường dây, lời nói thể hiện rõ sự khinh bỉ nhưng giọng điệu ông lại hết sức vui vẻ. Ông cảnh sát trưởng cũ của Chilton rất vui khi có cớ để triệu tập bạn mình trở lại Yorkshire sớm như vậy. “Hết nghỉ hưu rồi nhé ông bạn. Giờ ông có thể chạy xe máy quanh vùng nông thôn và phát bức ảnh của cô ấy. Chắc chắn ông không bao giờ tìm thấy công việc nào dễ dàng hơn việc tìm kiếm một người và biết chắc người đó đang ở một chỗ khác.”
“Và cũng chẳng có việc nào làm người ta nản lòng hơn việc đó nữa.” Nhưng Chilton đã quyết định tham gia vào cuộc tìm kiếm có thể không mang lại kết quả. Bận rộn với công việc vẫn tốt hơn vô công rồi nghề. Ông đã rời vị trí của mình ở Leeds ba tuần trước để được gần bên mẹ hơn. Ông vẫn chưa tìm được công việc mới và bộ đồng phục cũ của ông lại đang thiếu người mặc. Nữ tác giả mất tích đủ nổi tiếng để mọi lực lượng cảnh sát trải rộng trên toàn nước Anh phải vào cuộc truy lùng, nhưng không nổi tiếng đến mức Chilton từng nghe về cô. Trụ sở chính của Yorkshire đã cử người tìm kiếm khu vực Huddersfield và Leeds nhưng không có người phụ trách khu vực Harrogate và Ripley trừ người vừa mới rời đi.
“Chúng tôi sẽ đưa ông đến Bellefort.” Lippincott nói. “Ông biết anh họ tôi và vợ anh ấy sở hữu nơi này rồi mà. Họ nói họ sẽ rất vui lòng cho ông một phòng miễn phí ở đây.”
Chilton đương nhiên biết anh họ của Lippincott. Simon Leech kết hôn với một cô gái từ Antigua, Isabelle Leech - một người đáng yêu, sở hữu sự kết hợp hiếm có giữa cách cư xử hoàn mỹ và một tâm hồn mạnh mẽ. Nhưng cuộc hôn nhân đã gây ra tai tiếng và những nguy cơ cho khách sạn và spa của gia đình Simon. Việc để cho người phụ nữ da đen làm việc ở quầy lễ tân là một chuyện, việc phát hiện cô ấy đã kết hôn với ông chủ khách sạn người Anh lại là một vấn đề khác. Chắc chắn là ngoài việc cần thêm một người đàn ông tìm kiếm cô Christie, anh họ của Lippincott cũng cần thêm khách. Khách sạn vắng vẻ và ế ẩm. Hai người họ thân thiết như anh em ruột và đây là cơ hội tốt để giúp cả khách sạn và Chilton. Đối với trường hợp của người phụ nữ mất tích, không ai nghĩ cô ấy sẽ xuất hiện ở Yorkshire cả, nhưng Chilton sẽ tìm kiếm mọi nơi. Ông không phải loại người trốn tránh trách nhiệm dù cho công việc được giao có vẻ vô vọng đi chăng nữa.
“Ông có thể xem đây như kỳ nghỉ trong chuyến công tác.” Lippincott rõ ràng là rất vui khi có thể đề nghị chuyện này. “Chẳng thể nào có đề nghị nào tốt hơn thế này trong tương lại đúng không?” Trong chiến tranh, Chilton và Lippincott đã ở cùng một trung đoàn và cùng nhau chiến đấu cho đến khi chiến tranh kết thúc. Lippincott là một trong những người công khai về xu hướng tính dục của mình mà không có vấn đề gì xảy ra. Bất kỳ người đàn ông nào có trái tim cũng sẽ bị chiến tranh thay đổi theo cách này hay cách khác. Không hẳn là không có bất cứ vấn đề gì xảy ra nhưng Lippincott vẫn có thể tiếp tục công việc của mình, yêu thương gia đình của mình, không cần nhảy lên mái nhà mỗi khi nghe thấy tiếng sập cửa.
Trên chuyến tàu về phía Bắc, Chilton nhìn chằm chằm cảnh vật bên ngoài cửa sổ, những hàng cây du và cây bụi lướt qua, gần như không một bóng người, vì gió thổi mạnh nên mọi người đều ở yên trong nhà. Có vẻ như ông sẽ tìm thấy Agatha Christie lang thang bên cạnh đường ray xe lửa hoặc ở bất cứ đâu.
Cánh tay trái của Chilton trở nên thiếu lực kể từ khi bị mảnh đạn bắn vào vai. Bàn tay lành lặn của ông rung lên khi ông châm điếu thuốc. Có thể bạn nghĩ rằng công việc thám tử sẽ không phù hợp với một người đàn ông có cánh tay run lẩy bẩy do hậu quả của chiến tranh. Bạn nghĩ đúng rồi đấy. Lý do Lippincott gọi ông quay trở lại sau chưa đầy một tháng nghỉ hưu phần nhiều là để tặng cho ông một món quà chia tay hơn là mong đợi phá được vụ án.
“Nhớ ngâm mình khi ông ở đó nhé.” Lippincott nói sau khi đã thống nhất mọi chuyện. Những nghi ngờ của Chilton đã chính xác. Harrogate nổi tiếng với những bồn tắm nước nóng tự nhiên, một nơi xa xỉ. Thậm chí, Chilton còn không bao giờ định đến khi ông còn sống gần đó. “Sẽ giúp ích cho ông nhiều đấy.”
Khói thuốc Chilton nhả ra bay lên và quyện vào khói thuốc của những hành khách khác. Ông thà làm việc chạy vặt như một tên ngốc còn tốt hơn việc lang thang như một ông già trên bãi biển cạnh nhà mẹ mình. Chilton đã từng có hai người em trai nhưng giờ không còn đứa nào nữa. Đứa nhỏ nhất tên Malcolm đã chết tại Gallipoli. Còn Michael - đứa lớn hơn, đã chết trong một mê cung trong Trận chiến Arras, lúc đó Chilton cũng đang chiến đấu bên cạnh em mình. Từ ngày đó trở đi, Chilton đã cam kết sẽ sống sót vì mẹ, dù cho mùi hôi thối của những thi thể thối rữa vẫn luôn bám theo ông từ chiến hào và không bao giờ chịu rời đi.
Nhưng một khi mẹ không còn nữa, Chilton sẽ được tự do. Có lẽ sau đó ông sẽ đi theo sự dẫn dắt của người phụ nữ tên Christie này, có vẻ như cô ấy đã tự tử. Họ có thể tìm thấy xác cô ấy dưới đáy hồ. Khả năng cao là vào thời điểm ông đến khách sạn, họ đã tìm thấy xác cô ở đâu đó gần đây. Ông sẽ dành một đêm rồi trở về nhà.
Tự sát. Từ này luôn có một cách đeo bám Chilton nhưng đối với người phụ nữ đã có một đứa con thì rất khó làm vậy. Nhưng từ thực tế là cảnh sát trên khắp nước Anh đang được huy động để tìm kiếm cô và như lời Lippincott đã nói thì nhà Christie có đủ người chăm sóc cho đứa bé, thậm chí chắc con bé còn không nhận ra mẹ mình đã biến mất. Mẹ Chilton đã luôn ở bên cạnh các con trai của bà mỗi khi đi ngủ, ở mỗi bữa ăn và mỗi lần bị thương trong suốt thời thơ ấu của họ.
Tiếng còi tàu báo hiệu dừng lại. Có một số thú vui còn sót lại trong cuộc sống này mà ông sẽ nhớ lắm khi rời bỏ cuộc đời. Chilton thích tiếng còi tàu. Đi xa hay du lịch một khoảng thời gian bằng tàu hỏa. Một cơ hội để tập trung suy nghĩ hoặc không nghĩ gì hết. Ở đây, trên chuyến tàu này, không ai tìm kiếm ông và cũng không ai tìm thấy ông. Có lẽ đây là những gì cô Agatha Christie đang làm. Ông sẽ làm vậy nếu ông muốn chạy trốn khỏi thế giới. Lên tàu và đi khắp nước Anh. Không xuống ở bất cứ trạm nào. Trên tàu có mọi thứ bạn cần, từ một nơi riêng tư cho đến chỗ ăn, chỗ trú mưa và một nơi để bạn ngả đầu. Nếu ông muốn trốn chạy, muốn biến mất, ông chỉ cần leo lên xe lửa và đi, đi và đi, không cần điểm đến. Khi nghĩ đến điều này, ông mới thấy nó rất giống với những gì ông đang làm - tìm kiếm một người chắc chắn ở địa điểm đó.
Một lúc sau, Chilton chìm vào giấc ngủ. Đầu ông ngả ra sau, miệng hơi mở, điếu thuốc vẫn còn cháy trên tay. Một người phụ nữ tầm tuổi mẹ ông đang ngồi bên kia lối đi, bà không muốn ngồi ở toa hút thuốc nhưng những toa còn lại đã hết chỗ. Bà ân cần nhìn người đàn ông đang ngủ. Ông có một vẻ ngoài đặc biệt, ngày nay rất nhiều người cũng như vậy. Và ông rất đẹp trai nếu nhìn xa hơn một chút, hơi chảy tí nước dãi và râu lún phún nhưng cằm ông trông rất mạnh mẽ và hài hòa. Bàn tay to lớn và tinh tế. Bà với tay qua lối đi và lấy điếu thuốc trên đầu ngón tay ông, lén hút rít một hơi nhỏ trước khi dụi nó vào gạt tàn.
Ở Surrey và Berkshire, hàng trăm cảnh sát tiếp tục tìm kiếm trong bụi rậm và hàng rào trong cái lạnh ẩm ướt. Họ đi qua các ngôi làng để phát thông báo. Archie được cho xem một bản sao của thông báo Những người mất tích và anh nói rằng bảng mô tả đó như một nhát dao đâm vào trái tim anh. Mảnh dẻ. Da trắng. Thời trẻ, anh từng gặp cô trong các phòng khiêu vũ. Lụa đào và những đốm tàn nhang nhạt. Xoay người và mỉm cười. Trong một bữa tiệc tại gia, người ta đang cho ngựa phi nước đại quanh cánh đồng, cô không thèm mặc bộ đồ cưỡi ngựa và chỉ mặc một chiếc váy màu hồng. Cô đeo những lọn tóc giống như tất cả các phụ nữ thời đó. Lọn tóc bay khỏi đầu và cuốn theo chiều gió. Những lọn tóc dài trông có vẻ lôi cuốn khi gắn lên tóc cô giờ đây trông ghê rợn như một bộ phận cơ thể bị bỏ đi. Agatha trượt xuống bên hông yên ngựa để lấy lại những lọn tóc. Archie giữ chặt dây cương của mình, anh tham gia chuyến đi này vì nghĩa vụ hơn là vui thích. Cha anh là một thẩm phán trong Dịch vụ Dân sự Ấn Độ, ông đã qua đời sau một cú ngã ngựa, một vết thương ở đầu khiến ông bị nhiễm trùng não. Nhìn Agatha cưỡi ngựa, bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng bộ môn này có thể dẫn đến thương tích hoặc tử vong. Phải chăng tiếng cười đùa của cô đã tạo nên một cảnh tượng... như thế nào nhỉ? Một tay cầm váy, tay kia giơ mớ tóc lòa xòa lúc nãy, cười ngặt nghẽo suốt một hồi lâu nhưng vẫn trong tầm kiểm soát để hoàn thành nhiệm vụ trước mắt rồi tự mình đu người lên ngựa trở lại. Thật là một môn thể thao tuyệt vời. Thật là vui vẻ.
Suy nghĩ của Archie sẽ là: Tôi không thể tưởng tượng được cảnh Nan sẽ xử lý tình huống tóc bay ra khỏi đầu mà vẫn có thể cười phá lên từng tràng vui vẻ giống như vậy. Liệu cô ấy có biết cách cưỡi ngựa không? Phương pháp giáo dục khác nhau hoàn toàn.
Thật ra, Archie khó lòng nghĩ đến tôi lúc này, anh còn đang bận nghĩ đến vợ, về những điều anh từng yêu ở cô. Da trắng và mảnh dẻ. Có phải cô ấy trông như thế không? Bằng cách nào đó anh đã quên mất.
Anh đã chú ý đến cô khi họ gặp nhau lần đầu tại một vũ hội ở Chudleigh. Một tuần sau, anh đã chạy xe máy đến tận Torquay để gặp cô. Anh biết cô đã đính hôn với gã khác nhưng đó chẳng phải là một trở ngại lớn. Khi Archie quyết tâm đạt được thứ gì đó, anh ấy sẽ giành được nó. Agatha nhanh chóng nhận thấy đặc điểm này trong con người anh nhờ vào con mắt của một nhà văn. Cô ấy không quan tâm đến vấn đề tình cảm, cô thêm chuyện tình cảm vào những trang sách của mình vì nó hợp thời. Cô đặc biệt không thích những mối tình lãng mạn xuất hiện trong tiểu thuyết trinh thám - nó khiến người đọc phân tâm.
Ôi, cô ấy cũng từng bị Archie làm cho mất tập trung một lần. Giờ cô biến mất, tất cả những thứ này đột ngột quay lại tâm trí anh. Như thể khi vật chất hữu hình là cơ thể cô đã ra đi thì những thứ vô hình (tất cả những ký ức và cảm xúc) bắt đầu trào dâng cùng lúc cô rời khỏi. Bây giờ điều khiến anh phân tâm là không thể nhìn thấy cô, giống như thể nhìn thấy cô thì có thể giải quyết mọi chuyện. Phó cảnh sát trưởng Thompson và đám lính của ông ta nhìn Archie cứ như họ có thể nhìn thấy từ bàn tay anh dính máu. Anh đang tính toán xem ai biết chuyện giữa anh và Nan, và ai là kẻ đáng ngờ. Gia đình Owen này, anh có thể tin tưởng cặp đôi đó sẽ giữ kín mọi chuyện. Tiếp đó là Honoria, có thể cô ta đã nói với người đầu bếp, nói với chồng và cả quản gia nữa. Có lẽ người giúp việc mới không biết chuyện gì nhưng những người làm còn lại biết hầu hết mọi chuyện và bây giờ cảnh sát thậm chí đang phỏng vấn từng người một trong số họ.
“Suy nhược thần kinh.” Archie vội nói với Phó cảnh sát trưởng Thompson, trước khi viên cảnh sát có cơ hội đặt một câu hỏi nào. Anh nhìn thấy đôi mắt của Thompson nheo lại, rõ ràng ông ấy đang phát hiện ra điều gì đó đáng ngờ nhưng Archie không thể kìm bản thân mình lại. “Cô ấy đang trải qua trạng thái bị kích động thần kinh nặng nề.” Như thể việc nói ra điều vừa rồi có thể lấp lại cái hố mà anh vừa tự đào.
“Tôi hiểu rồi.” Thompson trả lời. Ông có một bộ ngực vạm vỡ giống như ngực những người đàn ông tập thể hình trong nhiều năm. Một bộ ria mép màu xám đầy ấn tượng và lúc nào cũng mang vẻ mặt đang quở trách người khác. Đừng nói những lời vô nghĩa với tôi, Thompson đã gần như nói ra, và tôi sẽ không để ông tự đào hố chôn mình nữa. “Cô ấy đã đi khám bác sĩ chưa?”
“Ôi Chúa ơi, không đâu,” Archie nói. “Chúng tôi đều không tin vào giải pháp đó. Không khí trong lành và sự chịu đựng sẽ khiên tâm trí con người phục hồi tốt hơn.”
Thompson gật đầu như thể hiện sự công nhận đối với triết lý đó.
Honoria dõi theo cuộc trao đổi này trong lúc đang vòng tay ôm lấy bản thân như để giữ tất cả những gì cô biết trong lòng. Agatha đã viết hai bức thư, một bức cho Archie và một bức cho Honoria. Trong đó nói rằng, “Tôi sẽ đến Torquay vào cuối tuần.” Honoria đã giao nộp bức thư cho cảnh sát nhưng vẫn chưa đề cập đến sự việc ồn ào hôm sáng thứ Sáu hay chuyện Archie ngoại tình. Dù rất yêu mến Agatha nhưng nếu cô chủ không bao giờ quay trở lại thì Archie sẽ là người chịu trách nhiệm cho sinh kế của cô. Người đàn ông này là một kẻ đáng khinh nhưng chắc chắn (có vẻ như?) không phải một kẻ giết người. Honoria hy vọng có thể tiếp tục ở lại Styles, chăm sóc Teddy, ngay cả khi nữ chủ nhân của căn nhà không bao giờ quay trở lại nữa. Với lại chẳng phải những lá thư đã chứng minh rằng Agatha đã lên kế hoạch cho tất cả mọi chuyện, rằng thật ra cô ấy đã bỏ đi chứ không phải bị biến mất sao? Sẽ chẳng ai thèm ngạc nhiên vì sự vắng mặt của cô ấy hoặc kiểm tra xem liệu cô ấy có thực sự đang ở Torquay không (cô ấy không ở đó) nếu như chiếc xe không bị vứt giữa đường: bằng chứng đáng ngại về một điều gì đó khủng khiếp có thể xảy ra, rằng Agatha chắc chắn đã không tới được nơi cô ấy định đến dù đó là nơi nào đi nữa.
***
Khi tôi bỏ trốn đến Ireland, tôi không để lại bất cứ bức thư nào cho bố mẹ. Mẹ tôi thấy hộp trà bằng thiếc trống rỗng không còn một xu, vậy là đủ thông tin bà cần. Tôi tưởng tượng đến cảnh bà ôm chiếc hộp vào ngực, than thở tôi đã bỏ qua một phần trong kế hoạch của bà rằng sẽ đưa bà đi cùng tôi.
***
Khi tôi mất tích, ngay sau chiến tranh, chưa tới một trăm cảnh sát ở Anh tham gia tìm kiếm. Tất cả họ đều đã rời đi để trở thành những người lính và mất rất nhiều thời gian để quay trở lại với nhiệm vụ của họ. Tôi lại không phải là một tác giả hay một người vợ. Chỉ là một cô gái đáng hổ thẹn trong một gia đình chật vật kiếm từng đồng mưu sinh, ngày nào cũng có người mất tích giống tôi. Thế giới này không có đủ cảnh sát để tìm kiếm tất cả.
***
Nhưng để tìm kiếm Agatha Christie, hàng nghìn người bao gồm cảnh sát và người dân địa phương, chó săn, thậm chí cả máy bay, lùng sục từng centimet một trong mỗi cánh rừng. Ngay cả khi trời đã tối, họ vẫn cầm ngọn đuốc tản ra khắp nơi. Tìm kiếm và tìm kiếm. Phần lớn những người trong đám đông này đến Surrey và Berkshire còn các thanh tra được cử đi khắp đất nước. Không thể giải thích được, nhưng có vẻ như sức mạnh tuyệt đối của nỗi thống khổ đã khiến cô ấy trở thành người quan trọng nhất trên trái đất.
BIẾN MẤT
Ngày thứ ba
Thứ Hai, ngày 6 tháng Mười hai năm 1926
Tin đặc biệt từ Thời báo New York:
Khuôn viên Styles luôn ồn ào bởi tiếng của các sĩ quan cảnh sát trong suốt hai ngày cuối tuần, giờ lại thêm các phóng viên mới đến. Không thể trốn tránh những câu hỏi dai dẳng của đám người này, cô hầu gái mới Anna đã buộc miệng nói với một viên cảnh sát đẹp trai rằng Archie và Agatha đã có một cuộc cãi vã tồi tệ vào buổi sáng ngày cô ấy biến mất.
“Cô ấy dường như không còn là chính mình nữa.” Anna rưng rưng nước mắt nói. “Cô ấy làm sao có thể là chính mình sau những lời đó cơ chứ? Anh ta đã nói những điều rất tàn nhẫn với cô ấy.”
Viên sĩ quan vỗ vai cô một cách vụng về. Cô bước lại gần anh hơn và anh choàng tay ôm cô. “Đúng vậy, đúng vậy.” Anh ta nói. “Đàn ông đúng là khốn nạn mà, phải vậy không?”
Cô ấy nâng khuôn mặt say đắm và thấm đẫm nước mắt của mình lên. “Anh có vẻ là người tốt.”
“Tôi nghĩ tôi đúng là người tốt thật.” Anh ta nói như thể anh ta vừa mới quyết định ngay trong giây phút đó.
Sau một cuộc dạo chơi khá vui vẻ (họ sẽ kết hôn vào tháng Hai năm sau), Anna và viên sĩ quan quay trở lại Trụ sở Cảnh sát Berkshire để cung cấp thông tin mới cho Phó cảnh sát trưởng Thompson. Ông ta cau mày vì sau một ngày cuối tuần dày công tìm kiếm thì tin tức như vậy mới được đưa ra ánh sáng. Cánh nhà báo nắm được thông tin về vụ mất tích đã tệ lắm rồi, bây giờ còn thêm chuyện này nữa.
“Ông nghĩ đại tá đã giết người phụ nữ lớn tuổi kia ư?” Viên sĩ quan trẻ hỏi.
Thompson khịt mũi. Những người trẻ đều nghĩ rằng bất cứ ai sinh trước họ một phút đều là người già đúng không? Tên đáng thương này không biết rằng tuổi ba mươi sáu sẽ đến với anh ta trước khi anh ta kịp chớp mắt. Thompson có một cô con gái bằng tuổi Agatha, thậm chí còn sinh cùng năm và cùng tháng. Vì vậy, ông ghét nghĩ đến bất cứ điều gì tồi tệ đang xảy ra với cô ấy.
“Chúng ta vẫn chưa thể nắm rõ được điều gì phải không nào?” Thompson đáp lời.
“Nhưng thưa ông cảnh sát…” Anna bối rối với tình huống kịch tính như phim đang diễn ra trước mắt nên chỉ dám nói thì thầm.
“Nếu cô muốn nói điều gì thì làm ơn hãy nói đủ lớn để người khác nghe nữa.” Thompson không muốn ngắt lời cô ta nhưng ông thật sự chán ghét những kẻ nói chuyện thì thầm.
“Tôi nghĩ chuyện đó có thể liên quan đến một người phụ nữ. Một người phụ nữ khác.”
Giọng cô chẳng lớn hơn chút nào nhưng Thompson nghe thấy rất rõ ràng và mặt ông tối sầm lại. Nếu chồng của con gái ông dám làm bất cứ điều gì tương tự, Thompson sẽ vặn cổ thằng đó ngay lập tức. Ông đứng phắt dậy. “Tôi nên quay lại Styles và nói chuyện riêng với Đại tá Christie.”
“Ồ,” Anna nói. “ông ấy đã đi London rồi. Ông ấy nói sẽ bắt Scotland Yard10 vào cuộc.”
10 chỉ trụ sở Sở Cảnh sát Thủ đô
“Hẳn là Scotland Yard cơ đấy!” Làm như những kẻ giàu có này chỉ cần búng tay một cái là thuê được họ vậy. Tệ hơn nữa là ông ta làm như cảnh sát Berkshire không thể tự mình xử lý vụ này. Trước đây Thompson cũng biết Archie Christie là một kẻ ngạo mạn. Bây giờ ông còn biết thêm rằng hắn là một kẻ ngạo mạn đê tiện. Không gì đáng nghi hơn một người đàn ông có quan hệ ngoài luồng với một con điếm. Giờ ông Thompson cảm thấy lo cho an nguy của Agatha Christie hơn bao giờ hết.
***
Archie vẫn không hề hay biết hành vi lừa dối của mình đã bị lộ. Chuyện duy nhất anh biết đó là cảnh sát Berkshire và Surrey đều là những kẻ vô dụng, không thể tìm thấy dù chỉ một sợi tóc của Agatha. Anh mừng vì dường như họ không biết tới những mối quan hệ ngoài luồng của anh. Nhưng nếu họ biết thì nó có thể chứng minh được năng lực điều tra của họ? Archie đã nhờ luật sư của mình sắp xếp một cuộc gặp với Scotland Yard nhưng việc đó lại dẫn tới một ngõ cụt khác.
“Xin thứ lỗi, thưa ngài đại tá.” Một người thanh tra trẻ tuổi lắc đầu. Anh ta gầy đến mức trông như thể việc tiêu hóa thức ăn thôi cũng là một việc khiến anh kiệt sức. Mặc dù thời gian trong nghề này của anh ta chưa lâu nhưng những cuộc hôn nhân cùng với những người phụ nữ ly dị trong giận dữ đều nằm trong sự hiểu biết của anh. “Nếu cảnh sát địa phương yêu cầu sự giúp đỡ của chúng tôi, thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý cả hai tay. Nhưng từ giờ đến đến lúc đó?” Anh ta giơ hai tay lên trời, ý rằng họ không sẵn sàng chút nào.
Archie ghét phản bội tình cảm nhưng anh sợ rằng mình đã làm vậy mất rồi, anh đưa một tay lên trán để che đi đôi mắt của mình. Anh vội xua những suy nghĩ ấy đi ngay lập tức, cảm thấy khó chịu vì có thể viên thanh tra sẽ nghĩ rằng anh đang khóc. Để không nghĩ đến những chuyện khác, Archie nghĩ tới đêm cuối cùng của anh với vợ. Tại sao anh lại để bản thân chìm đắm vào điều đó? Chắc cô sẽ dễ dàng chấp nhận chuyện này hơn nếu anh cứ đơn phương dứt áo ra đi nhỉ? Hoặc nếu ngay từ đầu anh không bị Nan cám dỗ thì mọi chuyện giờ sẽ thế nào? Trên sân gôn hôm ấy, anh nhìn thấy cô từ xa, cô đánh một cú thật tuyệt vời. Cú đánh tuyệt nhất trong số những người phụ nữ mà anh từng thấy. Cũng trưa ngày hôm đó anh lại bắt gặp cô lần nữa khi cô đang uống rượu gin và thuốc bổ ở sân sau. Anh đã sải bước tới như thể anh có mọi quyền hạn đối với cô và cô nháy mắt trong những tia nắng khi cô chìa tay về phía anh. Trông cô vừa e lệ vừa ranh mãnh, khóe môi cô khẽ nhếch lên một nụ cười cứ như cô biết tất cả mọi chuyện sắp xảy ra. Dạo này anh thế nào, Đại tá Christie. Giọng của cô trầm thấp, một chất giọng hết sức tuyệt vời. Anh không thể tin nổi khi cô nói rằng cô là thư ký của Stan.
Thật là một sai lầm. Thật là một sai lầm khủng khiếp và gây đổ máu. Nan đã sử dụng cách cư xử cô học được để kết bạn với con gái của ông chủ và được vào câu lạc bộ đồng quê. Lẽ ra anh chỉ nên xem cô là một người khách của họ chứ không nên biến cô thành của riêng mình. Agatha không cần phải học cách cư xử, cô sinh ra đã biết cách cư xử rồi, cô ở cùng một thế giới với Archie. A.C và A.C. Họ thật hợp nhau. Giữa lúc gia đình đang có chuyện khẩn như thế này, Nan có vẻ như một người ngoài xen ngang vào gia đình họ. Việc đó gây khó chịu và không chút phù hợp nào.
Khi bước chân ra đường, Archie chớp mắt trong ánh nắng ban ngày của thành phố. Anh vẫn đứng do dự trên vỉa hè, xung quanh là đám đông nhộn nhịp. Bên kia đường, một người phụ nữ cao lớn với những sải chân dài lọt vào tầm mắt anh, anh biết đó không phải vợ mình nhưng vẫn băng qua đường. Người phụ nữ mặc một chiếc áo khoác lông sẫm màu, chắc chắn Agatha cũng có một cái giống vậy. Cô ấy rẽ xuống một con phố, rồi con phố khác, rồi vòng qua một góc đường. Khi anh quẹo qua cùng một góc đường đó thì cô đã biến mất như tan biến vào hư không.
Vô lý hết sức. Chắc cô ấy chỉ vừa đi vào một tòa nhà nào đó mà thôi. Chẳng thể đuổi theo được nữa, Archie đi lấy xe và quyết định đến căn hộ của tôi. Anh đậu xe trên đường và nhìn chằm chằm vào cửa sổ phòng tôi. Không có dấu hiệu có người ở phòng. Có thể lúc đó tôi đang đi làm. Đi làm! Giữa cái mớ hỗn độn này. Thật là xa xỉ, giả vờ bận rộn như thường ngày. Có lẽ anh nên đến thẳng văn phòng, có lẽ nếu anh cư xử như thể mọi thứ vẫn bình thường thì mọi chuyện sẽ trở nên bình thường thật. Agatha sẽ trở lại, bước vào mà không thèm gõ cửa giống như trước. Cô sẽ vui vẻ hân hoan, ăn vận sang trọng và nỗ lực quá mức. Lần này đến cô sẽ thấy anh ở một mình. Anh sẽ ôm cô vào lòng và trao cho cô một nụ hôn đúng nghĩa. Đương nhiên là anh muốn ăn trưa với cô vợ xinh đẹp của mình rồi.
Sao anh lại bỏ lỡ điều này chứ? Chuyện gì đã đẩy cô ấy đến bờ vực này? Hay anh đã nhìn thấy hết mọi việc nhưng đơn giản là anh không thèm quan tâm? Ngày xưa ấy đã từng có lúc anh bảo vệ Agatha thái quá do anh ghen tuông quá mức, anh không thể chịu nổi dù đó chỉ là một người phục vụ nam nói chuyện với cô ấy. Anh đã nói với cô rằng anh không bao giờ muốn có con trai bởi vì anh không bao giờ muốn thấy cô say mê người đàn ông khác. Cô chỉ được say mê anh và chỉ mỗi anh thôi.
Anh ra khỏi xe, xỏ tay vào túi, nhìn chằm chằm vào cửa sổ phòng tôi như đang chờ đợi một dấu hiệu. Nếu anh nhìn thấy bất kỳ chuyển động nào, anh sẽ chạy đến và gõ cửa. Và nếu tôi mở cửa, anh biết anh sẽ ôm lấy tôi vào trong vòng tay mình và tạm quên những chấn động khủng khiếp vừa xảy ra. Bất chấp tất cả những cảm xúc thực sự của anh lúc nãy và mong muốn tìm được vợ, bất chấp mong muốn thay đổi những điều anh đã gây ra cho vợ trong lúc vội vàng và thiếu suy nghĩ. Anh xứng đáng được làm điều đó. Dù thế nào đi nữa, một người đàn ông xứng đáng được làm điều đó để quên đi những muộn phiền của mình. Cho dù việc Agatha có thể về nhà chẳng thể nào thay đổi được những chuyện anh đã làm. Nếu anh biết đêm ở nhà Owen là lần cuối cùng thì anh đã làm tình và tận hưởng cảm giác đó nhiều hơn một chút nữa, giống như lần cuối của anh với Agatha.
Một phụ nữ trẻ xinh xắn trong chiếc áo khoác mùa đông đã sờn hối hả đi ngang qua, cô ấy quắc mắt nhìn Archie như thể cô ấy đọc được từng suy nghĩ trong anh. Anh thôi nhìn cô ta, mắt lại hướng lên cửa sổ phòng tôi xem có bóng người nào vụt qua không.
Không có. Anh ấy có biết tôi không yêu anh ấy không? Không. Archie không phải loại người biết được những điều như vậy.
Anh xoay người đi về phía chiếc xe, vành mũ hướng ra vỉa hè. Ý nghĩ Agatha đã chết ở nơi nào đó hoặc đang bị thương hay chỉ có một mình thật quá sức chịu đựng. Ngày xưa anh đã cảm thấy may mắn biết bao khi cô đối xử dịu dàng với anh. Đã bao lâu rồi từ khi anh được hưởng sự may mắn đó như một lẽ đương nhiên, chẳng cần đến một lời cảm ơn? Còn bây giờ, mọi việc xảy ra khiến thế giới của anh không còn như vậy nữa. Đêm đó, tại Styles, Archie đã làm một việc mà anh chưa từng làm trong suốt bảy năm kể từ khi Teddy chào đời. Anh đặt con bé lên giường và dỗ nó ngủ.
“Có chuyện gì không ổn vậy, thưa cha?” Việc anh ngồi trên giường con bé, luộm thuộm trong chiếc áo sơ mi, đôi mắt mờ đục vì rượu whisky và vì hối hận làm phiền con bé nhiều hơn là ân cần chăm lo cho nó. Peter nép vào bên cạnh Teddy, con chó luôn là niềm an ủi của con bé, cô bé luồn tay vào bộ lông xù xì của nó.
“Không có chuyện gì cả, con yêu.” Archie dịu dàng vuốt trán con bé như kiểu một người bố có thể mất mọi thứ trừ con mình. “Bố chỉ muốn nói lời chúc ngủ ngon với cô con gái nhỏ của mình thôi. Làm sao có chuyện không ổn được chứ?”
“Không ạ.” Teddy đã kéo chăn lên trên cằm, chớp chớp mắt trong bóng tối, ước gì bố và sự khác thường của ông rời khỏi đây. Một đứa trẻ không thích cảm giác phải chịu trách nhiệm về trạng thái cảm xúc của người lớn. Nếu anh không ảm đạm và thay đổi nhanh đến mức khó chịu như vậy thì có thể cô bé đã yêu cầu anh đọc lại cuốn Winnie the Pooh. Honoria đã đọc hết cuốn sách một lần nhưng con bé muốn nghe lại lần nữa và việc tự đọc cuốn sách một mình là công việc rất khó nhọc.
“Mẹ có trở lại không ạ?”
“Tất nhiên là mẹ sẽ trở lại.” Giọng anh trở nên hơi gay gắt. “Mẹ luôn luôn quay lại mà, không phải sao?”
“Ý con là tối nay này.”
“Xin lỗi nhưng không đâu. Ta không nghĩ mẹ con sẽ quay về trong tối nay.” Anh chẳng có ý định nào để ngăn Teddy biết sự thật, mọi chuyện ồn ào xung quanh con bé đều nhằm tìm kiếm người mẹ đang mất tích của nó. Chỉ có thể thẳng thừng phủ định sự thật thôi. Mưu mẹo này chẳng thể dùng được lâu trong khi cả nước Anh đang sôi sục kiếm tìm.
“Giờ thì ngủ ngon nhé, Teddy.” Anh hôn lên trán con bé.
Con bé nhắm chặt mắt lại, vờ như nụ hôn ấy đã đưa nó vào giấc ngủ.
***
Đối với tôi, cùng một ngày đó có sự khởi đầu khác xa với tất cả những ồn ào ầm ĩ đó. Tôi đã đến Khách sạn Bellefort vào tối hôm trước. Đây là một nơi có không gian ấm cúng và không quá phô trương, điểm đến hoàn hảo cho những ai muốn ẩn mình một thời gian ngắn. Người phụ nữ ở quầy lễ tân chào đón tôi một cách nồng nhiệt. Qua vẻ ngoài và giọng nói thì chắc cô ấy đến từ Tây Ấn.
“Tôi là Leech.” Bà ấy nói bằng chất giọng Caribbean du dương của mình. “Cô có thể nói với tôi nếu cô cần thứ gì. Bất cứ thứ gì nhé.”
Bà ấy đưa cho tôi một cây bút máy để ký nhận phòng. Tôi dừng lại trong giây lát. Tôi đã đặt chỗ với tên phu nhân O’Dea, một phụ nữ trẻ chưa lập gia đình mà thuê khách sạn một mình thì nghe có vẻ không hợp lý lắm. Thêm một cái tên khác vào họ tên mình, tôi viết “phu nhân Genevieve O’Dea.” Một vết xước đau đớn cứa lấy cổ họng tôi. Genevieve là cái tên tôi đặt cho đứa con đã mất của mình, có lẽ tôi nên viết là Genevieve Mahoney để tôi được nhìn thấy nó trên giấy ít nhất một lần.
“Cảm ơn bà Leech.” Tôi nói. “Tôi có thể dùng bữa tối trong phòng mình không?”
“Tất nhiên là được. Tôi sẽ phục vụ cô một bữa ăn tuyệt vời.”
Một người phụ nữ mặc áo choàng của khách sạn (chắc cô ấy vừa thực hiện xong một liệu trình spa) đang tiến đến cầu thang, đột nhiên cô ta đổi hướng và chạy đến quầy lễ tân. “Dùng bữa tối trong phòng!” Cô ấy nói với bà Leech. “Vấn đề là tại sao lại không nhỉ? Nếu bà vui lòng thì chúng tôi cũng sẽ ăn tối trong phòng”
“Vâng, đương nhiên là được, thưa bà Marston.”
Người phụ nữ - bà Marston quay sang nhìn tôi. Cô ấy trạc tuổi Agatha, có lẽ là lớn hơn một hoặc hai tuổi. Khuôn mặt cô ấy tròn trịa và vui vẻ, hai má hồng hào.” Ông Marston và tôi đang đi hưởng tuần trăng mật,” cô ấy nói và nhìn thẳng vào tôi nhưng tôi nghi ngờ là cô ấy không thật sự để ý đến sự hiện diện của tôi. “Còn phải giữ sức nữa, cô biết rồi đấy!”
Bà Leech và tôi liếc nhanh qua nhau để cùng chia sẻ sự chán ghét khi phải nghĩ về chuyện đó.
Buổi sáng tới mau. Tôi biết mình không thể ở lì trong phòng mãi vì vậy tôi đi xuống lầu để ăn sáng. Bellefort là một nơi thoải mái nhưng không phải là một nơi đặc biệt sang trọng. Nó sẽ không thể trở thành bối cảnh trong số những cuốn tiểu thuyết của Agatha. Nhưng E. M. Forster sẽ thích nơi này, một nơi có những chiếc ghế thoải mái để bạn thả mình xuống nhưng tay vịn đã mòn vẹt. Tôi đi đến phòng ăn, ngồi xuống và yêu cầu phục vụ thêm kem.
“Có phiền không nếu tôi cùng ngồi với cô?” Một cô gái người Mỹ tiến đến hỏi tôi.
Tôi ngước lên, cô ấy trạc tuổi tôi, mái tóc vàng bồng bềnh, khuôn mặt thể hiện sự năng động và thông minh. Dù còn nhiều bàn ghế trống xung quanh nhưng tôi gật đầu thay vì chỉ ra điều đó. Cô ấy ngồi đối diện với tôi và mỉm cười.
“Tên tôi là Lizzie Clarke.” Cô ấy nói to hơn mức cần thiết, một người Mỹ điển hình.
“Tôi đến đây với chồng, anh ấy vẫn đang ngủ, anh ấy thích ngủ nướng lắm. Có lẽ giờ anh đang tắm nước nóng cho tỉnh ngủ.” Cô ấy lại cười, lần này tiếng cũng quá lớn.
Tôi liếc quanh phòng để xem những thực khách khác có cảm thấy phiền không. Lizzie xem cử chỉ của tôi là đang đề nghị cô ấy cung cấp thông tin về những người xung quanh. Lizzie chỉ vào một người phụ nữ xinh đẹp tuyệt vời và trông rất trẻ, chắc lúc chiến tranh diễn ra cô ấy vẫn là một đứa bé. Mái tóc bạch kim của cô gái đó gần như là màu trắng.
“Đó là phu nhân Race.” Lizze nói
Race ngồi một mình, nhìn chằm chằm ra cửa sổ một cách cô độc.
“Cô ấy thật xinh đẹp làm sao.” Tôi nói với một tông đủ giọng ấm áp để Lizzie xem đó như một lời tán dương. “Chắc cô ấy không đến đây một mình đâu nhỉ?”
“Ồ không đâu. Cô ấy đến cùng chồng. Họ đang đi hưởng tuần trăng mật.”
“Tôi từng gặp một người phụ nữ khác ở đây và cô ấy cũng đang trong tuần trăng mật.”
“Ồ,” Lizze đáp. “Tôi cũng gặp cô gái đó rồi, hài lòng về tuần trăng mật hơn nhiều so với cái cô đang ngồi đằng kia.”
Tôi lại liếc nhìn cô dâu trẻ, môi dưới của cô gái tội nghiệp đang run lên.
Lizzie nói, “Cô ấy và anh chồng mới cưới dường như chẳng làm gì khác ngoài việc tranh cãi. Tuần trăng mật của người già thì vui vẻ còn tuần trăng mật của những người trẻ thì lại không vui. Thật đáng thương cho những người không có một kỳ trăng mật vui vẻ nhỉ?”
Tôi cười. “Cô rất thích quan sát mọi người đúng không?”
“Đó là sở thích lớn nhất của tôi” Lizzie thừa nhận với một nụ cười tự ti khiến tôi cảm thấy quí mến cô ấy hơn.
Những vị khách tiếp theo bước vào là cặp đôi lớn tuổi hơn đang hưởng tuần trăng mật, ông bà Marston. Họ ngồi ở phía xa của phòng ăn và tôi bắt đầu đắm chìm một chút vào việc quan sát mọi người. Bà Marston có mái tóc đen và một vài sợi tóc bạc, bà có tấm lưng khá rộng và đầy đặn. Tôi nhìn chằm chằm qua vai bà ấy để nhìn thẳng vào người chồng. Ông Marston có gương mặt đỏ ửng, chảy xệ. Dường như ông không để ý đến tôi, ông chỉ nhìn chăm chú đến người vợ mới cưới. Thật ngọt ngào.
“Nói cho tôi nghe đi,” Lizzie nói khi chúng tôi đã ăn xong, “cô định đi tắm à? Cô có muốn đi dạo trước không? Chúng ta sẽ cảm thấy dễ chịu và hơi lạnh, vì vậy sau đó đi ngâm mình trong nước nóng cô sẽ thấy thoải mái hơn nhiều.”
Lizzie đứng dậy, tôi đẩy ghế ra sau, chúng tôi cùng nhau rời khỏi phòng ăn sau đó về phòng lấy quần áo ấm trước khi hẹn nhau ra ngoài tham quan con đường lạnh giá, bầu trời xám xịt giá lạnh phủ quanh chúng tôi. Quả là một ý tưởng hay khi làm bản thân cảm thấy dễ chịu và lạnh trước khi trở lại khách sạn Bellefort ngâm mình, và chúng tôi vẫn bị lạnh dù có mặc thêm áo khoác, đội mũ và mang găng tay đi chăng nữa.
“Chồng của cô là người như thế nào?” Tôi hỏi trong lúc chúng tôi đang đi bộ. Nếu cô ấy có thể thẳng thắn thì tôi cũng vậy.
“Anh ấy đáng yêu lắm.” Cô ấy nói. “Tôi khuyên cô nên quen đàn ông Mỹ, họ khác với người Anh, có nhiều cảm xúc và biểu cảm hơn.” Mặc kệ ánh nhìn của những vị khách khác, cô ấy luồn tay qua khoác tay tôi như thể chúng tôi là những người bạn cũ.
“Thật thú vị,” tôi nói. “khi cô nói những lời tốt đẹp về anh ấy. Không phải phụ nữ nào cũng nói vậy về chồng họ đâu. Họ chỉ toàn phàn nàn và nói xấu chồng thôi, rồi sau đó họ ngạc nhiên khi những ông chồng bỏ đi với người khác.”
Lizzie bật cười, cô dừng lại và châm một điếu thuốc, che ngọn lửa trên que diêm bằng đôi bàn tay đang đeo găng của mình. “Nếu những lời phàn nàn về anh chồng là đúng, thì sớm muộn gì người đi cùng anh ta cũng sẽ phàn nàn anh ta. Có lẽ là những lời phàn nàn giống hệt cô vợ cũ ấy chứ. Đúng không?”
Tôi kéo nhẹ chiếc mũ của mình về đúng vị trí cũ. Tôi đã rất nỗ lực để có vẻ ngoài trông đáng kính và có trách nhiệm, phù hợp với hình ảnh một phụ nữ đã kết hôn đang tận hưởng kỳ nghỉ. Điềm tĩnh, chẳng chạy trốn điều gì hết mà chỉ đơn giản là muốn dành một chút thời gian cho bản thân.
Ánh mắt của Lizzie rời khỏi tôi để tiếp tục tập trung vào con đường phía trước. Một người đàn ông trẻ xuất hiện và đi về phía chúng tôi. Anh ta cao, bước đi tao nhã. Ngay cả ở khoảng cách hơn trăm mét, có thể thấy anh ta nhìn chằm chằm về phía này và trực tiếp đi về phía chúng tôi như đang có chuyện gấp cần nói.
“Trông anh ấy không ổn lắm.” Lizzie thì thầm.
Tôi vẫn tập trung vào người đàn ông và không nhìn cô ấy. Ấn tượng của tôi hoàn toàn trái ngược với Lizzie. Tôi thấy anh ta trông khá ổn. Hầu như không có gì trong cuộc sống này khiến tôi phải đột ngột kiểm soát và giữ tâm trí bình tĩnh để giọng không thay đổi khi nói trừ khoảnh khắc này. “Thật kỳ lạ, tình cờ là tôi biết anh ấy. Cô có phiền tránh mặt một lát không?”
“Không phiền đâu.” Cô ấy hơi rùng mình. “Tôi sẽ chuẩn bị một ít nước nóng. Vậy lát nữa tôi gặp cô trong bồn tắm nhé?”
“Chắc vậy.” Tôi trả lời vậy nhưng đã bắt đầu đi theo hướng ngược lại.
“Đừng dễ tin người lạ quá đó.”
“Cảm ơn.” Tôi nói mà không nhìn lại cô ấy. “Cảm ơn cô đã nhắc nhở.”
Đôi chân của tôi di chuyển nhanh chóng như hồi tôi còn nhỏ, đưa tôi về phía người đàn ông. Cứ như đang vội vàng hướng đến những điều tốt đẹp nhất của quá khứ. Bầu không khí đã thay đổi. Bầu trời mở ra để ban tặng một món quà khi tôi không xứng đáng được nhận nhất.
Anh ta mặc một chiếc áo len vặn thừng và khoác bên ngoài một chiếc Peacoat không cài cúc bất chấp cái lạnh ngoài trời. Tóc đen ngang trán. Nụ cười đã bị dập tắt trong mắt anh nhưng chúng vẫn còn vẹn nguyên ở dưới màu mắt xanh lam đáng yêu nhất. Gót giày của tôi rất nặng, ổn để đi lại nhưng chẳng hợp để chạy. Tôi không thể ngăn mình chạy nhưng vẫn không thể đến trước mặt anh ta đủ nhanh. Áo khoác của tôi cũng bị bung ra. Nếu tôi lao vào vòng tay anh ấy, tôi biết anh ấy sẽ đón lấy và xoay vòng tôi trên không trung, nhưng vì lý do nào đó tôi đã dừng lại mà không làm như vậy. Đứng nhìn anh, chắc chắn chuyện này là sự thật, có vẻ quan trọng hơn là ôm chầm lấy anh.
“Finbarr.“ Tôi thốt lên. “Có thật không vậy?”
“Chào em, Nan.” Anh ấy nắm lấy tay tôi và đưa bàn tay tôi lên môi anh, đặt lên đó ba nụ hôn. “Anh luôn nhớ đến em.”
***
Ở Berkshire và Surrey, họ giống như đang tìm kiếm một người phụ nữ đã chết. Hồ Silent Pool, bụi cây, mương. Chó săn sủa vang, mũi chúi xuống đất. Nếu người ta tìm thấy Agatha Christie gần nhà của cô ấy thì đó là vì cô tự tử hoặc bị ai đó giết.
Nếu tìm thấy cô ấy ở những nơi khác trên đất nước Anh thì có nghĩa là các nhà chức trách đã tìm kiếm một người còn sống đang lẩn trốn. Có những sĩ quan cảnh sát từ Land’s End đến Cold Stream và đưa bức ảnh của Agatha cho khách và chủ khách sạn xem. Bạn có từng nhìn thấy người phụ nữ này chưa? Chilton là một trong số nhiều người từng trải qua quá trình này. Ông được giao nhiệm vụ tìm kiếm cô ấy, vì vậy kế hoạch của ông là tự mình thực hiện. Vào ngày đến khách sạn, ông đóng vai một vị khách bình thường, nhận phòng và ăn tối trong phòng ăn thưa thớt khách. Vợ của Simon Leech đã dẫn ông vào một cái bàn và để ông ngồi đối diện với một phụ nữ trẻ đẹp với mái tóc đen dày, theo lời bà Leech giới thiệu thì cô ấy tên Cornelia Armstrong.
“Chắc chắn cô không đến đây một mình nhỉ.” Chilton nói với cô Armstrong trước khi ông có thể ngăn mình lại.
Cô Armstrong mỉm cười như thể cô thấy sự ngờ vực của ông là một lời khen. “Tại sao chứ, chắc chắn là tôi đến một mình rồi.” Cô nói kèm theo một lời chỉ trích. “Giờ là năm 1926, ông không biết ư? Những người đàn ông tầm tuổi tôi ra trận hết rồi. Tôi chắc chắn có thể tự mình đến spa.”
Chilton mỉm cười và bà Leech vỗ bàn như thể hài lòng rằng cuộc trò chuyện đã bắt đầu sôi nổi. Bà chủ khách sạn nói trước khi nở một nụ cười công nghiệp “Nhớ nói với tất cả bạn bè của cô đây là khách sạn nào tốt nhất ở Harrogate nhé.”
Chilton trải qua phần còn lại của buổi tối một cách dễ chịu vì ông đã biết thêm về phong trào đấu tranh đòi bình quyền của phụ nữ Anh từ cô Armstrong còn nhiều hơn những gì ông từng biết trước đây.
***
Vào sáng thứ Hai, điều đầu tiên ông Chilton làm sau khi ăn sáng là cùng ông Leech bắt xe vào thị trấn. Trụ sở Cảnh sát Leeds vẫn hệt như khi ông rời đi, Lippincott vẫn luôn mở rộng cửa. Ông vẫy Chilton vào văn phòng của mình.
“Ông nghỉ hưu khá lâu rồi đấy, ở đây vừa xảy ra một tội ác thế kỷ.”
Họ cười, họ đã thống nhất rằng chẳng có vụ án nào ở đây cả. Chỉ là một người phụ nữ có chút tiếng tăm mất tích khi thế giới này chẳng có chuyện gì khác xảy ra nên đã tạo ra một Mùa ngớ ngẩn11 giữa mùa đông. Giấy tờ loạn hết cả lên. Lippincott đưa cho Chilton một số báo cáo của cảnh sát và một bức ảnh của Agatha lấy từ phía nhà xuất bản của cô, đây cũng là bức ảnh đang được chuyền tay trên khắp nước Anh.
11 nguyên tác: Silly Season - thường vào những tháng mùa hè khi báo chí toàn đưa những chuyện không quan trọng vì không có gì quan trọng diễn ra, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và tin tức.
“Nếu chưa chết thì chắc chắn cô ấy sẽ vô cùng xấu hổ trước sự ồn ào này” Chilton nói. Nhìn vào bức ảnh của Agatha, ông hối hận vì mình đã cười. Cô ấy có một khuôn mặt đăm chiêu và đáng yêu. Tự sát là một hành động cực đoan, nhưng ông hiểu rằng đến lúc phải ra đi thì người ta sẽ lựa chọn ra đi. Chắc chắn cô ấy có lý do riêng.
Lippincott đưa ra một lý thuyết có vẻ hoài nghi hơn nhưng cũng ít bi thảm hơn. “Cô ta có thể làm vậy để bán được nhiều sách.” Ông nói. “Hồi thứ Sáu chỉ có một số ít độc giả người Anh biết đến tên tuổi cô ấy, nếu đến hết cuối tuần mà cô ta vẫn không xuất hiện thì cô sẽ thành tâm điểm toàn cầu.”
“Ông nghĩ cô ta chỉ muốn gây sự chú ý đến mọi người thôi hả?”
“Một dạng quảng cáo. Nên tôi mới muốn ông quay lại đó Chilton. Tôi biết ông sẽ xem đây là một vụ mất tích thật và chúng ta cần nghiêm túc phá vụ này. Hiện vẫn chưa ai biết người phụ nữ này đã đi đâu, cô ấy có thể ở bất cứ nơi nào.”
Chilton làm cử chỉ tuân lệnh nửa đùa nửa thật nhưng điều đó khiến cả hai chìm vào một thoáng u buồn. Họ đã cùng nhau trải qua rất nhiều thứ, động tác chào nhau cũng là một công việc hàng ngày.
“Nghe này Chilton,” Lippincott nói. “Nhờ anh họ nên tôi có thể cho ông ở không tốn phí và tôi có một chiếc ô tô của cảnh sát để ông phục vụ cho quá trình tìm kiếm. Ông nghỉ hưu quá sớm nên bọn tôi không thể tặng ông một chiếc đồng hồ ông ưa thích hay món quà nào khác hết. Vậy nên ông hãy coi đây như một kỳ nghỉ nho nhỏ nhé? Vì Chúa, dù có tìm kiếm Agatha Christie thì ông cũng nhớ đi ngâm mình, tận hưởng khách sạn, thưởng thức món ăn và đi mát xa nhé.
Chilton không thể tưởng tượng nổi bản thân mình khi đi mát xa. “Ông có biết tôi đã sống ở Yorkshire trong bảy năm và chưa bao giờ bước chân vào bồn tắm nhiều đến vậy không?”
Chilton chắc chắn rằng ông bạn mình cũng hệt như mình. Đúng là Lippincott mong muốn cơ sở của người anh họ thân yêu phát triển tốt đẹp nhưng chắc ông ấy cũng chẳng đến đây thường xuyên. Lippincott đáp lời, “Vậy thì… giờ là lúc ông làm điều đó đấy.”
***
Đối với tôi, cái lạnh cùng với bầu trời trong xanh của ngày hôm đó đã biến mất. Tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là Finbarr. Anh nhẹ nhàng đặt một tay lên khuỷu tay tôi và đẩy tôi ra, anh ngoái đầu để xem Lizzie Clarke có còn ở đó không.
“Anh không cần lo lắng về cô ấy” Tôi nói, nhưng dường như anh ấy không nghe thấy lời tôi. Anh dẫn tôi đi về phía trước, băng qua một hàng rào cây xanh và đến nơi có những hàng cây bạch dương bạc.
“Finbarr.” Khi còn ở Ireland lúc nhỏ, đi lòng vòng như thế này rất vui, như một thử nghiệm để đo lòng can đảm của tôi. “Anh đang làm gì thế?”
“Anh cũng muốn hỏi em câu tương tự đấy.” Giọng nói trở nên khàn khàn hậu chiến tranh của anh làm tôi thổn thức.
“Em đang tận hưởng kỳ nghỉ của mình. Làm thế quái nào mà anh tìm được em vậy?”
“Đừng bận tâm chuyện đó, chuyện kế tiếp mới quan trọng này. Anh và em sẽ bỏ lại đằng sau âm mưu của em và quay về nhà chúng ta ở Ballycotton.”
“Ballycotton không phải nhà em.” Tôi rút cánh tay mình ra khỏi tay anh. Ngay từ lúc vừa nhìn thấy anh ấy, não tôi đã tan ra thành những hạt nguyên tử. Bây giờ những hạt nguyên tử đó bắt đầu chạy vòng quanh và tiếp tục di chuyển nhanh hơn nữa, tạo thành một bức tranh rõ ràng. “Nơi đó chưa bao giờ và cũng sẽ không bao giờ là nhà của em.”
“Nó từng là nhà của em và giờ nó sẽ lại là nhà em một lần nữa. Bố anh mất rồi Nan à.” Nghe cách anh nói, tôi hiểu rằng mẹ anh có lẽ cũng đã mất được một khoảng thời gian rồi. “Anh đã dành dụm đủ tiền mua một căn nhà nho nhỏ, anh có thể nuôi và huấn luyện chó ở đó. Em và anh, chúng ta có thể quay về nhà.”
Tôi hình dung ra ngôi nhà anh đang nói và con đường đến Sunday’s Corner. Tôi biết tôi nên mình tôi rất lấy làm tiếc về cái chết của cha mẹ anh ấy, nhưng tôi không thấy thương tiếc chút nào và cũng không bao giờ cảm thấy như vậy.
“Nan à,” Finbarr nói tiếp. “Em không thể tiếp tục làm chuyện đó được, làm vậy là cố chấp và sai trái. Chúng ta thuộc về nhau, em và người đàn ông đã kết hôn kia không dành cho nhau đâu.”
Vậy là anh ấy đã nhận được bức thư tôi gửi và đây là câu trả lời của anh. Thật sai lầm khi viết thư cho anh trong một phút yếu lòng.
“Đã quá muộn rồi.” Tôi hy vọng giọng nói của mình nghe có vẻ buồn hơn là trách móc. “Anh đã đến quá trễ.”
Nắm chặt cổ tay tôi nhưng vẫn nhẹ nhàng tránh làm đau tôi, anh kéo tôi vào sâu hơn trong rừng. Chiếc mũ của tôi rơi xuống, anh nhặt và đội lại cho tôi rồi rồi kéo nó phủ xuống tai. Chắc tai tôi lúc này đã đỏ bừng lên vì cái lạnh và cảm giác phẫn nộ đang dâng trào. Finbarr không muốn tôi bị lạnh. Sau lễ ăn mừng Đình chiến, khi chúng tôi đang nằm cùng nhau ở London, giữa cơn ái tình chất chứa đằng đẵng hàng năm trời, anh đã tạm ngừng lại để điều chỉnh chiếc gối kê đầu tôi.
Đây là lần thứ ba tôi gặp anh ấy kể từ ngày đó. Lần đầu tiên là ở Ballycotton khi anh đang nằm mê sảng vì bệnh cúm. Lần thứ hai là gần một năm sau đó, sau khi tôi vĩnh viễn rời Ireland và anh ấy đến London tìm tôi. Anh đã cầu xin tôi đến Úc cùng anh nhưng tôi đã không đi.
Người làm tình với tôi vào ngày lễ Đình chiến dường như là con người cũ của Finbarr, hoặc có thể đó chỉ là một ảo ảnh vui vẻ thoáng qua, là những gì tôi muốn nhìn thấy. Thời điểm anh ấy quay lại tìm tôi, cả hai chúng tôi đều không còn là chính mình. Tôi đã suy sụp vì mất con, còn anh chỉ đơn giản là suy sụp. Anh sụt gần mười cân, bầu không khí vui vẻ vốn là đặc điểm nổi bật mỗi khi anh xuất hiện biến mất không chút dấu vết, giọng nói bị khí mù tạt phá hỏng khác hoàn toàn với giọng cậu bé tôi từng nhớ.
(Nhiều năm sau, Agatha Christie có viết thế này, “Đôi khi người ta không thể ngăn một cơn thịnh nộ ập đến mỗi khi nghĩ tới chiến tranh.”)
“Không.” Lúc đó tôi đã nói với anh. “Em không thể bỏ đi với anh. Em không thể đi đâu cả.”
Bây giờ, đã sáu năm trôi qua, ở Horrogate này, có thể Finbarr và tôi không thể quay trở lại với thứ tình cảm nguyên vẹn như trong quá khứ được nữa, nhưng ít nhất chúng tôi có thể đối mặt với nhau một cách bình tĩnh. Tôi có thể bình tĩnh nhìn anh và không cảm thấy chúng tôi đang buộc tội lẫn nhau, anh chẳng có lỗi gì trong chuyện này cả.
“Điều chúng ta cần,” anh nói và cầm lấy tay tôi. “là rời khỏi đây. Chúng ta có thể bắt đầu lại. Chỉ em và anh.”
“Ôi Finbarr…” Tôi nói. “Đó không phải thứ em cần. Không hề.”
Tôi bỏ anh lại và rời đi. Phải băng qua rất nhiều bụi rậm mới có thể quay trở lại đường chính. Bầu trời mùa đông dần quang đãng hơn, tôi vòng tay ôm chặt lấy mình. Hít vào, thở ra. Dạo này tôi vẫn dùng cách này để sống qua ngày. Hơi thở này nối tiếp một hơi thở khác.
Finbarr đi ngay phía sau, đặt tay lên vai tôi nhưng tôi nhún vai hất ra. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh, lòng tôi đã tan chảy thành một màu xám xịt buồn bã. Vẫn còn phải tính đến rất nhiều chuyện khác nữa. Có điều gì đó trong anh thay đổi. Vài ngày sau, tôi gặp thanh tra Chilton và nói về sự bắt đầu của cuộc chiến tranh. Trước cuộc chiến thế giới trông như thế này, rồi sau chiến tranh, bạn nhìn thấy nỗi đau buồn cực hạn và chẳng thể nào thấy thế giới như lúc trước nữa. Mặt Finbarr không có một vết sẹo nào, anh vẫn sở hữu dáng người cao gầy và nhanh nhẹn như trước nhưng ánh mặt trời trong anh đã mất đi. Giống như cách giọng nói khàn khàn đã thay thế giọng nói trong trẻo khi xưa, niềm vui trong anh đã bị thế chỗ bởi nỗi buồn. Nếu nỗi buồn ấy không biến anh thành một con tàu mất neo như hiện tại thì có lẽ tình yêu tôi dành cho anh còn lớn hơn cả lúc trước. Tôi đã từng đong đếm nỗi buồn ấy của anh bằng chính mắt mình.
Anh vươn tay ra và kéo tôi trở lại vòng tay anh. Ba nhịp. Sau đó anh bỏ tôi ra, xoay người và lê bước xuống đường giống như cách anh đến lúc nãy. Có lẽ anh ấy nghĩ tôi sẽ đi theo anh nhưng tôi chỉ biết đứng yên nhìn anh ấy ra đi. Anh biết tôi vẫn đứng bất động vì trong khoảng cách này tôi vẫn còn nghe thấy tiếng anh, anh giơ một cánh tay lên nhưng không nhìn lại và nói to, “Em sẽ sớm gặp lại anh thôi Nan. Rất sớm thôi.”
***
Hơn một giờ sau, ngay trước khi bước vào phòng tắm với Lizzie Clarke, tôi tự tìm kiếm một câu trả lời hợp lý cho câu hỏi mà Finbarr vẫn chưa trả lời: làm sao anh ấy biết tôi ở Harrogate để tìm đến đây?
“Cô ổn chứ?” Lizzie hỏi khi tôi đang ngâm mình bên cạnh cô ấy trong bồn nước nóng.
Tôi gật gật theo kiểu Tôi sẽ kể với cô sau chứ không phải là đúng vậy. Tôi đang mặc chiếc váy tắm dài đến đầu gối mà tôi vẫn thường mặc khi đi biển, bên trong là một chiếc quần đùi cùng bộ. Mặc dù Lizzie đang ngâm mình với nước ngập đến tận cằm, tôi dám cá rằng trang phục của cô ấy táo bạo hơn tôi nhiều, nhìn màu quả cà chua chín của bộ trang phục cũng đủ biết. Tất cả phụ nữ đều đội mũ lưỡi trai, tóc của chúng tôi được che kín hoàn toàn. Bất kể chúng tôi mặc trang phục tắm khác nhau như thế nào, chúng tôi đều đội mũ như nhau, nó trông như một kiểu đồng phục ở đây.
Hơi nước đọng lại xung quanh và đột nhiên tôi cảm thấy nhẹ tênh. Chắc do tôi đã triệu hồi được Finbarr đến trước mặt mình lúc nãy. Lucid Living. Hoặc có lẽ là hoàn toàn ngược lại và chỉ là do tôi tự tưởng tượng ra anh ấy đang ở đây. Tôi gần như muốn quay sang hỏi Lizzie để xác nhận: Ban nãy trên đường cô có một người đàn ông tóc đen đi về phía chúng ta đúng không? Cô để tôi ở riêng với anh ta đúng chứ? Cô đã nói trông anh ta trông không ổn đúng không? Nếu việc Finbarr ôm tôi trong vòng tay không có thật thì mọi thứ sẽ tốt hơn hay tệ hơn nhỉ?
Các bồn tắm tự nhiên ở Bellefort nằm bên dưới khách sạn trông giống như những hang động mờ hơi nước. Trần nhà bằng đá thấp nên ngay cả những người nhỏ con cũng phải cúi đầu cho đến khi nước ngập ngang cổ. Bạn không cần thuê phòng ở khách sạn mà chỉ cần bỏ một khoản phí nhỏ là có thể sử dụng những bồn tắm này, nhưng hôm nay hầu hết người tắm cùng với chúng tôi là những khách thuê phòng ở đây. Đối diện với chúng tôi là bà Marston - cô dâu lớn tuổi nhất đang ngồi, nước ngập đến cằm. Bà ấy quan sát Lizzie và tôi một cách vui vẻ qua làn hơi nước. Chúng tôi cũng nhìn lại bà ấy một cách thẳng thắn, nhưng bà ấy không phải kiểu người hay dò xét người khác, cái nhìn của bà ấy có chút gì đó đơn thuần. Tôi nghĩ nếu sau này có người hỏi bà ấy về Lizzie và tôi, bà ấy cũng sẽ không thể kể ra bất cứ đặc điểm nào dù là màu tóc hay màu mắt, không gì cả, chắc bà ấy chỉ nhớ được giới tính và ước đoán khoảng tuổi của chúng tôi. Sự hiện diện của chúng tôi giống như khán giả lắng nghe những lời bà ấy phải nói.
“Hai cô khỏe không?” Bà Marston hỏi với giọng ấm áp chân thật.
“Chúng tôi đều ổn.” Lizzie nói bằng giọng Mỹ thẳng tuột của mình.
“Chúng ta đã gặp nhau tối qua.” Tôi vội nói trước khi Lizzie có thể giới thiệu tên của mình. Tôi cá rằng bà Marston không có chút hồi ức nào về chuyện này. “Tôi nghe nói bà có chuyện vui đúng không?”
Bà ấy cười rộ lên, đôi mắt nâu to tròn lấp lánh. “Đúng vậy thật.” Bà ấy nói. “Sáu ngày của cuộc sống hôn nhân và vẫn đang đếm tiếp nữa. Tôi nói cô nghe, đó là niềm hạnh phúc lớn nhất. Niềm hạnh phúc lớn nhất.”
“Thật tuyệt vời.” Lizzie nói. “ Hai người đã gặp nhau ở đâu vậy?”
“Ồ,” Bà Marston trả lời. “Marston và tôi biết nhau lâu rồi. Cô biết đấy, chuyện của chúng tôi khá bất hạnh. Đầy đau đớn và kịch tính. Nhớ lời tôi nhé các quý cô. Mọi chuyện sẽ càng trở nên tuyệt vời hơn khi bất hạnh qua đi.”
“Tôi không hoàn toàn đồng ý với nhận định này.” Lizzie nhìn bà Marston kiên quyết. “Chồng tôi và tôi cũng từng trải qua nỗi đau và những chuyện kịch tính nhưng chúng tôi đã có thể đến với nhau êm thấm mà không cần tới tất cả những thứ đó, đến với nhau một cách tốt đẹp và chân thành.”
“Giờ thì hai người đã có một cuộc sống êm ấm rồi.” Bà Marston loại bỏ ý kiến bất đồng và nói.
Tôi nghĩ về Agatha, về tất cả những nỗi đau và bi kịch mà cô đang chịu đựng và hy vọng một ngày nào đó cô ấy có thể trở nên hạnh phúc hơn bao giờ hết sau khi phải chịu đựng nỗi đau tôi đang gây ra cho cô ấy bây giờ. Tôi phủ nhận khả năng Agatha đã chết. Agatha và tôi, chúng tôi đã được liên kết với nhau, nếu cô ấy có chuyện thì tôi sẽ cảm nhận được điều đó từ trong xương tủy, giống như những gì tôi đã trải qua khi Colleen qua đời.
Bà Marston thả người sâu hơn xuống hồ nước và để nước ngập qua cằm, đôi mắt sáng lấp lánh chứng minh rằng bà đang rất hạnh phúc. Sau đó, bà ấy cúi đầu xuống gần mặt nước và nói, “Tôi đã khá thất vọng khi biết khách sạn này thuộc sở hữu của một người da màu. Chẳng biết nếu biết trước chuyện này thì chúng tôi có đặt phòng ở đây không nữa.”
“Phu nhân Leech ư?” Lizzie nói bằng giọng rõ ràng và kiên quyết tỏ ý chấm dứt cuộc nói chuyện. “Cô ấy đối xử với tôi cực kì tốt.”
Bà Marston thay đổi chủ đề bằng cách hỏi Lizzie. “Cô có con không?”Không biết nên khen ngợi bà ấy hành động khôn ngoan khi chuyển sang chủ đề khác hay chỉ đơn giản là do bà ấy không có khả năng tranh luận những vấn đề gây bất đồng chính kiến nữa.
“Chúng tôi từng có một đứa.” Lizzie nói. “Thằng bé mất ngay sau khi vừa mới lọt lòng.”
“Ôi cô gái thân yêu,” Bà Marston an ủi những câu mà người ta hay nói với những người mẹ mất con. “Cô còn trẻ mà, cô sẽ có một đứa khác và sau đó là một đứa và một đứa khác nữa.”
“Tôi cũng mong là như vậy,” khó mà lý giải cảm xúc của Lizzie lúc này. “nhưng không có nghĩa là tôi sẽ quên đi đứa con đầu tiên.”
“Tất nhiên là không rồi.” Bà Marston nói. “Thành thật mà nói, tôi hy vọng đứa bé sẽ không đến với tôi quá muộn. Nhiều chuyện kỳ lạ đã xảy ra, bây giờ tôi thực sự chỉ mong muốn một đứa con. À, một đứa con và ông Marston.“
Tôi đứng dậy lấy một chiếc áo choàng của khách sạn để che đi bộ đồ tắm của mình. “Tôi thấy hơi choáng váng,” tôi nói. “Hẹn gặp lại mọi người ở buổi uống trà nhé.”
Bà Marston nói với Lizzie như thể tôi đã rời đi, “Cô bạn ít nói của cô cần phải tìm một người chồng thôi, phải không?”
“Ai nói tôi chưa tìm được chồng?” Tôi kéo thật chặt thắt lưng áo choàng, không thèm che giấu giọng nói cáu kỉnh.
“Hiện tại, ở hiện tại.” Bà Marston vội nói, như kiểu đã quen với việc này. “Bình tĩnh nào cô bạn, tôi chỉ đang đùa thôi mà.” Như để chứng minh lời nói, bà ấy bật ra một tiếng cười vui vẻ, xuyên qua hang động, vang dội. Một âm thanh chứa ít sự hạnh phúc nhất mà tôi có thể tưởng tượng nổi.
NƠI SƠ MARY AN NGHỈ
Tất cả các cô gái trên thế giới đều chờ đợi tin tức từ những người lính không bao giờ gặp lại, còn tôi khá may mắn khi yêu đúng một người đàn ông biết giữ lời hứa của mình. Finbarr gấp một tờ tiền bảng Anh và bỏ vào lá thư đầu tiên anh gửi.
Anh viết rằng, Anh nghĩ bên trong anh đã chết cho tới khi anh thấy em đứng ở quảng trường.
Anh viết rằng, Không phải chỉ ngày Đình chiến cuốn anh đi.
Anh ấy còn viết, Lẽ ra chúng mình nên chờ đến đêm tân hôn, đúng thật là nên như vậy nhưng từ tận đáy lòng, anh biết sẽ không bao giờ có thời điểm nào hoàn hảo hơn lúc ấy. Nan à, đêm tân hôn của chúng mình sẽ đến, đừng bao giờ nghi ngờ điều đó.
Và đến lá thư thứ hai của anh, lần này không có tiền bên trong, nó chỉ nói rằng, Anh yêu em và anh sợ là anh bị sốt mất rồi.
***
Bản thân tôi cũng cảm thấy không khỏe lắm.
Cha tôi nhận được tin từ Ireland. Bác Jack đã trở về sau cuộc chiến, sống sót và không bị thương tổn gì nhưng ông mang bệnh cúm từ tiền tuyến và lây cho vợ con. Bác Rosie đã bình phục nhưng bác Jack và Seamus thì không. Tôi từng nghĩ rằng quả là một ơn huệ khi người anh họ ngọt ngào của tôi không đủ tuổi để tham gia chiến tranh nhưng giờ anh ấy vẫn mất mạng. Có vẻ như dòng thủy triều của cuộc chiến này sẽ không bao giờ ngừng đập vào bờ biển của chúng tôi. Tôi khóc cho gia đình thứ hai đã mất của tôi, khóc cho trang trại thân yêu của tôi giờ đã hiu hắt và trống rỗng. Mẹ an ủi tôi, bà không thể ngăn mình áp bàn tay vào trán tôi.
Megs, Louisa và tôi bị cấm đến thăm Emily Hastings khi cô ấy bị ốm. “Sẽ là một phép màu nếu bệnh cúm bỏ qua các con.” Trong bữa tối, mẹ tôi vừa nói vừa gạt nước mắt. “Các con có biết Andrew Pennington vừa qua đời ngày hôm qua không? Tất cả đều là những người trẻ. Những cậu bé trở về nhà an toàn sau chiến tranh nhưng lại ra đi chỉ vì căn bệnh cúm.”
Đám đông khổng lồ và tốt bụng đã mang Finbarr và tôi lại với nhau cũng có thể mang theo căn bệnh vô hình. Mẹ tôi đã từ bỏ công việc tại Buttons and Bits và khăng khăng bắt tôi làm điều tương tự.
“Không, con không được đi đâu cả.” Bố tôi nói khi bắt gặp tôi đang cố gắng rời khỏi nhà. “Rời khỏi nhà lúc này không an toàn.”
“Megs nghĩ chúng con đã bị hồi mùa xuân năm ngoái rồi.” Tôi nói. Cả ba đứa chúng tôi đều bị sốt nhẹ và hồi phục nhanh chóng.
“Nghĩ khác với biết.” Bố tỏ ra cáu kỉnh. “Và cái ta cần bây giờ là đảm bảo chắc điều đó trước khi con gặp nguy hiểm.”
Đã nhiều năm rồi giữa chúng tôi chẳng có chút ấm áp nào, nhưng trong khoảnh khắc đó, tôi có thể thấy khuôn mặt ông ấy hiện lên sự mất mát trước cái chết của đứa con cả, người anh trai và đứa cháu trai hiếm khi thấy ở ông. Bố đã già đi cả trăm tuổi kể từ lần cuối cùng tôi cho phép bản thân thực sự nhìn ông. Vì vậy, tôi ôm chặt lấy ông ấy. Tôi nghĩ đến bức thư của Finbarr. Liệu có còn lại ai ở Ballycotton có thể viết thư cho tôi nếu anh chết không? Chúng tôi không có điện thoại. Chắc chắn là gia đình Mahoney không có, thậm chí ở Ballycotton hầu như còn không có điện.
“Trông con xanh xao vàng vọt quá Nan ơi.” Chiều đó mẹ tôi nói. Mẹ kiểm tra lại nhiệt độ của tôi lần nữa, bà không thể rời tay khỏi khuôn mặt của chúng tôi. “Tốt hơn hết con nên đi nghỉ đi. Mẹ sẽ mang một đĩa thức ăn cho con sau.”
Tôi thu mình trong phòng, đặt cả hai tay lên bụng. Tôi không bị cúm. Tôi bị cái khác. Nỗi lo lắng về bệnh cúm của mẹ tôi đã tạm thời thay thế bởi nỗi sợ có thai, nó khiến bà mù quáng trước nguyên nhân thực sự khiến tôi mệt mỏi. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi này, bà ấy không mảy may biết rằng bất cứ khi nào bà ấy chạm hoặc ôm tôi, bà ấy cũng đang chạm và ôm đứa cháu của mình.
Colleen bằng tuổi tôi khi chị ấy gieo mình xuống sông Thames, gần như chính xác đến từng ngày. Tôi sẽ không bao giờ để chuyện đó lặp lại với mẹ một lần nữa. Tôi không nói với Megs và Louisa rằng tôi đang mang thai vì không muốn họ lo sợ chuyện sẽ xảy ra với tôi. Và tôi cũng sẽ không cho bố tôi cơ hội đuổi tôi đi. Tôi muốn vượt qua biển Ireland và kết hôn với Finbarr ngay cả khi anh sắp chết đi nữa. Thà làm góa phụ còn hơn làm một trò hề của một người lính. Chỉ một chi tiết nhỏ của câu nói “Em đồng ý” cùng lời chúc phúc của linh mục sẽ tạo ra sự khác biệt giữa nhân vật chính và kẻ bị xã hội bỏ rơi. Điều duy nhất tôi phải làm là đi từ hòn đảo của mình đến hòn đảo của Finbarr.
Nơi duy nhất mẹ tôi đến trong những ngày này là cửa hàng tạp hóa. Ngay khi bà vừa ra khỏi cửa, tôi vào phòng bà ấy và lôi hộp trà bà từng cho chúng tôi xem ra. Số tiền bà cất và tờ bảng Finbarr gửi cho tôi chỉ vừa đủ để đi đến Ballycotton. Tôi lấy chiếc nhẫn của bà ra và định đeo vào ngón tay mình nhưng sau đó bỏ lại vào hộp. Tôi không cần phải cải trang thành một người phụ nữ đã có gia đình, tôi sẽ thật sự trở thành người phụ nữ có gia đình sớm thôi.
***
Tôi đưa cho người đánh cá những đồng tiền cuối cùng tôi có để anh ta chở tôi từ ga xe lửa đến ngôi nhà nhỏ bằng đất sét trắng của gia đình Mahoney trên chiếc xe kéo bằng con la của anh ta. Những cột buồm kêu lao xao từ bến cảng và những con mòng biển sà xuống hót líu lo. Tôi biết Alby không được phép vào nhà mà phải ngủ bên dưới căn nhà, nên cảm thấy hơi thất vọng vì nó không nhảy ra ngoài để chào đón tôi. Nhưng có thể Finbarr đã bình phục và đang kiếm được một khoản tiền lương hậu hĩnh từ việc đi chăn gia súc.
Bà Mahoney ra mở cửa. Trước đây tôi đã từng gặp bà ấy trong các buổi lễ nhà thờ vào Chủ nhật và bà ấy từng luôn mỉm cười. Bà là một người phụ nữ nhỏ bé, với đôi vai xương xẩu đến nỗi tôi có thể nhìn thấy hình chữ V sắc nét qua chiếc áo cardigan của bà.
“Cô không thể vào gặp nó.” Bà ấy nói trước cả khi tôi có thể mở miệng nhắc bà ấy biết tôi là ai. “Sẽ không an toàn cho cô đâu.” Nhưng bà ấy vẫn bước sang một bên cho tôi vào, sau đó đốt bếp rồi pha một tách trà. Căn nhà lạnh ngắt, tôi những muốn kéo ghế lại gần đống lửa nhưng tôi không muốn xúc phạm bà. Sàn nhà dưới chân tôi là đất. Nếu vào lúc khác thì cảnh những chiếc thuyền qua khung cửa sổ chắc sẽ rất vui vẻ, phấn khởi nhưng ngay lúc ấy đối với tôi, hình ảnh đó tựa như điều Finbarr ghét nhất trên đời vậy. Nhận thấy ánh nhìn chăm chú của tôi, bà Mahoney đứng dậy, đi đến cửa sổ và đóng cửa chớp lại.
“Cháu là cháu gái của Jack O’Dea.” Tôi nói. “Tôi biết cô là ai.”
Tôi biết bà ấy muốn nói gì đó về Seamus và Jack, có thể là vài lời chia buồn, có thể là đổ tội cho họ - cõ lẽ Finbarr đã qua đó trước khi họ ngã bệnh. Bà ấy đặt tách trà trước mặt tôi mà không cho sữa hay đường.
Mắt tôi đảo quanh căn bếp nhỏ. Có hai cánh cửa trong căn phòng, một cái tôi vừa từ bên ngoài bước vào và một cái dẫn đến những phòng còn lại của ngôi nhà và được đóng kín.
“Finbarr có ở đây không?” Tôi hỏi mẹ anh ấy. “Anh ấy vẫn ổn chứ ạ?”
“Thằng bé ở đây, nó không ổn và nó không cần cô đến làm phiền nó.” Bà ấy ngồi xuống trước tách trà của mình. Từ cách bà ấy hạn chế tầm nhìn của tôi nhiều hơn vài giây, tôi có thể biết được bà đang nỗ lực để kiềm chế lòng tử tế của mình. Bà ấy có biết chuyện gì về tôi không? Hay bà lạnh nhạt như vậy là do lo lắng cho đứa con duy nhất của mình?
“Có phải anh ấy nhiễm bệnh cúm không?”
“Đúng vậy và cô không được bị lây. Chúng tôi phải đưa cô ra khỏi ngôi nhà này ngay lập tức. Tôi đã chăm sóc nó cả ngày lẫn đêm. Tôi có thể tự mình đảm đương việc đó. Tôi chắc chắn về điều đó.”
“Cháu có thể vào nhìn Finbarr…”
“Không được.”
“Cho cháu đứng ở ngưỡng cửa thôi cũng được.”
“Cô có bị điếc không hả? Tôi đã nói không là không.”
“Nan. Cháu tên là Nan. Finbarr muốn gặp cháu. Cháu biết anh ấy muốn gặp cháu.”
Bà ấy dời tầm mắt sang chỗ khác, nhìn về phía cửa sổ đã đóng kín. Bà ấy cũng có mái tóc đen giống Finbarr nhưng pha thêm chút sắc xám, chắc một ngày nào đó tóc anh ấy cũng giống thế này. Tôi đã nghĩ đôi má bà ửng hồng do trời lạnh nhưng khi đến gần, tôi thấy những mạch máu nhỏ bị vỡ dọc theo gò má của bà ấy. Mệt mỏi vì lo lắng kéo dài. Chắc khi xưa bà ấy từng rất xinh đẹp. Finbarr nói với tôi rằng bà ấy ước mình có một trăm đứa trẻ. Bây giờ tôi đang mang đến cho bà ấy thêm một đứa nữa đây.
“Alby đâu ạ?” Tôi hỏi.
“Đổi nó lấy nhu yếu phẩm dự trữ cho chiến tranh rồi.”
Họ có viết thư nói với anh chuyện này không? Hay Finbarr về đến nhà thì thấy Alby đã biến mất? Tôi tưởng tượng cảnh anh huýt sáo khắp nhà cho đến khi bố anh dồn hết dũng khí và thừa nhận chuyện ông đã làm. Finbarr hẳn đã làm việc thêm giờ tại mọi trang trại gần Ballycotton, trước tiên là để kiếm tiền đưa tôi đến đây và sau đó là mua lại con chó của anh ấy về.
Tôi thò tay vào túi và lấy ra một trong những bức thư của Finbarr. “Nhìn này,” Tôi nói và đưa lá thư về phía bà ấy. “Anh ấy muốn cưới cháu. Anh ấy đã gửi tiền cho cháu đến đây để tụi cháu có thể kết hôn với nhau.” Tôi chỉ vào các câu từ anh viết trên đó. “Anh ấy đã hứa với cháu như vậy.”
Bà ấy nhìn tôi chằm chằm và không động đậy. Tôi lắc lắc lá thư bên dưới tầm mắt của bà, một cảm giác thật kinh khủng khi bạn nghĩ thứ mình đang nắm giữ có quyền năng nào đó nhưng cuối cùng nó chỉ là một thứ vô dụng.
“Và cô có biết rằng” bà Mahoney nói. “Đó là những lời người đàn ông sẽ nói để khiến người phụ nữ làm theo những gì anh ta muốn hay không? Mẹo ở đây là phải từ chối. Đó là cách cô có thể khiến người đàn ông đó kết hôn với mình. Từ chối trước khi chuyện đó xảy ra, không phải sau khi chuyện đã rồi.”
Làm sao bà ấy biết được chuyện đó nhỉ? Phải chăng sự quẫn bách của tôi đã bán đứng tôi. Tôi vẫn gầy như trước, chưa lộ bụng bầu nhưng giờ tranh cãi cũng không ích lợi gì. “Anh ấy viết cái này sau chuyện đó.” Tôi chỉ có thể nói như vậy rồi gục đầu xuống bàn. Tôi đã quá mệt mỏi rồi. Đột nhiên tôi lại cảm thấy đói bụng kinh khủng.
“Đừng khóc.” Bà ấy nói.
Tôi không khóc cho tới khi nghe thấy những lời đó. Những tiếng nấc lớn cùng tiếng nức nở tràn ngập trong căn nhà nhỏ. Trong một thoáng tôi đã cảm thấy xấu hổ, nhưng rồi tôi nghĩ nếu Finbarr nghe thấy tiếng tôi có lẽ anh ấy sẽ đứng dậy và chạy ngay vào bếp. Anh sẽ nói với mẹ sự thật, anh sẽ khăng khăng muốn cưới tôi ngay ngày hôm đó. Nhưng dù tôi có khóc nức nở thế nào thì anh cũng chẳng xuất hiện và mẹ anh cũng không mềm lòng. Tôi đã khóc cho đến khi tôi tựa đầu lên tay mình và thiếp đi.
***
“Ít nhất hãy để tôi cho nó ăn cái gì đó đã.” Bà Mahoney nói với chồng, để lộ sự dịu dàng khi bà tin rằng tôi không thể nghe thấy.
Tôi mở mắt ra và thấy bố mẹ Finbarr đang đứng cạnh cánh cửa dẫn đến phần còn lại của ngôi nhà, cứ như thể họ muốn bảo vệ nó khỏi tôi. Nếu bầu không khí vui vẻ xung quanh anh được thừa hưởng từ ai trong số hai người này thì bây giờ cả hai người cũng đều không còn bầu không khí đó nữa. Tuy vậy, hai người này vẫn là đấng sinh thành của anh, họ đã tạo ra Finbarr và nuôi dạy anh trong ngôi nhà nhỏ có sàn bằng đất này. Những lời như Con yêu hai bác và Cảm ơn hai bác dâng lên trong cổ họng tôi nhưng tôi đã chặn nó phát thành tiếng vì họ sẽ chẳng muốn nghe thấy những lời này từ tôi.
“Để tôi lấy cho con bé một ly sữa và một ít bánh mì,” mẹ anh nói. “và còn món hầm hồi đêm qua nữa. Cô gái tội nghiệp, nhìn nó như sắp chết đói đến nơi.”
Tôi ngóc đầu lên và cảm nhận được những vết hằn trên mặt mình, mắt tôi sưng lên vì ngủ và khóc. Cô gái tội nghiệp. Tôi nhận ra sự đồng cảm vừa rồi của bà Mahoney là một điềm xấu. Nếu bà ấy không còn phải giả vờ cứng rắn với tôi nữa thì có nghĩa là số phận của tôi đã không còn nằm trong tay bà nữa mà nó đã thuộc về một người khác.
Ông Mahoney ngồi trên ghế bên cạnh tôi, ông khoác chiếc oilskin, người đầy mùi cá và mùi muối biển. Vợ ông đang bận rộn bày biện bàn ăn và chuẩn bị một đĩa cho tôi.
“Làm ơn hãy để cháu gặp anh ấy một lúc.” Tôi cất tiếng. ”Một lát thôi.” Rồi mọi người sẽ hiểu thôi. Chỉ là họ chưa bao giờ nhìn thấy chúng tôi ở cùng nhau nên họ không thể biết. Nhưng nếu họ thấy thì họ sẽ hiểu được thôi.
Ông Mahoney đặt tay lên tay tôi. Ông cũng ốm như vợ nhưng cao hơn nhiều, một khuôn mặt đầy đặn, hồng hào khỏe mạnh, dày gió dạn sương sau bao năm bám biển. Ông nói với tôi bằng một chất giọng địa phương Ireland nghe như nhạc.
“Nghe tôi nói này.” Ông ấy nói. “Cô là Nan đúng không?”
Tôi không gật đầu. Chẳng phải giờ ông đã biết tôi là Nan rồi sao? Đương nhiên là ông ấy biết chứ.
“Tôi biết cô muốn nói chuyện với Finbarr nhưng bây giờ thằng bé chẳng thể nói chuyện nổi đâu, nó thậm chí còn không thể nhấc đầu khỏi gối nữa.”
“Cháu không bận tâm chuyện đó.”
Cả hai người họ nhìn tôi như tôi ăn nằm với mọi người lính sau khi những người lính này trở về từ cuộc chiến và rồi mò đến trước cửa nhà họ để lừa tước lấy linh hồn vĩnh cửu của con trai họ vậy.
“Cô không hiểu à,” ông Mahoney nói tiếp. “Thằng bé tội nghiệp, có khi nó còn không thể sống để nhìn thấy ánh mặt trời sáng mai.”
“Làm ơn,” Tôi van nài.
Hai người họ nhìn nhau.
“Hứa rằng cô sẽ không chạm vào nó chứ?” Bà Mahoney nói. “Chúng tôi không muốn cô cũng bị ốm. Giờ cô phải lo nhiều thứ khác nữa chứ không chỉ bản thân mình đâu.”
Có lẽ sau tất cả mọi chuyện thì rốt cuộc bà ấy cũng quan tâm đến tôi và con tôi. Dù không thể tưởng tượng nổi việc ở gần Finbarr mà không được chạm vào anh nhưng tôi vẫn gật đầu.
***
Cánh cửa mở ra cùng tiếng cọt kẹt, hé lộ một căn phòng tối tăm và nặng trĩu nỗi tuyệt vọng, rèm cửa được đóng kín. Một mùi hôi thối gay gắt xộc vào mũi tôi, giống như mùi nấm mốc và mồ hôi. Người bên dưới tấm chăn kia hầu như không mảy may động đậy.
Tôi bước đến và quỳ xuống bên giường để nhìn mặt anh. “Finbarr,” Tôi thì thầm. “Em đây. Em đến với anh rồi đây.” Tôi muốn đưa tay vuốt tóc ra khỏi khuôn mặt đang nóng hầm hập của anh nhưng mẹ anh đang ở phía sau lưng tôi lúc này và bà ngay lập tức bắt lấy tay tôi trước khi tôi kịp chạm vào anh. Đôi mắt của Finbarr mở ra nhưng không nhìn vào tôi và cũng chẳng tập trung vào bất kì nơi nào. Mặc dù chưa chạm vào anh, tôi vẫn có thể cảm nhận được hơi nóng tỏa ra từ cơ thể anh, nóng gần bằng một cái lò sưởi. Một mùi ôi thiu khủng khiếp như thể anh ấy đã tự làm dơ mình và cái mùi đó đọng lại xung quanh chúng tôi. Anh cử động và chiếc khăn ẩm để làm mát trán anh rơi xuống nền đất bẩn. Máu đóng thành vảy trên chiếc khăn cũng như hai tai anh. Môi anh chuyển sang màu xanh sẫm kỳ lạ, chúng không động đậy, không thể gọi tên tôi. Anh không nhìn thấy tôi. Tôi cố gắng giằng tay mình ra khỏi mẹ anh để có thể chạm vào anh. Nhưng bà ấy khỏe một cách đáng kinh ngạc, bà càng nắm tay tôi chặt hơn. Tôi thì thầm:
“Nếu hai bác cho cháu ở lại,” Tôi thì thầm. “Cháu có thể chăm sóc anh ấy giúp hai bác.”
“Chuyện đó có nghĩa lý gì kia chứ?” Ông Mahoney choàng tay qua vai tôi, bắt tôi đứng dậy, xoay người tôi lại và nhẹ nhàng đẩy tôi ra khỏi phòng.
***
Họ cho tôi ăn tối và làm cho tôi một tấm ván bằng gỗ để ngủ cạnh bếp lò trong nhà bếp. Sau khi chắc chắn rằng họ đã ngủ, tôi rón rén vào phòng Finbarr và nằm xuống bên cạnh anh. “Những chú chó và những cuốn sách.” Tôi thì thầm, những từ ngữ cào xé cổ họng tôi trong tuyệt vọng. “Chúng ta sẽ đưa Alby quay về và chúng ta sẽ có mọi thứ: những chú chó, những cuốn sách, anh, em và đứa bé.”
Cơ thể anh ấy cử động và trong một khoảnh khắc, tôi đã nghĩ anh ấy sẽ đáp lời tôi nhưng thay vào đó anh ấy chỉ ho và run rẩy, những cơn ho khan không giúp anh phục hồi ý thức. Tôi như đông cứng tại chỗ vì lo lắng nếu mẹ anh nghe thấy tiếng ho và chạy vào phòng nhưng bà ấy đã không làm vậy. Cơ thể Finbarr nằm yên trở lại. Tôi đã thức suốt đêm bên cạnh anh và quay về tấm ván gỗ của mình trước khi bình minh ló dạng và bố mẹ anh thức giấc. Họ sẽ nhìn thấy một cô gái ngoan ngoãn nghe lời nằm yên tại vị trí của mình vào buổi sáng.
“Con có thể nói lời tạm biệt với anh ấy không?” Tôi hỏi trước khi chúng tôi rời đi.
“Cô phải nghĩ đến điều gì là tốt nhất cho đứa bé.” Mẹ anh nhắc nhở.
Tôi gật đầu nhưng vẫn chưa nhận ra rằng, đối với mọi người trên thế giới, những gì tốt nhất cho đứa bé có thể hoàn toàn trái ngược với những gì tốt nhất cho tôi.
BIẾN MẤT
Ngày thứ ba
Thứ Hai, ngày 6 tháng Mười hai năm 1926
Có thể đó chỉ là nhận thức muộn màng sau khi sắp xếp lại trí nhớ, nhưng đối với tôi, có vẻ như từ lần đầu tiên tôi nhìn thấy thanh tra Frank Chilton là vào buổi tối hôm đó tại khách sạn Bellefort và tôi biết rằng ông ta đang tìm kiếm Agatha. Không phải vì tôi đã biết tên của ông ta, một lát sau tôi mới biết tên ông. Ông ta đứng ở quầy lễ tân nói chuyện với bà Isabelle Leech, bà chủ khách sạn đến từ vùng Caribean. Các giác quan của tôi như nhạy bén hơn khi được ôm ấp trong vòng tay của Finbarr. Nếu Chilton không liếc sang hướng tôi thì có thể tôi đã quay lưng và trở về phòng để tránh ông ta. Một khi ông ta đã thấy tôi, việc tôi rút lui sẽ chỉ dấy lên thêm nghi ngờ. Tôi hạ tầm mắt xuống và cố gắng đi lướt qua ông để đến phòng ăn.
“Xin thứ lỗi,” Chilton gọi tôi lại. “Thưa cô.”
“Phải là phu nhân mới đúng.” Tôi sửa lại lời ông ta rồi mỉm cười gượng gạo, tự tôi có thể cảm thấy môi mình đang căng ra một cách bất thường. “Phu nhân O’Dea.” Sau khi ra khỏi bể tắm ban nãy, tôi đi bộ đến một khách sạn khác để giải tỏa đầu óc và mua một chiếc khăn choàng mới, một ít giấy và một cây bút máy ở cửa hàng quà tặng của họ. Có lẽ tôi sẽ viết một câu chuyện hoặc một bài thơ trong lúc tôi ở đây. Tôi kéo chiếc khăn lại sát người hơn và bảng giá của nó rơi ra khỏi những sợi chỉ sẫm màu.
Chilton đưa tay ra chạm vào bảng giá. “Giá trị của cô chỉ có bấy nhiêu thôi à?”
Tôi ghê tởm kiểu trò đùa như thế này nhưng khuôn mặt ông ta có điều gì đó khiến tôi thư giãn. Trò đùa dễ như vậy mà cũng có thể làm ông ta xấu hổ. Nhìn ông ôn hòa, thậm chí có thể nói là tốt bụng. Thật xui xẻo khi có một thanh tra cảnh sát ở khách sạn này, nhưng tôi ngay lập tức thấy thật may mắn vì vị cảnh sát đó là người đàn ông này.
“Đây,” Bà Leech vừa nói vừa đưa cho tôi một cây kéo to. “Thanh tra Chilton đang ở đây để tìm kiếm một phụ nữ mất tích ở Berkshire.”
“Trời ạ,” Tôi nói. “Mất tích ở Berkshire và ông đang tìm kiếm cô ấy ở Yorkshire ư?”
“Cả nước Anh đều tham gia vào cuộc truy tìm này,” Ông ta giải thích. “Từ thanh tra cho đến các sĩ quan cảnh sát đã được điều động đến mọi quận.
Tin tức này làm tôi thấy khó chịu. Tôi mỉm cười để che giấu điều đó và nói, “Ôi chà. Chắc cô ấy phải quan trọng lắm.”
Chilton lấy cây kéo và cắt bảng giá cho tôi. “Tôi có thể làm phiền cô một lúc được không phu nhân O’Dea?” Ông ta đặt bảng giá đã cắt vào tay tôi. Các ngón tay của ông nứt nẻ và dính tàn thuốc lá, quần áo thì nhàu nhĩ. Ông ta giơ một bức ảnh bằng tay phải, còn tay trái thì xụi lơ bên hông. “Là người phụ nữ này. Cô đã từng nhìn thấy cô ấy chưa?”
“Tôi có thể mượn bức ảnh được không?”
Ông ta gật đầu và tôi lấy bức ảnh từ tay ông. Agatha nhìn lại tôi chằm chằm, đầu hơi nghiêng, đeo ngọc trai và mặc áo vét. Tôi nghĩ đến mẹ tôi. Bà đã cố gắng thoát khỏi nỗi đau về sự ra đi của Colleen để giúp tôi có một bức ảnh nhỏ gửi cho Finbarr ở tiền tuyến. Tôi đã mặc chiếc váy đẹp nhất của mình, không đeo trang sức và chẳng có nét nào gọi là thu hút.
“Đẹp đấy,” Tôi nói. “Nhưng tôi chưa thấy cô ấy ở Yorkshire bao giờ.” Hy vọng rằng ông ấy sẽ nhớ chính xác những lời tôi nói nếu sau này ông ta có biết được mối liên hệ nào giữa hai chúng tôi. “Tôi hy vọng cô ấy sẽ ổn.” Tôi đưa bức ảnh lại cho ông ta.
“À, vâng” Chilton nói như thể không trông mong bất cứ câu trả lời nào khác.
“Cảm ơn cô đã xem qua.”
Khi bước vào phòng ăn, tôi thấy phu nhân Race - cô dâu tóc vàng xinh đẹp - đang ở cùng với người chồng đẹp trai, cau có của mình. Hai người họ ngồi cạnh cửa sổ, quá đắm chìm trong nỗi bất hạnh thầm lặng của mình để nhận ra tôi đang quấy rầy họ với ánh nhìn chằm chằm.
Cô bạn mới Lizzie Clarke vẫy tay gọi tôi đến bàn của cô ấy và chồng cô ấy đứng dậy nhường ghế cho tôi. Anh ta là một người đàn ông gầy gò và cao lêu nghêu, hấp dẫn dù không chải chuốt như một người Mỹ, cùng với đôi mắt sẫm màu và vẻ mặt ngọt ngào, nghiêm chỉnh.
“Donny Clarke,” Anh tự giới thiệu.
“Xin chào ông Clarke.”
“Làm ơn gọi tôi là Donny.” Anh ta nói. “Cảm ơn rất nhiều vì đã đi cùng Lizzie sáng nay. Kết bạn nhanh chóng trong kỳ nghỉ thú vị thật đấy.”
Tôi hầu như chưa mở khăn ăn ra thì đã nghe thấy tiếng cười vui vẻ không thể nhầm lẫn của bà Marston, hai vợ chồng họ cùng nhau bước vào. Trông bà ta hơi khác so với lần cuối tôi gặp ở bể tắm. Mái tóc của bà ta được uốn xoăn, mặc một chiếc áo khoác sang trọng và đeo những viên ngọc trai giả.
“Chà, nhìn xem ai đây này.” Bà Marston dừng lại bên bàn của chúng tôi. “Những cô gái trẻ dễ mến.”
Chồng cô ta, ông Marston, đứng bên cạnh. Ông trông già hơn bà đến mấy chục tuổi, ông có một gương mặt hồng hào và in dấu thời gian ở độ tuổi sáu mươi. Ông đặt một tay lên ghế của Donny, nụ cười nuông chiều của ông hệt như kiểu những người đàn ông thích dành tặng mọi thứ cho các cô gái trẻ. Tôi nhìn lại bàn còn Lizzie vẫn nhìn thẳng ông ta. Lizzie nói:
“Ông có khỏe không, ông Marston.” Lizze nói. “Tôi tin rằng cuộc sống hôn nhân đang ưu ái ông đúng không?”
“Chắc chắn rồi.” Ông ta trả lời với chất giọng đậm chất Ireland. Mặt ông ta bỗng nhiên thay đổi rõ rệt và dường như đột nhiên ông cảm thấy háo hức trở lại bàn của mình. “Bây giờ bà đã sẵn sàng để dùng bữa chưa, bà Marston?”
Bà ta vui mừng đáp lại bằng tông giọng cao đến chói tai khi nghe cái tên sau khi kết hôn của mình. Ông Marston đặt bàn tay to và dày của mình lên lưng bà ta và vội vã đưa bà ta đến một chiếc bàn trống.
“Cô ổn chứ, Lizzie?” Tôi hỏi và cô ấy gật đầu đầy dứt khoát.
Nhân viên phục vụ đến bàn chúng tôi để nhận gọi món. Chúng tôi có thể chọn các món như bánh cá, thịt bò nướng hoặc gà hầm, cuối cùng tất cả chúng tôi đều chọn thịt bò nướng. Căn phòng có những khung cửa sổ cao lớn và tôi thấy mình đang nhìn chằm chằm vào từng cái một, mong đợi nhìn thấy Finbarr đang đứng ở phía bên kia và quan sát tôi. Mặt trời đã lặn từ lâu, nên ngay cả khi anh đã ở đó thật thì tôi cũng không thể thấy anh. Anh ấy đã qua đêm ở đâu? Anh sẽ có một bữa nóng hổi, hay bất kỳ bữa ăn nào? Mới sáng nay, lần cuối anh ấy ôm tôi đã từ nhiều năm trước. Còn bây giờ, lần cuối anh ôm tôi chỉ mới vài giờ trước.
Tôi liếc qua gia đình Marston đang bận rộn mở khăn ăn, bà Marston vẫn vui vẻ như mọi khi còn chồng bà ấy thì khó đoán hơn.
“Đừng bận tâm tới hai người đó,” Lizzie nói. “đằng kia có nhiều người đáng theo dõi hơn kìa.” Cô nàng hất cằm về phía cặp đôi trẻ đẹp. Ông Race có vẻ cáu kỉnh và kiêu ngạo, còn phu nhân Race thì vẫn ngoan cố khóc lóc.
Lizzie gần như biết chính xác điều gì sắp xảy ra và một cuộc hỗn loạn thật sự nổ ra.
“Tôi không quan tâm,” phu nhân Race khóc lóc lớn đến mức những thực khách không chỉ nghe thấy mà còn khiến họ đột ngột im lặng. Cô mau chóng bật dậy và ném khăn ăn xuống đất. “Tôi không quan tâm đám cưới tốn bao nhiêu tiền hay mọi người sẽ nói cái gì. Tôi không thể tiếp tục. Đơn giản là tôi không thể tiếp tục được nữa!”
“Nghe này.” Chồng cô nói bằng giọng thì thầm vừa đủ nghe nhưng còn ớn lạnh hơn nhiều so với sự bộc phát của cô vợ. “Ngồi xuống và đừng có lộn xộn nữa.”
Cô dâu trẻ xoay người như muốn xông ra khỏi phòng, chồng cô đưa tay nắm lấy cổ tay cô. Trước khi tôi có cơ hội lo lắng những khớp xương mỏng manh đó sẽ bị tổn thương, cô ấy đã nhấc chân lên và giẫm lên chân anh chồng đủ mạnh để khiến anh ta buông ra.
“Anh sẽ làm gì?” Cô ấy hỏi. “Đánh tôi hả? Ngay trước mặt mọi người sao?”
Hầu hết những người đàn ông trong căn phòng - bao gồm cả Donny và Thanh tra Chilton - đều đứng dậy và tiến đến bàn của họ, sẵn sàng can thiệp vụ xô xát. Lizzie cũng đứng lên và bước đến gần hơn để nhìn cho rõ, sự dũng cảm của cô ấy làm tôi ấn tượng nhưng tôi vẫn ngồi yên. Tầm nhìn của tôi bị đám đông quan tâm che khuất.
Cánh cửa phòng ăn bật mở và chủ khách sạn bước vào. “Nhìn này,” Simon Leech nói. “Như vậy là đủ rồi đấy.”
“Việc này chẳng liên quan gì đến mấy người hết.” Phu nhân Race tuyên bố trước cả phòng.
“Nếu vậy thì tốt nhất là không nên làm ầm ĩ ở nơi công cộng.” Ông Leech không cần thêm rắc rối tại khách sạn đang gặp khó khăn của ông. Tuy giọng ông cứng rắn nhưng vẫn ân cần. “Để tôi mua cho hai người một chai sâm panh. Dù sao hai người cũng là vợ chồng mới cưới, đây là thời gian để ăn mừng chứ không phải tranh cãi.”
Tôi nhìn sang bà Marston đang ngoái đầu nhìn để quan sát cảnh tượng. Một vẻ kinh ngạc lướt qua khuôn mặt bà ấy, như thể bà ấy cũng mới cưới và xứng đáng được nhận một chai sâm panh. Ông Marston đứng dậy, nhưng mục đích của ông không phải là yêu cầu đối xử bình đẳng. Ông đưa tay lên cổ họng, rồi ú ớ điên cuồng như thể ông muốn thở nhưng không thể thở được.
“Anh yêu.” Vợ ông khóc lóc và quay lại phía ông. “Ôi anh yêu. Giúp anh ấy, làm ơn, ai đó làm ơn giúp anh ấy!”
Ông Marston ngã xuống sàn, mắt lồi ra, hai tay ôm cổ họng và chân đạp như cá mắc cạn. Nhân viên khách sạn cũng như khách, hầu hết tất cả mọi người đều hướng đến hiện trường tai nạn.
Phu nhân Race trẻ tuổi lại chỗ ông ta đầu tiên. “Lùi lại.” Cô ấy ra lệnh. Nhìn cô như một người khác chứ không phải người khi nãy vừa cãi nhau với chồng. “Tôi là một y tá.” Cô nới lỏng cà vạt và cổ áo sơ mi của ông Marston sau đó bắt mạch cho ông. Cô ấy đặt đầu ông ấy lên đùi và tôi nghĩ cảnh tượng cô gái trẻ xinh đẹp đó để khuôn mặt to, đỏ bừng bừng như một con ếch của ông ta gần cơ thể cô ấy thật là kỳ cục.
Lúc này Lizzie đã trở lại chỗ ngồi của mình, cô ấy và tôi không di chuyển khỏi bàn. Chúng tôi ngồi, lặng lẽ quan sát mọi thứ đang diễn ra. Lizzie nhấp một ngụm rượu và nói, “Quá là nhiều người.”
“Nếu cô muốn hỏi, tôi sẽ nói đã quá muộn rồi.” Tôi nói. Cơn co giật của ông Marston đã ngừng lại. Đôi mắt ông đờ đẫn nhìn lên trần nhà.
Bác sĩ mát xa đã đi về nhưng có một bác sĩ khác, người khách ở phòng 403. Có người đã chạy lên gọi anh ta xuống. Bà Marston tội nghiệp chỉ có thể thu mình lại bên cạnh chồng và vẫn chưa hết sốc khi nhìn thấy cảnh tượng trước mắt. Bác sĩ đến trong tình trạng áo quần mới mặc được một nửa. Anh ta là một người đàn ông trẻ tuổi nhưng tóc lại bạc sớm, trông thanh lịch và quả quyết, mặc dù đang trong trạng thái quần áo xộc xệch.
“Không còn hy vọng gì đâu.” Vị bác sĩ nói sau khi kiểm tra nhanh. Anh ta nhìn quanh phòng, gửi đến tất cả chúng tôi một vẻ mặt trang trọng. Sau đó, bằng những ngón tay lành nghề, anh ta vuốt mắt của ông Marston nhắm lại.
Bà Marston phát ra những âm thanh thật kinh khủng. Bà ấy ôm chặt lấy cổ họng mình như chồng vừa làm lúc nãy và trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ cô ấy cũng gục chết ngay tại đây.
“Đến đây nào.” Thanh tra Chilton bước tới. Ông ta vòng tay qua vai bà ấy. Bà đón nhận cái ôm, tiếng hét của bà thay bằng những tiếng nức nở. Chilton dẫn bà ấy đến một chiếc bàn khác và để bà ngồi quay lưng lại phía người chồng đã khuất.
“Một chút rượu mạnh sẽ giúp ích cho bà ấy.” Bác sĩ nói. “Và có lẽ cần một tấm thảm đắp cho anh ta nữa trong khi chúng ta chờ nhân viên điều tra khám xét những vụ tử vong bất thường đến, tốt hơn hết là đi gọi cho người có thẩm quyền đến thôi.
“Mọi người chẳng thể biết,” Bà Marston đang nức nở. “Chúng tôi đã phải chờ đợi bao lâu đâu, đã trải qua những gì, đã phải từ bỏ những gì. Ôi, ông chồng đáng thương tội nghiệp của tôi. Không thể được. Chỉ như vậy thôi ư? Không thể. Tôi sẽ đi đâu? Tôi sẽ làm gì?”
Bà chống tay lên bàn đứng dậy và lao về phía chồng mình, ôm chầm lấy ông và khóc than. Lực tác động của bà khiến cơ thể ông giật lên và làm mắt ông mở ra lần nữa. Trong khoảnh khắc thống thiết và đầy hy vọng, bà Marston thở hổn hển rồi lại bắt đầu khóc khi nhận ra rằng ông đã không thể sống lại, và bà lại mất ông lần thứ hai.
“Tôi nghĩ tôi sẽ mang đĩa thức ăn này về phòng của mình.” Tôi nói với Lizzie và Donny. Tôi hầu như chưa ăn được miếng nào. Lizzie nói:
“Ừ.” Lizze đáp. “Chúng ta sẽ trò chuyện sau nhé. Cô sẽ ổn chứ?”
“Chắc vậy. Còn cô thì sao?”
Cô ấy gật đầu nhưng đôi mắt đã rưng rưng. Chúng tôi thực sự rất sốc khi chứng kiến chuyện đó.
Khi đi ngang qua chiếc đồng hồ tủ đứng ở sảnh trước, tôi thấy gia đình Race đang đứng ở cầu thang, họ không còn cau có hay tranh cãi nữa. Thảm cảnh vừa rồi dường như đã làm dịu họ lại. Đầu cô ấy cúi xuống, tay anh đang đặt trên cánh tay cô nhưng không phải đang siết chặt đe dọa. Trán của họ áp vào nhau, có lẽ anh ta đang xin lỗi, hoặc thậm chí đang an ủi cô. Tôi dừng lại một chút, hai người họ không ai nhìn về phía tôi và tôi lại đi tiếp.
Phòng của tôi có một chiếc giường bốn cọc rộng và một chiếc bàn viết nhỏ. Tôi ngồi xuống bàn và bắt đầu ăn bữa tối. Chiếc bàn nằm ngay cạnh cửa sổ và lần nữa tôi nhìn vào bóng tối. Tôi như trở về thế giới năm tôi mười bốn tuổi, trở lại Ireland, biết rằng Finbarr sẽ đến sân cỏ để chơi quần vợt bất cứ lúc nào.
Cái chết tôi vừa chứng kiến không làm tôi ăn mất ngon, cũng không làm tôi vô cảm với tình yêu. Tôi ăn sạch đồ ăn của mình, chiến tranh đã dạy tôi rằng không bao giờ được lãng phí thức ăn. Đi ngủ lại là một vấn đề khác. Chiếc giường rất thoải mái và rốt cục tiếng ồn ào ở tầng dưới cũng đã biến mất. Tôi nằm yên, cố gắng xóa bỏ ký ức nhưng vẫn không thể nhắm mắt và cứ nhìn chằm chằm lên màn trướng. Chắc hẳn tôi cũng đã chìm vào giấc ngủ vì lúc ánh nắng chiếu qua tấm rèm tôi quên đóng, tôi bị một tiếng hét đánh thức.
BIẾN MẤT
Ngày thứ tư
Thứ Ba, ngày 7 tháng Mười hai năm 1926
Tôi mặc áo choàng vào và ngó ra ngoài hành lang, nhiều phụ nữ khác cũng xuất hiện trên khắp hành lang. Tôi có thể nghe thấy giọng nói của người bác sĩ trong một căn phòng không xa, có lẽ anh ta là nguồn gốc của tiếng hét lúc nãy khi đang cố gắng trấn an ai đó, tôi đoán chắc là bà Leech. Cánh cửa đối diện hành lang phòng tôi mở ra với một tiếng két gấp gáp, cô gái trẻ Cornelia Armstrong - đi du lịch một mình - đang đứng đó với vẻ hết sức tự tin.
“Đó là phòng của bà Marston.” Cô thông báo cho cả khách sạn nghe thấy. Cô Armstrong chỉ mới mười chín tuổi, cô tạo ra tư thế hoàn hảo và suối tóc đen dày đáng kinh ngạc đổ xuống lưng. Cô nàng hay hếch cằm khi nói, khiến cho người nghe cảm thấy bị thách thức và cãi lại lời cô nói.
“Ôi trời ạ.” Tôi thốt lên.
“Tôi sẽ đi xem chuyện gì đã xảy ra.”
Không ai ngăn cô ấy lại. Cô Armstrong đi dọc hành lang về phía phòng của bà Marston. Cô ấy thắt dây áo choàng lỏng lẻo nên da thịt ở phần trên của cô ấy bị lộ ra nhưng có vẻ như cô không cố ý làm thế. Khi quay lại, khuôn mặt của cô ấy tái nhợt và cô kể lại bằng giọng nói run rẩy, “Bà Marston đã chết rồi. Tôi thấy bác sĩ kéo tấm khăn che mặt bà ấy.”
Lúc này, đã nhiều khách tập trung trên hành lang hơn, trong đó có một người phụ nữ luống tuổi nhưng chưa chồng gầy trơ xương. Bà ấy che miệng bằng một bàn tay mỏng manh, đầy tàn nhang và thở hổn hển, “Thật kinh khủng.”
“Tôi nghi cô ấy chết vì quá đau lòng.” Cô Armstrong tuyên bố với những người người mù mờ chưa rõ chuyện gì đang đứng quanh mình như một chuyên gia đang chẩn đoán. Cô có làn da trắng mịn và đôi mắt đen gần như màu tóc. “Mọi người biết rồi đấy, ông bà Marston đã gặp nhiều bất hạnh trước khi có thể kết hôn với nhau.”
Tôi những muốn nói tôi rất biết ơn vì sẽ không cần phải nghe từ bất hạnh đó thêm một lần nào nữa trong đời. Tôi muốn thốt ra rằng nếu trái tim tan vỡ có thể giết chết một người thì tôi đã chết từ lâu rồi. Nhưng thay vì vậy, tôi đóng cửa mà không nói thêm một lời nào. Trước tình hình đó, không cần ứng xử theo thông thường.
***
Chilton đang ở tầng dưới để gọi cho Lippincott. Ông nghe thấy tiếng hét như bị bóp nghẹt nhưng không thèm để ý. Có lẽ một người phụ nữ nào đó đột nhiên nhìn thấy một con nhện.
“Ông sẽ cử người đến điều tra chứ?” Ông hỏi Lippincott, ý nói đến cái chết của ông Marston.
“Không có người nào để cử đi cả, đó là lý do ông được cử đến đấy. Có thể là không có chuyện gì hết. Tôi đoán là do một cơn đau tim thôi.”
Tất nhiên là điều này nghe có vẻ đúng. Tại sao người ta lại muốn làm hại một ông già người Ireland kia chứ?
Ngay khi Chilton vừa dập điện thoại, bà Leech lao xuống cầu thang với vẻ mặt lúng túng nhất từ xưa tới giờ.
“Bà Leech?”
Gương mặt giàn giụa nước mắt nên không thể đáp lời, bà giơ tay lên ra hiệu và chạy nhanh vào bếp nơi chồng bà đang giám sát việc chuẩn bị bữa sáng. Một lúc sau, người bác sĩ bước xuống nhà trong bộ quần áo cũng xộc xệch như đêm hôm trước, mồ hôi lấm tấm trên trán anh dù đã qua mùa nóng. Chilton đưa cho anh ấy một chiếc khăn tay. Cả hai đã trò chuyện với nhau tối qua và cùng chia sẻ một điếu thuốc trong khi chờ nhân viên điều tra đến đưa xác ông Marston tội nghiệp đi.
Bác sĩ lau lau trán. “Những chuyện này chết tiệt thật.” Anh ta cằn nhằn. “Tôi đang đi nghỉ cơ mà.”
“Có chuyện gì nữa ư?” Chilton hỏi.
“Thêm một người nữa chết. Bà vợ. Bà Marston. Họ đang đi hưởng thể loại tuần trăng mật gì vậy trời?”
“Trời ạ. Vậy thì có lẽ giờ họ đang hưởng tuần trăng mật cuối cùng đấy. Và giờ họ chắc tái hợp ở thế giới bên kia.” Chilton không tin vào chuyện này trong giây lát nhưng có một ý niệm mơ hồ của ông cho rằng nhà Marston sẽ thích ý tưởng này. Họ có cái kiểu tự mãn thiển cận về đức tin của họ, giống như cuộc sống này và mọi thứ diễn ra tiếp theo đều nợ họ hạnh phúc. Nhiều người đàn ông lớn tuổi thường viết sẵn di chúc từ sớm, nhưng dù chưa có cơ hội trò chuyện với ông Marston trước khi ông ta đột nhiên khuỵu xuống, Chilton vẫn có thể nói chắc Marston không phải là một trong số đó.
Thái độ hài hước có thể làm dịu đi những trường hợp thảm khốc nhất nên Chilton nghĩ đến việc nói những câu chẳng hạn như: Anh nghĩ ai sẽ muốn loại bỏ cặp đôi đó? Chắc chắn mức độ nghi ngờ đến những chi tiết kì lạ trong vụ đầu tiên đã tăng cao khi giờ vợ của người đàn ông đó cũng đã chết.
“Có biết được nguyên nhân không?”
“Nhìn qua thì không có bất kỳ dấu vết nào trên người bà ấy, cũng không có bất cứ dấu hiệu bất thường nào khác. Mặc dù bà ấy chắc chắn đã chịu một cú sốc nhưng bà ấy vẫn còn quá trẻ để bị suy tim.”
“Tối hôm qua bà ấy có ăn uống cái gì không?”
Ông bác sĩ xù lông nhím lên. “Tôi đã đưa cho bà ấy một liều thuốc ngủ. Hoàn toàn vô hại.”
“Đương nhiên là nó vô hại rồi.” Chiltion nói. “Thật đáng tiếc.”
“Đúng vậy thật. Chắc tôi sẽ rút ngắn kỳ nghỉ hơn so với dự tính thôi. Mọi chuyện cứ sai sai và tôi chẳng cảm thấy mình được nghỉ ngơi một tý nào.”
Chilton gật đầu và rời đi. Ông cảm thấy hơi có lỗi vì đã không thích gia đình Marston ngay từ cái nhìn đầu tiên. Từ bây giờ, ông sẽ chỉ lo công việc chính của mình là tìm kiếm Agatha Christie. Ông sẽ không dính líu đến những chuyện của khách sạn và chỉ tập trung vào con đường phía trước, cẩn thận thực hiện trách nhiệm của mình.
***
Sau những ồn ào đáng tiếc, tôi bỏ bữa sáng và mặc lên người bộ quần áo ấm áp nhất của mình. Khi tôi đi qua quầy lễ tân, bà Leech chào đón tôi với sự cổ vũ vô cùng nồng nhiệt. “Cô định đi dạo phải không? Hôm nay là một ngày tuyệt vời để đi dạo, không khí lạnh sẽ giúp ích cho cô. Chuyện của gia đình Marston thật kinh khủng, ông ấy chết vì đau tim còn bà ấy chết vì quá đau lòng.”
“Nhân viên điều tra đã đưa ra kết luận chưa?”
“Ồ, chứ còn có lý do nào khác nữa đâu? Thật đáng buồn, thật đáng buồn, nhưng chuyện này có thể xảy ra ở bất cứ đâu! Chả liên quan gì đến chúng tôi hết!”
Tôi thấy được nhiều hơn một người khách đã trả phòng. Các bồn tắm nước nóng dường như không còn nhiều tác dụng chữa trị nữa sau hai cái chết đột ngột vừa rồi: thứ cuối cùng mà khách sạn của họ cần.
Đi trên con đường đầy bụi, tôi nghĩ đến cuộc trò chuyện giữa tôi và Ursula Owen tại Godalming vào đêm Agatha mất tích. Cuộc trò chuyện về Lucid Dreaming và Lucid Living quả là một kết luận đáng yêu ra sao. Tôi là một cô gái có khả năng đó, nghĩ về Finbarr và đột nhiên anh ấy xuất hiện. Vào ngày đó ở Harrogate, lần đầu tiên kể từ lễ Đình chiến tôi biết mình có thể thực hiện lại năng lực này một lần nữa. Chẳng phải chuyện siêu nhiên nào xảy ra cả. Tôi tin chắc rằng linh hồn của gia đình Marston vẫn ổn và thực sự đã từ giã cõi đời. Tôi biết rằng nếu tôi đi đúng hướng Lizzie và tôi đã đi hôm qua, Finbarr sẽ xuất hiện ở đó.
Không còn nghi ngờ gì nữa, khi đi qua vòng cua, anh ấy đang ở đó: tay đút túi quần, hơi thở phả ra, má ửng hồng. Lần này tôi đi bộ thay vì chạy về phía anh và vẫn tiếp tục đi thẳng nhưng anh đã giơ hai tay ra chặn tôi lại.
“Anh ổn chứ?” Tôi hỏi. “Anh có ăn hay ngủ gì không đấy?”
“Có chứ,” Anh thì thầm vào tai tôi. Tay anh đặt sau lưng tôi rất vững vàng, không hề run rẩy. “Còn em?”
“Em á?” Tôi lùi ra khỏi anh. “Em đang ở trong một khách sạn sang trọng có sẵn đồ ăn, có mái nhà che chắn và lò sưởi ấm áp. Còn anh đang ở đâu vậy?”
“Nơi có một mái nhà và một lò sưởi. Em không cần phải lo lắng cho chúng tôi đâu Nan à.”
“Chúng tôi?”
Tôi bất giác rùng mình ớn lạnh. Tôi vừa tưởng tượng ra một viễn cảnh phi thực tế nhất nhưng cũng rực rỡ nhất: Finbarr ngồi bên cạnh một chiếc lò sưởi rộng với ngọn lửa đang nổ lách tách và đang ôm con của chúng tôi vào lòng.
***
Chilton lái xe mà Lippincott đưa băng qua những con đường không mấy bằng phẳng. Ông giảm tốc độ khi đi ngang qua một cặp đôi trẻ, nếu không nói là khá trẻ. Người đàn ông có vẻ đủ tuổi để tham gia chiến trận và có vẻ như anh ta cũng từng là một người lính (Chilton chỉ cần nhìn thoáng qua cũng có thể biết được điều này dù khoảng cách khá xa đi nữa). Đôi khi, chính ông cảm thấy có vẻ như mình vẫn sống trong các đường hầm ở Arras, dưới những trần nhà rung chuyển với đống gạch đá đang rơi xuống và chứng sợ không gian hẹp. Và ông cũng nhận biết rằng nếu làm theo bản năng và chạy ra ngoài, ông sẽ cảm thấy mình đang ở giữa làn mưa bom bão đạn của quân thù. Sau đó, ông sẽ thấy bản thân đã chết, trên người đầy vết đạn do súng máy tạo nên. Giá như lúc đó Chilton biết được rằng sau này ông đã ao ước kết cục đó đến mức nào.
Còn người đàn ông trẻ tuổi này chắc hẳn đã rất mong muốn được sống, nhìn cái cách khuỷu tay anh ta giữ chặt cô gái là biết. Cũng giống sự nhiệt tình của chàng trai, Chilton giảm tốc độ để đảm bảo rằng cô gái muốn nhận cái ôm đó. Cả hai quá bận đắm chìm vào khuôn mặt của nhau đến mức dường như họ không thèm để ý đến chiếc xe hay cái nhìn chăm chú của Chilton. Cô gái có thân hình nhỏ nhắn và mái tóc đen, khuôn mặt tràn đầy cảm xúc nên chắc không phải người Anh, có lẽ là người Pháp. Dù quốc tịch có là gì đi chăng nữa thì rõ ràng là cô ấy không gặp nguy hiểm, ít nhất là không gặp nguy hiểm từ cái gã đang giữ cô ấy. Còn nhìn vào cảm xúc của cô ấy, ừm, đó là chuyện khác.
Chilton thay đổi tốc độ và lái xe, khuôn mặt của cô gái vẫn còn trong tâm trí ông. Ông đã gặp cô. Đúng rồi, cô ấy đang ở khách sạn Bellefort, ông đã cho cô ấy xem bức ảnh của Agatha Christie và cô xem xét nó nghiêm túc và đầy trách nhiệm. Thảo nào ông không thể nhận ra cô ngay lập tức. Cô hoàn toàn chìm đắm trong cảm xúc trong khoảnh khắc lúc nãy, tóm lại thì cô ấy là một người phụ nữ Anh tử tế. Phu nhân O’Dea, cô ấy đã nói vậy. Người đàn ông trẻ ấy chắc không phải chồng cô và anh ta không ở khách sạn đấy, ông chắc chắn thế. Quả là người nào cũng có cuộc sống bí mật.
Ông Chilton bận miên man suy nghĩ nên quẹo nhầm vào một ngã rẽ, lại thêm một ngã khác nữa, đến một con đường nông thôn mờ mịt. Ông tấp vào lề để lấy tấm bản đồ bà Leech đã đưa cho ông ra. Đang tắt máy xe thì ông để ý thấy một ngôi nhà đóng kín cửa vì mùa đông, cửa sổ bị đóng ván lên, nhưng có khói cuộn lên đều đều từ ống khói. Ông bước xuống xe, không khí có mùi như củi và đất mùn làm từ lá. Khi đến gần, ông thấy có một chiếc ô tô đậu bên cạnh ngôi nhà. Nhìn cách chiếc xe được đặt ở phía sau căn nhà và dùng những cành cây du thấp để che khuất tầm nhìn, có lẽ ai đó đã cố tình giấu nó khỏi những người đi đường. Chiếc xe lớn và màu đen. Chilton không có nhận xét gì về chiếc xe cả, ông không phải một người rành về xe cộ. Trước hiên ngôi nhà, bụi tuyết đóng thành mảng, không có dấu chân nào. Chilton ghé tai vào cánh cửa làm bằng gỗ dày. Ngôi nhà nông thôn này tuy khiêm tốn nhưng lại được thiết kế rất đẹp, cứng cáp, không gian rộng rãi và làm từ vật liệu tốt. Đầu hồi nhà xinh xắn. Ông nghe tiếng lạch cạch phát ra từ bên trong, phải mất một lúc ông mới xác định được đó là tiếng phím trên máy đánh chữ. Một âm thanh vui vẻ, cần cù, lạch cạch lạch cạch. Ông lắc chiếc vòng gõ cửa nặng bằng đồng và gần như cảm thấy tiếc khi tiếng động đột ngột dừng lại, sau đó là những tiếng bước chân bực bội, ông vội lùi lại khi cánh cửa bật mở.
Người phụ nữ cao ráo có mái tóc màu đỏ và cặp mắt sắc sảo. Biểu cảm của cô thay đổi nhanh chóng vào thời điểm cô nhìn thấy người đàn ông, từ mong đợi sang thất thần, rồi biến thành khuôn mặt nhã nhặn mà mọi người thường dùng để bảo vệ bản thân khỏi sự thật. Cô ấy mặc quần áo của nam giới: quần tây và một chiếc áo len dày bên ngoài chiếc áo sơ mi có cổ, ẩn hiện chuỗi ngọc trai bên trong.
“Hân hạnh được gặp ông.” Cô ấy nói bằng giọng điệu sang trọng và lễ độ. Tóc cô xõa ngang thành từng lọn trên vai. Cô tự vén tóc hai bên ra sau tai rồi chìa tay ra như mời ông vào uống trà.
Chilton bắt lấy tay cô. Cô ấy đẹp hơn so với bức ảnh mà ông để lại trên ghế phụ ô tô, trắng hơn và trẻ trung hơn và những biểu cảm trên khuôn mặt cô dù cô đã cố giữ nguyên sắc thái cũng không được thể hiện hoàn toàn trên bức hình. Đôi mắt cô không tối như trong ảnh mà có màu xanh lam sáng điểm thêm vài đốm màu xanh lục. Vậy nhưng vẫn không thể nào nhầm lẫn được, người trên ảnh và người ông đang thấy trước mặt đây là một.
“Phu nhân Agatha Christie.” Chilton thốt lên. “Ôi trời ơi. Chúng tôi đang tìm kiếm cô.”