Người hiểu “tại sao” mà sống, hầu như “bất kỳ” sự đau khổ nào cũng đều có thể chịu đựng; thấu hiểu tại sao, mới có thể nghênh đón bất kỳ.
Friedrich Nietzsche
CHĂM SÓC TÂM LINH
Chịu khổ - khơi gợi mật mã tâm hồn
Anh ấy không giết người, lại bị xử ngồi tù vì trọng tội. Sau bảy năm, anh ấy được thả.
Không ngờ, ra tù rồi, cuộc sống mới vừa bắt đầu, lại bị tuyên án…
Nhẫn nhịn tạo ra cơ hội cho cuộc đời
“Anh oán giận không?”. Tôi hỏi.
“Thầy ơi, tôi không oán giận! Nếu không có bảy năm vừa qua, thì tôi vẫn là tôi trước kia, cha mẹ vẫn phải đau lòng vì tôi, bạn gái cũng phải chịu khổ cùng tôi… thậm chí có thể tôi đã sớm không còn trên cõi đời này nữa. Nên tôi không oán giận chút nào!”.
Trước mặt tôi, người đàn ông lớn lên trên vùng núi cao, có nước da trắng, cao gầy đang bình thản trả lời như thế. Nhưng nếu nói đến những gì anh ấy đã trải qua sẽ khiến ta phải đau lòng.
Hồi niên thiếu, mẹ chết sớm, cha không có nghề nghiệp gì, nên anh được ông bà nuôi dạy. Anh kết giao với nhiều bạn bè bụi đời, suốt ngày chơi bời lêu lổng, không có mục tiêu sống.
Một hôm, bạn bè gọi lớn: “Đi thôi!”.
“Đi đâu?”.
“Mày cứ lái xe đi là được rồi!”.
Anh ta cũng không biết mọi người sắp làm gì, nên cứ làm tài xế một cách khờ khạo.
Khi đến nơi, mọi người nhanh chóng xuống xe, còn anh ấy ở trên xe đợi. Đợi thì đợi. Lát sau anh tự hỏi: Sao chẳng thấy ai quay lại vậy? Họ đi đâu rồi? Còn phải chở họ về chứ!
Thì ra, đã xảy ra án mạng rồi!
Bạn của anh ta và một nhóm khác chém giết nhau, chết người, mọi người đều chạy trốn hết rồi, chỉ còn mình anh ta khờ khạo đứng đó chờ nên bị công an bắt tại hiện trường. Cuối cùng, người chủ mưu bị xử tử hình, anh ta bị xử trọng tội với hơn 20 năm tù giam.
“Cuộc sống trong tù còn cực hơn cả chết…”. Anh ta cho biết, mùa hè thì giống như lò thiêu, có 3, 4 mét vuông mà nhốt sáu đến bảy người đàn ông to lớn, quần áo ướt hết lần này rồi lại lần khác, da tróc hết lớp này đến lớp khác, khi ngủ không dám cựa quậy, vì làm động đến người khác sẽ bị đánh đập liền.
Thực tế, chẳng có lý do gì thì anh ta cũng hay bị bắt nạt, bị đánh, thậm chí bị đánh hội đồng…
“Làm sao bây giờ?”.
“Phải nhịn thôi”. Anh ấy trả lời, nhịn không được cũng vẫn phải nhịn, do đó anh cũng thường cắn chặt môi đến nỗi bật máu.
“Tại sao lại phải nhịn như thế?”.
“Đợi đến khi được thả!”. Anh ấy nói. Chỉ cần bị ghi là có cãi nhau thì sẽ bị giam thêm nửa năm, cho nên, có khổ đến đâu cũng cố nuốt vào trong.
“Có sức mạnh nào đã nâng đỡ anh?”.
“Mỗi lần tôi nhìn thấy hình bóng ông bà 70, 80 tuổi lưng còng đến thăm tôi rồi bước ra khỏi nhà tù, lại còn người bạn gái khăng khít không rời, là tôi lại cảm thấy đau khổ đến muốn khóc!”.
“Mỗi lần lễ Tết nghe thấy tiếng pháo của những gia đình sống gần nhà tù vang lên như lời chúc tụng là tôi lại chịu không nổi. Tôi đã khóc, khóc rất nhiều. Tôi nhớ ông bà nội, cũng cảm thấy rất hối hận, không biết họ sống ra sao, có tốt không? Mỗi lần như vậy tôi lại bảo với chính mình, đã sai nhiều năm rồi, giờ tôi không thể tiếp tục sai nữa, nhất định phải nhịn…”.
Thế là anh ấy bắt đầu cảnh tỉnh, tại sao cuộc đời anh lại ra nông nỗi này? Nếu có thể làm lại cuộc đời, anh ấy nhất định sẽ trân trọng nó.
Cùng với việc anh ấy mong đợi từng ngày trôi qua, cứ hết một ngày một đêm thì coi như đã qua được một ngày?
Anh ấy cho mình cơ hội cảnh tỉnh, vận may đã đến với anh, cuối cùng cũng đến ngày anh được ra tù.
Mộng ước tan vỡ - bệnh do nhẫn nhục mà ra
Anh ấy ngồi trong xe, mắt dán chặt vào từng người, từng vật, từng cái cây, ngọn cỏ đi qua ở bên ngoài. Thời gian như tĩnh lặng, anh ấy không nỡ chớp mắt, muốn tranh thủ thu nạp thế giới mà bảy năm qua, anh ấy không được nhìn thấy vào hết tầm mắt. Trong lòng anh tràn đầy hy vọng, muốn hét thật lớn rằng anh yêu cái thế giới này biết bao!
Cháu nội xuất hiện đột ngột, bà nội ngạc nhiên vô cùng và vui mừng rơi lệ. Anh cũng đã hạ quyết tâm “nhất định phải làm người tốt, không được để cho bà nội thất vọng nữa”.
Sau khi ra tù, anh ấy vô cùng nỗ lực làm việc, kiêm nhiệm nhiều công việc và một lòng muốn phụng dưỡng ông bà nội. Anh cũng hứa với bạn gái là kết hôn, lập nghiệp, rồi mọi người sẽ sống cùng nhau.
Thái độ sống của anh đã thay đổi hoàn toàn, giống như anh đã thay da, đổi thịt thành một con người khác. Ông bà nội vui mừng nói: “xem như đã nhặt lại được cháu nội về!”.
Khi anh đang cố gắng thêu dệt mơ ước thì cơ thể bắt đầu xuất hiện những cơn đau chưa rõ nguyên nhân. Cơ thể anh dần dần gầy đi. Sau khi ra tù được hai năm, anh ấy bị chẩn đoán là ung thư gan giai đoạn cuối. Trời cao như sụp đổ, tất cả những ước mộng giờ tan thành bọt nước.
Ở tù, cho dù là tù chung thân vẫn còn hy vọng. Bây giờ anh giống như đã bị kết án tử hình rồi, hoàn toàn không còn hy vọng gì nữa.
Anh ấy rơi vào tuyệt vọng, không thể kiềm chế kêu la: “Cuộc đời rốt cuộc có ý nghĩa gì?”; “Tôi thật lòng muốn bù đắp lại, nhưng chưa kịp làm gì thì đã sắp chết rồi…”.
“Tôi cảm thấy vô cùng tội lỗi, nhưng tôi vẫn chưa buông bỏ được!”.
Từ khi được đưa vào Phòng chăm sóc giảm nhẹ, cho dù thân thể có đau đớn vì bệnh tật như thế nào, vừa mới kêu đau trước mặt nhân viên y tế, nhưng chỉ cần có ông bà nội vào phòng, anh ấy lập tức tươi cười chào hỏi, giấu hết những cảm xúc đau đớn về thể xác.
“Không thể để ông bà nội lo lắng về tình trạng của tôi nữa, không thể để liên lụy đến bạn gái…”. Anh ấy cố hết sức che giấu nỗi thống khổ, lo lắng và bất an. Vì anh ấy tự trách mình đã không thể phụng dưỡng ông bà cũng như đã để bạn gái chờ cả đời mà chẳng chờ được.
Chẳng lẽ người nhà của anh ấy không thấu hiểu tâm tư của anh ấy sao?
Mỗi lần đến thăm anh ấy xong, bà nội đều đến tìm tôi, hoặc quỳ trước tượng Phật khóc mãi không thôi và nói rằng: “Tôi biết nó rất buồn. Nó là đứa cháu rất ngoan, tại sao Phật Tổ lại để nó phải đi đến bước đường cùng này?”.
Còn người bạn gái, không chỉ vừa học nghiên cứu sinh, vừa đi làm, lại còn phải lo viện phí, buổi tối thay phiên bà nội chăm sóc anh ấy, tất nhiên cũng hiểu được phần nào, chẳng qua hai người không nói rõ ra thôi.
Trước mặt tôi, anh ấy không cần phải giấu giếm, đau thì nói đau, lo buồn thì nói lo buồn. Nhưng cho dù là đau đớn thế nào, khi tôi đưa đồ gì cho anh ấy, anh ấy đều mỉm cười nhìn tôi và nói những lời rất dịu dàng.
Có một khoảng thời gian, anh ấy rất dữ với bà nội, thường cố ý nói: “Bà già như vậy rồi, đi còn không vững, lần sau đừng đến nữa”.
Anh ấy biết rằng mỗi sáng bà nội lên rừng bẻ măng, mang về cho ông nội bán, rồi lại phải nhanh chóng đón xe đến bệnh viện chăm sóc mình. Quá vất vả! Anh ấy nghĩ rằng làm dữ hay làm gì xấu với bà nội một chút, sau này bà có nghĩ đến mình thì cũng đỡ đau xót, thậm chí vì tức giận mà không đến bệnh viện nữa, như vậy sẽ đỡ cực cho bà nội đã già yếu. Anh ấy cam chịu một mình đơn độc rồi chết.
Không ngờ, cho dù dữ thế nào, đuổi thế nào thì bà nội ngày nào cũng đến, lại còn hỏi rằng: “Sao lại như thế, không đỡ chút nào à, chỗ này sao còn sưng vậy, sao Phật Tổ không phù hộ vậy?”.
Thực tế thì chỉ cần có mặt bà nội là anh ấy giấu hết mọi nỗi niềm, nén chịu đau đớn, chịu áp lực rất lớn và không phút nào nằm yên được trên giường bệnh. Vì bà nội cứ suốt ngày lắp bắp: “Sao lại không khỏi, sao cháu càng ngày càng gầy, cháu không ăn gì làm sao mà khỏe được, sao mặt cháu càng ngày càng vàng, trời ơi, sao lại như thế này chứ?”...
Cho nên anh ấy đành phải đưa bà nội ra Phật đường để nói chuyện cùng bà.
Nói ra nỗi lòng, an tâm là chính mình
Nhìn người thanh niên nửa thân trên gầy chỉ còn da bọc xương, bụng thì trương phình, hai chân sưng như chân voi, tế bào ung thư đã di căn đến xương, đến phổi, vậy mà vẫn phải mỉm cười, giả như không có chuyện gì, quả là xót xa!
Tôi nói với anh ấy: “Anh làm như vậy, vừa không thể khiến cho mình an tâm, cũng không thể giúp cho ông bà nội và bạn gái an tâm, cuối cùng sẽ để lại hối hận cho cả mình và mọi người!”.
Sau khi tìm hiểu suy nghĩ của mọi người và được sự đồng ý của họ, tôi liền sắp xếp cho bà nội, người bạn gái và anh ấy cùng ngồi với nhau để có thể nói ra tất cả.
Tôi bắt đầu gợi chuyện rằng anh ấy rõ ràng rất đau đớn, gần như đến mức không chịu được nữa, vậy mà chỉ cần thấy bà nội hay bạn gái vào là anh ấy lại như khỏe lại, như vậy “có cần nói rõ với bà nội và bạn gái rằng anh còn đang lo lắng điều gì?”.
Anh ấy nghẹn ngào rưng rưng kể về chuyện từ nhỏ cho đến khi bị bệnh… Nói một hồi anh đột nhiên khóc lớn, rồi cứ lặp đi lặp lại câu: “Bà nội, cháu xin lỗi bà! Bà nội, cháu xin lỗi bà...”.
Anh ấy nói với bạn gái: “Hai chúng ta về học thức cách biệt nhau rất xa, từ trước đến giờ em không hề xem thường anh, anh lại để em chờ lâu như vậy, mà giờ anh lại bị bệnh như thế này. Rồi sau này em biết ăn nói thế nào với cha mẹ? Anh thật sự rất xin lỗi, rất xin lỗi em...”.
“Đừng khóc nữa, bà đều biết hết, bà không trách cháu đâu, chỉ cần cháu không sao là được rồi…”. Bà nội cũng nói đi nói lại điều này.
“Chúng ta đã quen nhau lâu như vậy, em là người thế nào anh biết mà. Lúc trước khi anh bị tù, em cũng đâu có bỏ, bây giờ lại càng không thể…”. Người bạn gái nói.
Sau khi mọi người nói hết lòng mình, có thể thấy anh ấy đã yên tâm rồi.
Tôi nói: “Lúc này, bản thân anh nên yên lòng, thì mới có thể làm cho người thân yên lòng được! Hãy tự mình đi tốt trên con đường của mình, vì chỉ khi thấy anh bình an, họ mới có thể bình an...”.
“Bà nội và bạn gái tại sao không ruồng bỏ anh, không phải vì họ muốn anh luôn bình an sao? Cho nên, dù thế nào cũng cần phải vì họ mà cố gắng, cũng giống như việc anh đã cố gắng trong nhà tù. Bây giờ hãy lấy sức mạnh ấy ra, hãy đem nụ cười đau khổ ức chế khi kìm nén cơn đau ấy đổi thành mỉm cười thật, và chúc phúc cho họ… Như vậy, sau này khi họ nghĩ về anh sẽ không quá bi thương…”.
Mỉm cười, chào đón kiếp sau
“Thật sự chẳng còn cách nào, chỉ đành nương tựa nơi Phật Tổ thôi!”. Bà nội cho dù trước đó đã oán trách Phật Tổ sao không thương xót đứa cháu của mình nhưng vẫn luôn dặn cháu: “Muốn được Phật Tổ phù hộ, cháu cần phải niệm Phật”.
Người cháu rất nghe lời. Trước đó bà nội bảo niệm Phật thì anh ấy cũng niệm, nhưng chỉ để an ủi bà nội thôi.
Bây giờ khác rồi, anh ấy không cần phải dối lòng, anh có thể là chính mình và hiểu rằng: “Chỉ cần mình tốt thì mọi người đều tốt”.
Anh ấy nghe lời bà nội, một lòng niệm Phật. Tôn trọng chỉ dẫn của thầy, quy y, cố gắng, tích cực chuẩn bị cho kiếp sau.
Anh ấy quán tưởng niệm Phật và chúc phúc mọi người. Bà nội và bạn gái cùng anh ấy cố gắng, cho dù sức khỏe của anh ấy ngày một yếu, nhưng lại rất bình tâm...
Sau một tuần, anh ấy đã tháo bỏ được cái gông của đời này, mỉm cười chào đón kiếp sau.
CHĂM SÓC TÂM LINH
Chịu khổ - khơi gợi mật mã tâm hồn
Sẽ có nhiều người hỏi rằng: Nếu con người cuối cùng rồi cũng chết, tại sao lại phải tồn tại? Nếu đời là bể khổ, vậy tại sao con người lại được sinh ra? Đây chính là câu hỏi lớn lao của vũ trụ này từ thiên cổ!
Không chỉ có cái chết, “khổ” cũng là vấn đề mà nhiều tôn giáo, triết học không thể trốn tránh và cố gắng giải thoát. Trong thực tế, không chỉ bệnh nhân khổ, “khổ” là nỗi niềm chung của mọi người. Và sinh, lão, bệnh, tử chính là con đường mà ai ai cũng phải trải qua.
Phật giáo là tôn giáo được phát triển từ quan niệm “tất cả mọi thứ sinh tồn đều là khổ”. “Khổ” ngoài những áp lực trực tiếp lên thân thể và tâm hồn ra, nó còn gián tiếp khiến con người nghi ngờ về ý nghĩa của cuộc đời: “Ý nghĩa cuối cùng của việc tôi phải chịu khổ là gì?”.
Trong phòng bệnh ta thường hay nhìn thấy những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối u sầu hoặc lúc tỉnh lúc mê, lần đầu gặp mặt họ liền nắm tay thầy nói: “Tôi rất đau khổ!”. Trong lâm sàng, nỗi khổ của mỗi người bệnh không chỉ đơn nhất, mà mọi người đều có nỗi khổ về thân, tâm linh. Y học chỉ có thể giải quyết một phần nỗi khổ; nhưng vẫn còn những nỗi khổ không rõ và không thể nói ra, đó là nỗi khổ đến từ sự sợ hãi, hoặc sự bối rối tồn tại trong cuộc sống.
Văn hóa phương Tây lấy “Liệu pháp ý nghĩa” để tìm lối ra cho nỗi khổ của bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, giúp đỡ bệnh nhân đối diện với những khó khăn của riêng mình. Phật giáo thì tin rằng, ai ai cũng có đủ năng lực để vượt qua đau khổ, trên cơ sở của “Liệu pháp ý nghĩa”, chỉ thêm cho họ phương pháp “nhẫn nhục”, giúp đỡ bệnh nhân tu hành trong bệnh tật, để khắc phục nỗi sợ chết.
Người đưa ra “Liệu pháp ý nghĩa” là Viktor Frank, trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ hai, toàn bộ người trong gia đình ông lần lượt bị đưa đến “Trại tập trung Auschwitz” tàn ác (trại hủy diệt của Đức Quốc xã). Đây là nơi giết người hàng loạt với bốn bề được rào bằng lưới sắt có chạy điện cùng rất nhiều phòng ngạt hơi và hố thiêu. Những người ở trong đó, không chỉ có những đau khổ về mặt thân thể, còn có cả những tổn thương về mặt tinh thần, cuộc sống của họ như những “đầu lâu được khoác lên lớp da và tấm áo rách”, “tất cả mọi ác mộng, mọi sự việc cho dù có ác đến mấy, cũng không thể nào so sánh với sự thật tàn khốc tại trại tập trung hủy diệt ấy”. Cha, vợ, anh trai của ông ấy đều bị chết trong phòng ngạt hơi, chỉ có ông ấy và cô em gái là còn sống.
Ông Viktor Frank sống trong tuyệt vọng, ông không được đối xử như một con người. Nhưng lúc này ông vẫn chưa biết vợ mình đã bị giết. Vì muốn sống để được gặp lại vợ, ông đã nhẫn chịu tất cả mọi khổ đau. Trong tâm trí ông luôn hiện lên hình ảnh của vợ mình, ông thông qua những hồi ức về quá khứ để làm sức sống nội tại mạnh mẽ hơn, thậm chí còn nói chuyện với hình bóng của vợ. Từ đó, ông hiểu rõ rằng: “Sự cứu rỗi của loài người chính là yêu và được yêu”. Do vậy, ông đã kết hợp sự trải nghiệm của mình với học vấn để đưa ra “Liệu pháp ý nghĩa”, giúp người chịu khổ tìm và xác định nỗi khổ của mình là có ý nghĩa, để khơi gợi sức mạnh tiềm tàng nội tại.
Cũng giống như nhân vật chính trong câu chuyện, vì mục tiêu ra tù đoàn tụ cùng bà nội và bạn gái, anh ấy đã nhẫn chịu tất cả mọi nhục nhã, tìm thấy ý nghĩa của việc chịu khổ, mà sự nâng đỡ phía sau ấy chính là tình yêu và sức mạnh nội tại.
Khi một người phải chịu đau đớn về thể xác hay bị giày vò về mặt tình cảm, việc tìm kiếm ý nghĩa của những nỗi khổ đó rất quan trọng. Đặc biệt là vào thời khắc sắp ra đi, ý nghĩa ấy có thể dẫn dắt ta mở ra tầm nhìn về kiếp này và kiếp sau.
Nhà triết học Karl Jaspers cho rằng, thất bại (chịu khổ) là khơi gợi mật mã tâm hồn. Phật pháp cũng cho rằng: Khổ, là cơ chế quan trọng để khơi gợi sức mạnh nội tại. Vì con người đều có khả năng giải trừ đau khổ, sức mạnh ấy dựa vào sự trưởng thành của bản thân, không phải từ bên ngoài đến. Cho nên, xem chịu khổ như là quá trình trưởng thành về sức mạnh nội tại cũng như tâm hồn, là quan điểm chung giữa Đông và Tây phương.
Những nghiên cứu liên quan cũng chỉ ra rằng: người cảm nhận được ý nghĩa của cuộc sống càng nhiều, thì nỗi lo lắng, sợ hãi về cái chết càng ít, và như vậy khi chấp nhận cái chết, sẽ càng giữ được thái độ đúng đắn và lạc quan.
Có một bà cụ 85 tuổi, trình độ học vấn tốt nghiệp trung học phổ thông, bị ung thư tụy, sau đó đột quỵ, tăng huyết áp.
Còn chồng của bà là người học cao, phong lưu, khoáng đạt. Cả đời bà chăm lo cho gia đình, chịu cực, chịu khổ, còn người chồng thì ra ngoài ngoại tình, bỏ mặc bà hơn 30 năm, mãi đến khi kẻ thứ ba trong quan hệ hôn nhân tự sát, ông mới về bên người vợ bệnh tật.
Sau khi vào Phòng chăm sóc giảm nhẹ, lần đầu tiên nhìn thấy thầy, bà đã nắm tay và nói: “Tôi rất đau khổ”, nhưng lại không chấp nhận bệnh tình, tránh nói đến tất cả mọi chuyện, khi gặp chồng thì cáu gắt. Ông chồng sau đó cũng bày tỏ sự hối hận đối với bà. Tuy vậy tâm tình và triệu chứng bệnh tật của bệnh nhân khó được cải thiện, ngược lại càng khổ sở hơn. Thế nhưng bà vẫn lo lắng việc sau khi mình chết đi không ai chăm sóc ông ấy.
Về việc chăm sóc tâm linh, đầu tiên chúng ta cần khẳng định ý nghĩa cuộc đời của bệnh nhân. Bà ấy đã chịu nhẫn nhục để duy trì sự toàn vẹn của gia đình, đó là sự vĩ đại của người mẹ. Đối diện với cái chết, vấn đề chồng ngoại tình lúc này không còn là trở ngại của bà, nếu bây giờ người chăm sóc tâm linh vẫn còn quá quan tâm đến việc chồng bà nhận sai, ân hận, dùng quá nhiều công sức để bù đắp, như vậy sẽ đưa bệnh nhân đến suy nghĩ “muốn sống chứ không muốn chết, phải sống mới có ý nghĩa”, khiến bệnh nhân sao nhãng con đường phải đi trước mắt, và như vậy rơi vào lúng túng, không dám đối diện với cái chết. Vì mục đích của việc chăm sóc tâm linh là phải cho người bệnh biết ý nghĩa siêu việt của sự sống để đạt đến trạng thái bình an về tâm hồn.
Trong trường hợp này, phương pháp phù hợp là sau khi khẳng định ý nghĩa và giá trị việc chịu khổ, chịu cực của bệnh nhân, hướng dẫn bệnh nhân làm sao để đối diện với tất cả những người yêu quý cũng như những người chịu khổ khác của bệnh nhân. Như vậy, bà vừa có thể tha thứ cho chồng, lại vừa có thể đối diện với cái chết, để đi đến cuộc sống mới.
Đây chính là cách làm tích cực hơn cả “Liệu pháp ý nghĩa”, vì trong trình tự của “Liệu pháp ý nghĩa”, trong lòng vẫn còn những đối tượng kiên trì, vẫn còn đó sự tồn tại của cảm giác nhẫn nại và chịu nhục. Và cảnh giới cao nhất của việc chịu nhục, chính là không còn nhục để chịu nữa. Khi đối diện với nỗi khổ, đã không còn cảm thấy bị áp lực và nhẫn nại nữa, việc chịu khổ không còn là chịu khổ nữa, mà là từ trong nỗi khổ được giải thoát; vì vẫn còn một mục tiêu thực tế hơn, cao xa hơn để nỗ lực: Đó là sinh tử không sợ, sinh tử tự tại.