F
ranz Liszt sinh ra ở Doborjan, Hungary. Liszt được học những bài học piano đầu tiên từ cha mình, ông Adam Liszt - một người chơi đàn piano nghiệp dư và lúc bấy giờ đang giúp việc cho hoàng tử Esterhazy ở Doborjan. Mới 9 tuổi, tài năng của Liszt đã sớm bộc lộ, đặc biệt là sau những buổi biểu diễn ở Cung điện hoàng tử Esterhazy. Năm 1822, nhờ sự hỗ trợ tài chính của một gia đình quý tộc Hungary, Liszt sang Vienna (Áo) học piano với Karl Czerny và học sáng tác với Antonio Salieri. Phát hiện năng khiếu của cậu học trò mới, Czerny và Salieri đã dạy mà không lấy thù lao. Sau những buổi biểu diễn được báo giới đánh giá khá cao, Liszt lại cùng cha rời Vienna sang Paris với hy vọng phát triển tài năng. Năm 14 tuổi, Liszt được nhà hát Paris Opera mời biểu diễn trong vở Don Sanche. Chẳng bao lâu sau đó, phiên bản đầu tiên Etudes cho piano của ông ra đời vào năm 1826. Trong những năm từ 1824 đến 1827, Liszt liên tục lưu diễn khắp nước Pháp và nhiều lần là khách mời danh dự của vua nước Anh George IV, trở thành một nhạc sĩ có tiếng tăm.
Năm 1827, sau khi người cha qua đời vì bệnh thương hàn, Liszt phải trở về quê hương dạy piano, kiếm tiền trả những khoản nợ đã vay trong quá trình đi học. Trong những buổi dạy học này, tiếng đàn lãng mạn của chàng trai trẻ đã mê hoặc một cô học trò nhỏ tuổi. Họ yêu nhau say đắm. Tuy nhiên, mối tình đầu thơ mộng của Liszt và cô học trò sớm chấm dứt khi bị cha cô gái ngăn cấm. Vẫn chưa lấy lại tinh thần sau khi cha qua đời, nay lại bị hụt hẫng trong tình duyên, Liszt gần như suy sụp hẳn.
Sống ẩn dật, Liszt lao đầu vào đọc sách để tìm hiểu về mối quan hệ giữa âm nhạc và những nghệ thuật khác. Sau khi có được vốn tiếng Pháp, Liszt tiếp tục tôi luyện những tác phẩm văn học và gặp nữ nhà văn Pháp Marie Dagoult, người viết nhiều tiểu thuyết dưới cái tên Daniel Stern. Marie Dagoult đã có chồng, nhưng trái tim cô vẫn rung động trước tài năng, sự lãng mạn của Liszt. Thế là họ bắt đầu một cuộc tình bí mật. Sau 2 năm hẹn hò, thư đi tin lại, Marie Dagoult bất ngờ mang thai với Liszt và cô con gái Blandine ra đời vào tháng 12 năm 1835 buộc nữ nhà văn phải từ bỏ gia đình để theo người tình đến Geneva (Thụy Sĩ), rồi Ý. Sau này họ còn có thêm 2 người con (một gái, một trai) là Cosima và Daniel. Không thể giữ bí mật mãi, Liszt đứng ra công khai mối quan hệ và thừa nhận con của mình. Chuyện này khiến nhiều người sững sờ và gây xôn xao dư luận một thời gian. Marie Dagoult chính là nguồn cảm hứng trong sự nghiệp sáng tác của Liszt, đặc biệt là sự ra đời của những bản giao hưởng thơ.
Tưởng như cuộc sống giữa chàng giáo viên piano và nữ nhà văn sẽ mãi mãi êm đẹp, nhưng đến một ngày, niềm đam mê chơi piano và sáng tác lại trỗi dậy trong chàng trai trẻ khi Liszt nhận lời thử thách với một nghệ sĩ piano bậc thầy khác là Sigismund Thalberg. Không có thước đo để biết người thắng kẻ thua, nhưng kể từ cuộc thử thách đó, Liszt quyết định trở lại Paris vào mùa thu năm 1837 để khẳng định “quyền tối cao” của mình như là một nghệ sĩ dương cầm bậc thầy.
Tiếng đàn của Liszt trở thành một cơn sốt đối với người yêu nhạc, đặc biệt là các cô gái trẻ khi ông luôn đem đến những sự sáng tạo ở kỹ thuật chơi piano trong các tác phẩm “lạ đời” của mình. Nhà soạn nhạc Robert Schumann từng ví những Grandes études de Paganini và Etudes dexécution transcendante của Liszt khó đến mức nhiều nghệ sĩ dương cầm phải... “giả vờ” mới thực hiện được. Những tác phẩm của Liszt luôn có tốc độ nhanh chóng mặt, liên tục xuất hiện những bước nhảy vọt các quãng âm rất rộng và đặc biệt ông là người đầu tiên sử dụng hết những phím đàn trên cây đàn piano thời điểm ấy bằng kỹ thuật glissandi - dùng ngón tay lướt trên các phím trắng của đàn piano. Có lẽ vì vậy mà sau này, nhiều người nói rằng, dù chỉ chơi đàn piano, nhưng Franz Liszt là ngôi sao nhạc rock đầu tiên trên thế giới.
Trong khoảng thời gian ở Pháp, với tài năng xuất chúng, những chuyến lưu diễn của Liszt đã trở thành những giai thoại của lịch sử biểu diễn sân khấu. Đó là mỗi khi những ngón tay của Liszt vuốt ve bàn phím, làm ảo thuật với cây đàn piano, và thường tạo ra những âm thanh trầm nặng như sấm, thì ở phía dưới sân khấu, cánh phụ nữ cuồng loạn đến ngất xỉu. Họ rít thuốc lá liên hồi đến cháy xém cả tay, và xé khăn tay của mình thành từng mảnh...
Tuy nhiên, khi Liszt dần khẳng định được vị thế trong giới nhạc thì cũng là lúc mối quan hệ giữa ông và Marie Dagoult xấu đi. Marie Dagoult cho rằng Liszt đã không trung thực vì ông từng tuyên bố sẽ không bao giờ trở lại sân khấu. Một đôi lần hành xử thiếu thận trọng của ông đã khiến danh tiếng của nữ nhà văn bị ảnh hưởng. Năm 1839, Marie Dagoult từ Ý trở lại Paris để xin gia đình tha thứ và chấm dứt mối tình với Liszt.
Khoảng thời gian từ năm 1837 - 1847, Liszt đã khẳng định tài năng như một bậc thầy chơi đàn piano và được ngưỡng mộ khắp mọi nơi, trong số những khán giả của ông có cả nhiều vị vua, hoàng hậu ở châu Âu. Trong thời gian lưu diễn ở Ukraine, Liszt có 3 tháng biểu diễn ở tòa lâu đài của công chúa Carolyn Sayn-Wittgenstein. Tiếng đàn du dương đôi khi xốc nổi của Liszt đã làm mê hoặc trái tim của nàng công chúa 28 tuổi, nên dù đã kết hôn nhưng Carolyn Sayn-Wittgenstein sau đó vẫn “khăn gói” theo Liszt sang Weimar (Đức) chung sống. Sau năm 1842, cả hai dần ổn định cuộc sống với một dàn nhạc của mình trong thành phố và Liszt bắt đầu dành nhiều thời gian để cho ra đời những công trình lớn trong âm nhạc nổi tiếng sau này. Ở Weimar, ông đã viết 12 bản giao hưởng thơ (symphonie poem), giao hưởng Faust và Dante cùng nhiều tác phẩm cho đàn piano như concerto, sonata và những phiên bản cuối của Etudes và Hungarian Rhapsodies... Tuy nhiên, những rắc rối xung quanh thân phận của công chúa Carolyn và công việc đã khiến đôi tình nhân phải rời bỏ Weimar để tìm đến Roma nhờ cậy Đức Giáo hoàng.
Đến năm 1861, Carolyn cuối cùng cũng thành công trong việc hủy bỏ cuộc hôn nhân với người chồng cũ. Một đám cưới giữa công chúa và “hoàng tử” âm nhạc dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 10 năm đó. Thế nhưng, cuối cùng, hôn lễ không thể tiến hành do sự ngăn cản từ phía gia đình Carolyn vì lo ngại công chúa sẽ mất quyền hưởng tài sản nếu tái hôn. Vì thế chuyện tình đẹp chấm dứt trong lặng lẽ.
Năm cuối đời của Liszt là các chuyến đi khắp Hungary, Pháp, Italia, Luxembourg, vương quốc Anh và Đức. Ông tiếp tục sáng tác và có mặt trong buổi biểu diễn thành công các vở opera của Wagner tại Bayreuth. Ông qua đời chỉ vài ngày sau một buổi diễn của vở Tristan und Isolde vào ngày 31 tháng 7 năm 1886, Liszt qua đời sau Wager ba năm.
Đóng góp vĩ đại nhất trong các trước tác cho piano của Liszt hiển nhiên là 24 Studies (1838), 12 Transcendental Studies(1838) và 3 bộ Anneés de pèleriage. Trong các sáng tác cho piano của ông, tác phẩm trứ danh nhất là Sonata in B minor, Mephisto Waltz cùng các sáng tác cho piano phổ biến sau này của ông. Tác phẩm vĩ đại nhất cho piano và dàn nhạc của ông là hai bản Concerto in E flet major, Concerto in A major, và bản Totentanz (điệu nhảy của thần chết).
Frank Liszt bị viêm phổi và qua đời vào ngày 31 tháng 7 năm 1886 trong sự tiếc thương của những người yêu nhạc trên thế giới.
MỘT SỐ GIAI THOẠI
Liszt và các nhạc sĩ
- Câu chuyện thứ nhất
Khi Liszt lên 11 tuổi, có lần Liszt chơi fugue Đô thứ của Bach cho Beethoven nghe. Beethoven hỏi liệu cậu bé có chơi được bản nhạc đó, nhưng ở gam nhạc khác không. Liszt trả lời là được và chơi đổi gam nhạc luôn. Nhiều năm sau, mắt rưng rưng lệ, Liszt đã kể lại câu chuyện này cho các học trò của mình.
- Câu chuyện thứ hai
Khi Liszt 14 tuổi, có lần người ta nhờ cậu đệm piano cho một nghệ sĩ thổi flute, nhưng flute của ông này bị chênh lên nửa cung so với piano. Liszt đã đọc toàn bộ bản nhạc tại chỗ và dịch lên một nửa cung trong khi đệm cho ông ta.
- Câu chuyện thứ ba
Trong khi nghe Liszt thị tấu etudes của Chopin từ bản thảo viết tay của Chopin, chính Chopin đã viết: “Tôi ước gì mình có thể lấy được cách Liszt chơi các etudes của tôi.”
- Câu chuyện thứ tư
Edvard Grieg kể lại Liszt đã thị tấu Sonata cho violin và piano của Grieg như thế nào. “Các vị phải nhớ rằng, trước hết, Liszt chưa từng được nhìn thấy hay được nghe bản sonata này. Sau đó, đây là một bản sonata cho violin và piano, với hai phần viết riêng cho violin và piano. Liszt đã làm gì? Ông ta đã chơi tất, cả gốc lẫn ngọn, violin và piano.
Còn hơn thế, ông chơi đầy đủ hơn, rộng rãi hơn, toàn bộ bằng piano, không mất một nốt. Và ông ta chơi mới, sự hùng vĩ, vẻ đẹp, thiên tài, sự hiểu biết sâu sắc có một không hai. Tôi nhớ là tôi đã bò ra cười, cười như một thằng ngốc.”
- Câu chuyện thứ năm
Nghệ sĩ violin người Hungary Joseph Joachim không bao giờ quên lần Liszt đệm piano cho ông chơi chương kết bản concerto cho violin của Mendelssohn. Liszt đánh đàn trong khi bàn tay phải vẫn kẹp một điếu xì gà bằng ngón tay trỏ và ngón tay giữa. Linda Raman có lần nói với Liszt rằng L. Boehner, tuy hai ngón tay bị què, vẫn chơi fugues trên đàn organ. Liszt nghĩ một lát rồi ngồi vào piano chơi một fugue khó của Bach mà chỉ dùng mỗi bàn tay 3 ngón tay.
- Câu chuyện thứ sáu
Có lần, trước khi trình diễn một sáng tác rất khó của mình, Liszt nói với thính giả: “Trên thế giới chỉ có hai người có thể chơi bản nhạc này. Đó là Hans von Bülow và tôi.” Georges Bizet, khi đó cũng ngồi nghe, bèn đứng lên, tiến tới piano, ngồi xuống và thị tấu toàn bộ bản nhạc của Liszt. Liszt không hề ngạc nhiên, nói: “Như vậy chúng tôi có ba người.”
- Câu chuyện thứ bảy
Nhà soạn nhạc người Mỹ Otis Boise mang tổng phổ giao hưởng của mình đến Weimar (Đức) cho Liszt xem. Boise kể lại: “Liszt liếc nhìn kết cấu các nhạc cụ, lật từng trang để nắm bắt các chủ đề và quá trình, sau đó chơi toàn bộ giao hưởng bằng piano với một cách trình bày kinh ngạc mà tôi chưa từng được nghe từ trước tới giờ, cũng không bao giờ được nghe sau này từ những nghệ sĩ khác. Những người từng thử sức trong việc này hiểu rằng mười ngón tay không thể nào diễn tả được tất cả các chi tiết, mà phải biết lựa ra những nét chính và giọng rõ ràng từ các bè phức tạp. Liszt đạt được điều đó ngay lập tức. Mọi đặc tính về tài nghệ của tác giả, của đối âm, của nhạc cụ đều được ông để ý tới. Ngoài ra ông còn vừa chơi vừa nhận xét bằng lời.”
- Câu chuyện thứ tám
Joseph Joachim được coi là một trong những nghệ sĩ violin quan trọng nhất thế kỷ XIX. Năm lên 8 tuổi ông được Felix Mendelssohn bảo trợ. Sau khi Mendelssohn qua đời năm 1847, Joachim dạy tại nhạc viện Leipzig.
Năm 1848, nghệ sĩ 17 tuổi Joachim gia nhập nhóm các nghệ sĩ trẻ do Franz Liszt khởi xướng tại Weimar, công khai chống đối trường phái bảo thủ của giới âm nhạc Leipzig. Joachim làm concertmaster cho Liszt và lúc đầu rất say sưa với “âm nhạc tâm lý” của Liszt. Tuy nhiên, chỉ 4 năm sau Joachim bỏ Weimar đi Hanover, xa lánh “Trường phái Đức mới” do Liszt, Wagner, Berlioz cầm đầu, và ngả về âm nhạc của Robert Schumann, Clara Schumman và Brahms.
Năm 1857 Joachim đã viết một bức thư cho Liszt, người đỡ đầu trước kia của mình, trong đó có câu: “Em hoàn toàn không đồng tình với âm nhạc của thầy; nó trái với tất cả những gì em đã nhận từ nhỏ như thức ăn tinh thần từ khí chất của các bậc thầy vĩ đại.”
Liszt và phu nhân Marie Dagoult
Chuyện kể rằng, ngay từ khi mới 16 tuổi, vẻ hào hoa phong nhã, tài diễn tấu piano như "thần" của Liszt đã có sức quyến rũ lạ lùng với phái đẹp. Một nhà văn đã bỏ công sưu tầm “chuyện yêu đương” của Liszt viết nên một cuốn sách với ý chủ đạo: “Liszt không thể sống mà thiếu vắng đàn bà”. Đã từng có người phụ nữ quý tộc ao ước, chỉ cần được sống cùng Liszt, dù chỉ một giờ ngắn ngủi thôi cũng được. Có cô gái vì quá yêu Liszt, muốn Liszt chỉ là của riêng mình đã điên dại định giết chết Liszt bằng một phát súng...
Lại có người phụ nữ biết không thể trở thành “một nửa” của Liszt, đã ngậm ngùi nâng niu, cất giữ trong suốt cả cuộc đời một mẩu xì gà mà Liszt vứt bỏ trên đường... Vì thế, trước phút chết, người cha của Liszt chỉ dặn con trai duy nhất một điều: “Hãy coi chừng! Đàn bà có thể sẽ lật đổ cuộc đời của con đó!”. Nhưng sự thật là, đàn bà đã không phạm tội “lật đổ” cuộc đời Liszt, trái lại, đã khiến Liszt đắm say, thăng hoa, bay bổng và góp một phần không nhỏ làm nên tên tuổi của một thiên tài âm nhạc.
Sẽ là không đầy đủ khi nhắc đến sự nghiệp âm nhạc của Liszt mà không nhắc đến các chuyến lưu diễn của ông ở khắp châu Âu, từ Thụy Sĩ, Italia, Hungary, Áo, đến Đức, Pháp, Anh, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Rumania, Nga... Trong các chuyến lưu diễn đó, Liszt đã trình tấu những bản nhạc khó đến mức người đương thời cho rằng không ai có thể trình tấu được. Đó là những nhạc phẩm: “Khúc độc tấu B giáng”, “Don Givanni”, “Đám cưới Figaro”, “Ác quỷ Robert”; các khúc giao hưởng số 5, số 6, số 7 của Beethoven...
Ở bất cứ nơi nào vút lên tiếng đàn piano quyến rũ của Liszt, nơi đó con người như bay lên, như quên thực tại, như được nếm thứ hạnh phúc không phải ở nơi trần thế. Những nhạc phẩm nổi tiếng của các nhà soạn nhạc vĩ đại, nhờ Liszt đến được với công chúng, thông qua một phong cách biểu diễn phi thường. Liszt cũng là người đầu tiên trong lịch sử âm nhạc đã mở các nhạc hội một mình. Những nơi Liszt đến trình tấu đều trở thành những lễ hội tưng bừng, giao thông tắc nghẽn bởi những fans hâm mộ...
Mọi thành phố châu Âu đều khao khát mong chờ được nhìn thấy Liszt, được nghe những âm thanh khi “như mơ hồ, khi rõ rệt, khi trong suốt, khi êm dịu” phát ra từ những ngón tay như có “ma”, có “thần” sai khiến. Theo cách nói của những người đương thời, cây đàn piano dưới bàn tay của Liszt đã có một âm hưởng rất đặc thù, mang tính chất của một đội nhạc kèn và đàn dây. Nghe tiếng đàn piano của Liszt, có khi như nghe tiếng cây violoncelle, có khi lại là tiếng chói tai của cây trompettes, có khi lại là tiếng harpe dịu êm... Nhờ những chuyến lưu diễn này mà tên tuổi của Liszt trở nên nổi tiếng khắp châu Âu.
Người ta cho rằng, những chuyến lưu diễn của Liszt dính dáng đến một người phụ nữ mà Liszt đã yêu và chung sống một thời gian dài... Người ấy là Marie d'Agoul, phu nhân của một vị bá tước, hơn Liszt 6 tuổi. Vì quá yêu và ngưỡng mộ Liszt, Marie đã cả gan bỏ chồng, bỏ con, bất chấp mọi định kiến khắt khe của xã hội thượng lưu để đi theo Liszt. Để tránh mặt những người quen ở Paris, Liszt cùng Marie di cư sang một thành phố khác. Hai người đã có với nhau ba người con, hai gái, một trai... Song Marie Dagoult quen nếp sống xa hoa, chi phí cho gia đình hàng năm rất lớn, khiến Liszt phải lao động cật lực.
Mười ba năm chung sống với Marie Dagoult, cũng là 13 năm Liszt liên tiếp tổ chức các nhạc hội mà người đương thời gọi là “cuộc viễn chinh” âm nhạc khiến Liszt trở thành nhân vật thời thượng nhất ở châu Âu. Khi mối tình với Marie tan vỡ, cuộc “viễn chinh bằng piano” của Liszt cũng chấm dứt. Khi đó Liszt mới 36 tuổi. Việc thiếu vắng tiếng đàn piano của Liszt đã gây một cú sốc đối với những thính giả hâm mộ Liszt.
Mối tình giữa Liszt với Marie Dagoult tan vỡ cùng sự chấm dứt các chuyến lưu diễn của Liszt, có một nguyên nhân mà mọi người biết Dagoult: sự xuất hiện của nàng quận chúa Nga - Carolyne Sayn Wittgenstein. Khi Liszt đến mở nhạc hội ở Kiev, Wittgenstein đã bị tiếng đàn của Liszt làm cho mê mẩn. Và Liszt đã chia tay với Marie d' Agoul, theo Wittgenstein đến định cư tại Weimar (Đức). Cô gái Nga đã chiếm một chỗ không nhỏ trong trái tim chàng nhạc sĩ đa tình.
Những năm tháng chung sống với Wittgenstein đã mở ra một trang mới trong cuộc đời của Liszt. Khác với Marie, Wittgenstein không cổ súy cho việc mở nhạc hội, mà khuyên Liszt ngừng những chuyến lưu diễn, dành tâm sức cho việc sáng tác âm nhạc. Liszt đã “ngoan ngoãn” vâng lời nữ quận chúa, dành rất nhiều công sức chỉnh lý những tác phẩm của mình.
Thực ra, sự nghiệp sáng tác âm nhạc của Liszt bắt đầu khi Liszt mới 14 tuổi với vở ca kịch “Don Sache”. Vở ca kịch này đã được Liszt đem trình tấu tại viện ca kịch Paris. Lần theo những hồi ức vùi sâu trong tâm khảm, Liszt lần lượt viết nên những ca khúc như một sự tri ân với đất mẹ. Nhiều người đã gọi những ca khúc của Liszt về Tổ quốc là “khối tình Hungary”, xếp chung danh mục với “khối tình Ba Lan” của Chopin, nhờ đó hậu thế mới vinh hạnh được biết đến một “khối tình” lớn lao của nhạc sĩ với đất nước Hungary thương mến.
Nhiều nhà phê bình âm nhạc cho rằng, mối quan hệ giữa Liszt với Hungary là mối quan hệ “hài nhi và vú em”, rằng tình cảm của Liszt dành cho Tổ quốc như là sự báo đáp của người con lãng tử đối với mẹ già. Tình cảm đó như một mạch nguồn, khi lặng lẽ, khi ào ạt tuôn trào trong các nhạc phẩm của ông. Xúc cảm trước cuộc cách mạng của nhân dân Hungary, Liszt lần lượt viết nên khúc “Giao hưởng cách mạng”, về sau đổi thành “Khúc ai điếu anh hùng”, nhạc khúc mang tên “Lyons”. Tiếp đó, các nhạc phẩm “Khúc cuồng tưởng Hungary”, “Khúc ảo tưởng Hungary”, “Khúc đưa tang”... mang âm hưởng anh hùng lần lượt ra đời và đến với công chúng.
Cùng với hoạt động sáng tác, thời gian bên Wittgenstein, Liszt còn xuất hiện trước công chúng trong vai trò nhạc trưởng, dùng chiếc đũa chỉ huy thay thế cho cây đàn. Với tư cách nhạc trưởng, Liszt đã tiến thêm một bước nữa trong việc đưa những tác phẩm của mình và của các nhạc sĩ thiên tài khác đến với công chúng.
Thật khó có thể phân định cho rạch ròi, giữa Marie và Wittgenstein, ai có ảnh hưởng nhiều hơn đối với cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Liszt. Chỉ biết rằng, từ khi gắn bó với Wittgenstein - một người theo đạo Thiên Chúa, Liszt đã theo nàng đến Rome, xin theo đạo và trở thành một linh mục. Từ đó, công chúng còn có cơ hội biết đến một Liszt trong vai trò một linh mục. Ngay cả những năm khoác áo linh mục, Liszt vẫn không ngừng sáng tác, dù đã ở tuổi bảy mươi. Những nhạc phẩm: “Điệu múa của những cái chết”, “Saint Elisabeth”, “Chistus”, “Vầng mây màu xám”, “Thuyền đưa tang” lần lượt ra đời... Nhưng chiếc áo linh mục chỉ được Liszt mang trong bốn năm, vì một lẽ rất thường tình, người yêu dấu không còn ở bên Liszt nữa.
Sau nhiều năm chung sống nhưng không thể chính thức kết hôn với Liszt, Wittgenstein đã thất vọng bỏ đi tu. Đối với Liszt, không có tình yêu đôi lứa, cuộc sống giống như đã chết.
Tạm biệt Wittgenstein, rũ bỏ bộ áo thầy tu, Liszt trở về Weimar, dốc lòng xây dựng Weimar thành trung tâm lưu giữ những di sản âm nhạc cổ điển. Đồng thời, ông tĩnh tâm để hoàn thành những cuốn sách về âm nhạc mà từ lâu ông hằng ấp ủ, trong đó có cuốn “Chopin” - một tác phẩm văn học quý giá, lưu lại cho hậu thế những trang sách về cuộc đời của một nhạc sĩ tài ba cùng những giây phút cuối cùng bi tráng với chiếc cốc bạc trên tay, lặng lẽ đi vào cõi vĩnh hằng.