V
an't Hoff sinh ngày 30 tháng 8 năm 1852 ở Rotterdam, trong một gia đình quý tộc nhiều đời làm thị trưởng thành phố Dotrech, Hà Lan. Thời đi học, van’t Hoff say mê thi ca, âm nhạc và đã viết những bài thơ làm xúc động bạn bè. Năng khiếu thi ca và khoa học tự nhiên thường bài trừ lẫn nhau trong một con người nhưng ở van’t Hoff thì có lẽ chính trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ đã giúp ông sáng tạo những công trình bất hủ, mà đến tận ngày hôm nay vẫn luôn giữ một vị trí quan trọng trong các giáo trình hóa học.
Không chấp nhận ước muốn của người cha, ông theo học hóa học, lần đầu tại Đại học Bách khoa Delft, sau đó là Đại học Leiden, và tiếp tới nữa là Bonn, Đức (nơi mà ông đã học với Friedrich Kekulé), rồi tới Paris (nơi ông học với C. A. Wurtz). Van’t Hoff tỏ ra là một sinh viên ưu tú vượt bật so với các bạn bè dự bị đại học của mình khi được nhận vào trường Đại học Tổng hợp Leiden năm 1871 mà không phải qua kì thi tuyển chọn. Chính ở đây, van’t Hoff sau này kể lại, ông đã tìm thấy bên cạnh niềm say mê toán học là “tình yêu hằng ấp ủ đối với môn hóa học”. Năm 1874, ông đã nhận được bằng tiến sĩ tại Đại học Utrecht.
Van’t Hoff trở thành giảng viên hóa học và vật lý về thuốc thú y ở Học viện Utrecht. Sau đó trở thành giáo sư hóa học, vật lý học, và địa chất học tại Đại học Amsterdam gần 18 năm trước khi trở thành tổ trưởng khoa Hóa. Năm 1896 van’t Hoff chuyển đến Đức ở Đại học Berlin. Năm 1878 van’t Hoff kết hôn với Johanna Francina Mees. Họ có hai con gái, Johanna Francina (sinh 1880) và Aleida Jacoba (sinh 1882), và hai con trai, Jacobus Hendricus (sinh 1883) và Govert Jacob (sinh 1889).
Điểm khác biệt của nhà hóa học này là, trong khi các nhà khoa học thường mải mê với các thực nghiệm thì van’t Hoff để cho trí tưởng tượng của mình bay bổng vào các quy luật trừu tượng chi phối các thực nghiệm đó. Lòng tin ở trí tưởng tượng của ông sâu sắc đến mức, ngay khi trở thành giáo sư hóa học, khoáng vật và địa chất ở trường Đại học tổng hợp Amsterdam vào năm 1877, bài giảng mở đầu của ông làm sinh viên phải say mê lại không phải là về hóa học hoặc khoáng vật mà là “Trí tưởng tượng trong khoa học”. Trong buổi ra mắt lịch sử ấy, van’t Hoff đã chứng minh một cách đầy thuyết phục các thính giả trẻ tuổi của Hà Lan rằng trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo khoa học bao giờ cũng song song với nhau, trí tưởng tượng không chỉ quyết định các phát hiện lý thuyết mà còn rất quan trọng cho việc bố trí các thực nghiệm. Để chuẩn bị cho buổi giảng bài này ông đã phải đọc 200 tiểu sử của các nhà toán học và khoa học tự nhiên.
Van’t Hoff rất yêu thích triết học, ông nghiên cứu kỹ lưỡng giáo trình triết học của Comte (nhà triết học người Pháp), gạn lọc ra được từ đó lời kêu gọi xây dựng lý thuyết cho hóa học, trong khi bản thân học thuyết của Comte thì đầy lòng căm thù các lý thuyết.
Trí tưởng tượng phóng khoáng của van’t Hoff đã kéo ông vào nhiều lĩnh vực rất khác nhau của hóa học. Vào thời thanh niên của van’t Hoff, nhà bác học Đức - Kekule được sùng bái khắp châu Âu khi tìm ra cấu tạo của vòng benzene trong một giấc mơ. van’t Hoff đến Bonn để theo học Kekule và sự ngưỡng mộ người thầy đã dấy lên trong ông niềm say mê các vấn đề cấu tạo hóa học. Rời Bonn, ông sang Paris theo học.
Phát triển ý tưởng của các thầy học của mình, năm 1876, khi đã là giáo viên trường thuốc thú y ở Utrech, van’t Hoff viết một luận văn ngắn với cái tên rất dài: “Đề nghị mở rộng các công thức cấu tạo hiện dùng trong hóa học sang dạng không gian, nhằm nêu bật những điều đáng lưu ý về mối quan hệ giữa các khả năng quay mặt phẳng quang học với cấu hình không gian của chất hữu cơ”. Tác phẩm ra đời được in tiếng Đức và bản dịch có sửa chữa sang tiếng Pháp nhưng chẳng được đón nhận hào hứng chút nào.
Một năm sau, năm 1877, Nislicenus - người ủng hộ quyết liệt cho ngành hóa học lập thể còn non trẻ, đã dịch bản tóm tắt luận văn này một lần nữa sang tiếng Đức với cái tên mới “Sự sắp xếp các nguyên tử trong không gian” cùng một lời giới thiệu hấp dẫn và làm cho nó trở nên nổi tiếng trên thế giới. Thành công này không chỉ biến đổi thầy giáo trường chuyên nghiệp thú y van’t Hoff thành giáo sư Trường Đại học tổng hợp Amsterdam mà còn làm cho ông trở thành một trong những người sáng lập ra ngành hóa học lập thể. van’t Hoff còn mải mê thêm mấy năm nữa với các quy luật chung về mối quan hệ giữa cấu trúc không gian của các phân tử và các tính chất của chất hữu cơ, rồi mới tìm thấy mảnh đất thích hợp nhất với trí tuệ của ông – hóa lý lý thuyết.
Năm 1883, van’t Hoff cho ra đời cuốn sách “Nghiên cứu về động lực học hóa học”, tác phẩm đã làm cho ông trở thành bất tử. Lần đầu tiên trong lịch sử, tốc độ phản ứng hóa học được định nghĩa như là biến đổi nồng độ chất phản ứng trong một đơn vị thời gian. Cũng lần đầu tiên các phương trình liên hệ tốc độ phản ứng với nồng độ chất phản ứng được xây dựng. Phát biểu các tư tưởng của Lơ Satơliê, Gipxơ… về cân bằng hóa học, dựa vào các quan niệm của mình về tốc độ phản ứng, van’t Hoff đã tìm ra mối quan hệ giữa hằng số cân bằng của một phản ứng hóa học với nhiệt độ và nhiệt phản ứng.
Vào thời đó, nguyên lý cơ bản của nhiệt động lực học đã được Claudiut và những người khác phát biểu, ứng dụng vào các quá trình vật lý. Gipxơ, Hemhon đang tìm cách đưa ra các biểu thức thể hiện các nguyên lý này trong phản ứng hóa học, nơi thường xuyên có sự chuyển các phân tử từ dạng này sang dạng khác. Hai câu hỏi cơ bản về lý thuyết của hóa học: khi nào các phân tử phản ứng được với nhau và mức độ nhanh chậm của các phản ứng đó như thế nào, tức là các câu hỏi về ái lực hóa học của các chất và động học của các phản ứng đang hấp dẫn những đại diện tư tưởng vĩ đại nhất của thời đại đó. Nhưng người thành công nhất trong việc chính xác hóa khái niệm “ái lực hóa học” lại chính là van’t Hoff. Van’t Hoff chỉ ra rằng tốc độ phản ứng hóa học phụ thuộc vào số va chạm của các phân tử phản ứng trong một đơn vị thời gian và nhờ đó có thể rút ra biểu thức mô tả sự phụ thuộc tốc độ phản ứng vào nồng độ từ các định luật của phép tính xác suất. Van’t Hoff không dừng lại ở những tư tưởng khái quát về khả năng và tốc độ của phản ứng hóa học. Với tác phẩm “Những định luật của cân bằng hóa học…” xuất bản năm 1886 ở Stockholm (Thụy Điển), ông đã gây ảnh hưởng lớn lao đến những phát triển sau này của thuyết điện li. Bằng cách sử dụng thuyết điện li, van’t Hoff đã giải thích được các mâu thuẫn gặp phải khi đo áp suất thẩm thấu, áp suất hơi hoặc độ giảm điểm đông đặc của dung dịch. Ông đã đưa vào các biểu thức toán học mô tả các hiện tượng này một hệ số mà ngày nay ta quen gọi là hệ số van’t Hoff. i. Ông đã chỉ ra rằng, vì các phân tử chất điện li bị vỡ ra trong dung dịch thành các ion, số lượng ion có mặt trong dung dịch nhiều hơn i lần so với số phân tử ban đầu.
Vào những năm 1877 – 1878, khi phê phán thuyết về cấu tạo không gian (hóa học lập thể) của van’t Hoff, Kônbe một nhà hóa học nổi tiếng đã viết một cách khinh miệt: “Thật đáng ngạc nhiên trong thời đại nghèo nàn về phê bình khoa học, thậm chí có sự chán ghét phê bình khoa học của chúng ta, hai nhà hóa học vô danh tiểu tốt, một anh từ trường nông nghiệp, lại dám trắng trợn lên tiếng thảo luận, thậm chí còn nhận lấy trách nhiệm giải quyết những vấn đề to lớn nhất của hóa học như sự sắp xếp không gian của các nguyên tử, vấn đề chắc chắn sẽ không bao giờ giải quyết được trong hóa học”.
Tuy nhiên, sau mười năm, “kẻ vô danh” đó đã trở thành người khổng lồ. Năm 1887 uy tín của van’t Hoff lớn đến mức ông cùng với Osvan có thể chủ trì một tạp chí mới mang tên tạp chí hóa lý, diễn đàn hóa học quan trọng vẫn đang hoạt động cho đến hôm nay.
Năm 1898 nhà hóa học và nhà tư bản Nobel qua đời, để lại một gia tài vô cùng giàu có. Theo nguyện vọng của Nobel, lãi suất hằng năm của gia tài này được chia thành năm phần để làm giải thưởng cho các nhà hóa học, vật lý học, sinh vật học, y học và văn học. Sau năm năm chuẩn bị, năm 1901, Ủy ban giải thưởng Nobel đã có thể bắt đầu trao giải thưởng lần đầu tiên. Lựa chọn ra một đại diện trong bầu trời đầy những ngôi sao lớn của hóa học lúc bấy giờ quả thật là chuyện không dễ dàng gì.Và giải thưởng đã được trao cho van’t Hoff.
Cuốn sổ vàng của giải thưởng Nobel đã mở ra, trang đầu tiên ghi tên người đã khai sinh ra ngành hóa học lập thể, sáng tạo và hoàn chỉnh lý thuyết về cân bằng hóa học, về tốc độ phản ứng, về thuyết điện li, về mối quan hệ giữa áp suất thẩm thấu và áp suất hơi…
Van’t Hoff là hội viên và viện sĩ của 52 hội khoa học và Viện Hàn lâm, là giáo sư của nhiều trường Đại học ở Hà Lan, Thụy Điển, Đức, Pháp. Ông được tặng học vị tiến sĩ của rất nhiều trường đại học. Là nhà vật lý học và hóa học người Hà Lan đầu tiên được nhận giải Nobel hóa học, các nghiên cứu về động lực học hoá học, cân bằng hóa học, áp suất thẩm thấu và hóa học lập thể là các thành tựu nổi bật của ông. Qua các thành tựu này, van’t Hoff đã giúp tìm ra hệ thống môn học hóa lý đang được học tập hiện nay.
Ngày 1 tháng 3 năm 1911, sau một cơn đau nặng, van’t Hoff qua đời khi ông mới 59 tuổi.