L
ouis Pasteur là một nhà khoa học nổi tiếng người Pháp, là người tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật học. Ông sinh ngày 27 tháng 12 năm 1822, tại thành phố Dole thuộc tỉnh Jura miền Tây nước Pháp trong một gia đình bình dân. Cha của Pasteur là chủ một xưởng nhuộm và đã từng chinh chiến khắp các chiến trường khi tham gia đoàn quân của Hoàng đế Napoléon.
Louis Pasteur sinh ra ở Dole nhưng ông bắt đầu đi học tại Arbois. Thời trung học, Louis Pasteur không phải là học sinh nổi bật. Mối quan tâm lớn nhất của Pasteur lúc này là hội họa. Ông không để ý đến môn học nào khác cho đến khi được học môn hóa học. Pasteur tỏ ra say mê môn hóa học và để nhiều công sức vào việc tìm tòi, nghiên cứu nó. Là một học sinh đầy tài năng, Louis Pasteur muốn vào học trường sư phạm Paris. Để thực hiện mong muốn này, tháng 10 năm 1838, ông chuyển đến Paris. Tuy nhiên, vì thất vọng với cuộc sống mới nơi đây nên ông từ bỏ luôn ý định vào học trường Sư phạm và rời Paris để đến học tại trường Trung học Hoàng gia tại Besancon.
Năm 1842, ông thi lấy bằng tú tài văn chương và tú tài toán. Với kết quả đáng khích lệ này, một lần nữa Louis Pasteur lại chuyển đến Paris và năm 1843, ông được xếp hạng tư trong kỳ thi vào trường Sư phạm Paris và được nhận vào học tại ngôi trường danh tiếng này. Đây là một bước đệm cho sự nghiệp khoa học của Louis Pasteur sau này. Tại đây, Louis Pasteur theo học hóa học, vật lý và tinh thể học. Vào các buổi chiều chủ nhật, Louis Pasteur thường làm việc tại phòng thí nghiệm của nhà hóa học nổi tiếng Jean-Baptiste Dumas, nhờ đó mà ông đã tích luỹ được những kiến thức và kỹ năng quý báu cho việc nghiên cứu độc lập trong tương lai.
Năm 1847, Pasteur bảo vệ thành công luận án tiến sĩ vật lý. Năm 1848, Pasteur lại khiến giới khoa học phải kinh ngạc và kính nể bằng một phát minh về tinh thể học. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước khởi đầu trong sự nghiệp của Louis Pasteur. Mặc dù còn rất trẻ nhưng Pasteur đã sớm được giới khoa học nước Pháp công nhận. Năm 1849, ông được cử làm giáo sư tại trường Đại học Strasbourg. Ông trở thành một giáo sư nổi tiếng và không lâu sau khi về trường, ông được đề bạt làm chủ nhiệm khoa. Nhưng cuối cùng, Louis Pasteur đã chuyển về Paris làm Giám đốc nghiên cứu khoa học của trường sư phạm, nơi trước đây ông từng theo học.
Với đức tính kiên trì mà quyết đoán, Pasteur có được một sự nghiệp lừng danh và một gia đình hạnh phúc. Năm 1849, Louis Pasteur đã kết hôn cùng Mary, con gái của hiệu trưởng, bà là một phụ nữ hiền dịu, luôn chăm lo vun đắp cho cuộc sống gia đình. Bà đã cống hiến cả cuộc đời cho Pasteur, đem lại sự ấm áp, yên vui cho cuộc sống vốn nhiều lo lắng của ông. Nhờ vậy mà Pasteur có thể toàn tâm toàn ý nghiên cứu khoa học.
Ngay từ khi còn trẻ, Pasteur đã nghiên cứu về axit tartaric và mesoxalic axit. Ông đã phát hiện ra lí thuyết về sự không đối xứng giữa các phân tử, mở ra ngành hóa học lập thể. Ông cũng nghiên cứu về sự lên men bằng những thí nghiệm cụ thể và khẳng định: chính các sinh vật nhỏ bé là nguồn gốc của sự lên men. Ông cũng nhận thấy một số men trong rượu gây hại cho sức khỏe con người. Biện pháp diệt trừ chúng là đun nóng rượu lên 55 0C. Từ nghiên cứu về sự lên men, Pasteur chuyển sang nghiên cứu về bệnh của con tằm nhằm giải quyết vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với vấn đề tằm tơ của nước Pháp lúc bấy giờ. Và Pasteur đã khám phá ra nguyên nhân gây ra bệnh của con tằm cũng chính là những sinh vật nhỏ bé chỉ nhìn thấy qua kính hiển vi. Chúng có rất nhiều hình dạng như hình chuỗi hạt, hình dấu phẩy... Những nghiên cứu này đã đặt nền móng cho ngành vi sinh vật.
Năm 1848, Pasteur tuy mới 26 tuổi nhưng đã tự mình thực hiện một công trình nghiên cứu lớn về các tinh thể. Trong thư gửi một người bạn thuở thiếu thời, ông đã kể cho bạn niềm say mê đang cuốn hút tất cả tâm trí mình “Sự kết tinh chứa đựng rất nhiều điều bí ẩn. Nếu anh đến Strasbourg thì dù muốn hay không, anh cũng sẽ trở thành một nhà hóa học. Tôi với anh chỉ nói chuyện về tinh thể”. Và rồi một trong những bí ẩn của hiện tượng kết tinh đã được Pasteur khám phá, dựa theo sự thay đổi cấu hình bên ngoài của tinh thể, Pasteur biết được đặc điểm cấu tạo phân tử của chúng.
Cả cuộc đời Pasteur hầu như chỉ gắn bó với phòng thí nghiệm. Suốt mấy chục năm ròng rã, sáng sáng ông đều đến phòng thí nghiệm với niềm hân hoan vui sướng, ông say sưa tìm hiểu bí ẩn của hiện tượng men rượu vang. Nghề làm rượu vang của Pháp rất nổi tiếng trên khắp thế giới từ lâu đời. Hằng năm, ngoài số rượu tiêu thụ trong nước, Pháp còn xuất khẩu với số lượng đáng kể rượu vang ở nước ngoài, nhờ đó nước Pháp có một nguồn lợi rất lớn. Nhưng các nhà sản xuất rượu vang cũng gặp không ít khó khăn, khiến họ không chủ động được trong sản xuất. Có thời kỳ rượu không lên men bình thường mà biến thành dịch chua loét như dấm. Nhiều mẻ sản xuất phải đổ đi hoàn toàn, làm cho nhiều nhà sản xuất ở bên bờ vực phá sản. Trước nguy cơ sụp đổ của ngành rượu vang, các nhà sản xuất yêu cầu sự giúp đỡ của Pasteur, mong ông tìm ra nguyên nhân làm rượu chua, hỏng như vậy. Thế là Pasteur đi sâu vào nghiên cứu quá trình lên men rượu và hiện tượng hư hỏng rượu. Chính việc làm này đã giúp ông tiến một bước vô cùng quan trọng trong công việc giải quyết vấn đề phức tạp về thuyết “tự sinh”.
Theo thuyết này sinh vật có khả năng tự sinh trong môi trường tự nhiên. Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai phe ủng hộ và chống đối thuyết này diễn ra không chỉ ở Pháp mà ở nhiều nước trên thế giới. Pasteur không tham gia tranh luận mà chỉ đầu tư thời gian công sức vào nghiên cứu. Ông đã sáng chế ra cái bình cổ cong và đổ rượu vào, đồng thời đổ cả rượu vào một cái bình cầu thường. Qua vài ngày, rượu vang trong bình cầu thường bị lên men chua như dấm. Còn rượu vang trong bình cổ cong sau thời gian dài vẫn không sao. Điều đó chứng tỏ rượu lên men là do bị vi khuẩn từ ngoài xâm nhập vào không phải tự sinh ở bên trong. Thí nghiệm này đã giáng một đòn chí mạng vào thuyết “tự sinh” và khai tử luôn học thuyết sai lầm này. Đến tận ngày nay, hơn một thế kỷ rượu vang đựng trong bình cổ cong còn lưu từ thời Pasteur làm thí nghiệm, vẫn nguyên vẹn, không bị chua chút nào.
Sau khi tìm ra thủ phạm gây hại rượu vang, Pasteur còn tìm ra thủ phạm làm hỏng sữa, bia... và cách phòng chống nó rất hữu hiệu, từ đó rượu vang, bia, sữa của Pháp không những không bị phá sản mà còn phát triển rất mạnh mẽ.
Cũng chính ông là người sáng tạo ra phương pháp tiêm chủng vacxin phòng bệnh than, bệnh tiêu chảy và bệnh chó dại. Những người bị chó dại cắn ở Pháp và các nước khác hàng năm rất nhiều, tỉ lệ tử vong rất cao, Pasteur đã để tâm nghiên cứu thuốc chủng và thí nghiệm trên động vật thành công chưa hề dùng cho người.
Chuyện kể rằng, vào tháng 7 năm 1885, một bà mẹ dẫn đứa con trai là Maysteur đến phòng thí nghiệm của ông vừa khóc vừa nói:
- Thưa ngài Pasteur. Con trai tôi bị chó dại cắn đã mấy ngày nay. Tôi đã gõ cửa khắp các bác sĩ nhưng họ đều bó tay. Giờ chỉ còn trông cậy vào ngài. Xin ngài ra tay cứu vớt.
Pasteur thận trọng nói:
- Đúng là tôi có nghiên cứu thuốc phòng chống bệnh dại nhưng tôi chưa dám thử nghiệm trên người.
Bà mẹ của chú bé cố nài nỉ:
- Đằng nào thì cháu cũng khó lòng qua khỏi. Xin ngài cứ chữa cho cháu xem, may ra cứu vãn được.
Pasteur còn đang phân vân thì chú bé Maysteur đã nắm tay ông cầu xin:
- Ông ơi! Cháu không muốn chết, ông cố cứu cháu với.
Nghe lời cầu xin của chú bé cùng với ánh mắt ngây nhìn ông đầy vẻ tin cậy, Pasteur quyết định nhận lời chữa. Ông lấy tuỷ sống của một con thỏ đã làm nhiễm virus dại đem sấy khô sau đó chiết lấy dịch tuỷ này tiêm cho chú bé rồi cùng các đồng sự theo dõi suốt ngày đêm. Vài ngày liền không thấy có dấu hiệu gì đáng ngại ông liền tiêm văcxin phòng dại hàng ngày vào cơ thể của Maysteur trước sự lo lắng, hồi hộp của nhiều người. May sao bệnh của Maysteur đã bị chặn lại. Sau vài tuần điều trị, virus gây bệnh dại đã bị đánh bại. Pasteur đã giành lại Maysteur khỏi tay thần chết, trả lại cho em cuộc sống trước sự vui mừng khôn tả và lòng biết ơn sâu sắc của mọi người.
Tin đồn về thứ thuốc thần kỳ có khả năng chữa bệnh dại của Pasteur đã lan đi rất nhanh khiến phòng thí nghiệm của ông trở thành nơi đón tiếp, chữa bệnh cho biết bao nhiêu người dân Pháp và ở các nước khác bị chó dại cắn. Nhiều người đã được cứu sống. Tuy vậy có trường hợp bệnh phát nặng không thể cứu vãn nổi nên người bệnh đã tử vong. Lợi dụng những trường hợp ấy, những kẻ thù địch ganh ghét ông đã thổi phồng lên cố làm mất uy tín của ông. Thậm chí hàng đoàn người kéo đến phòng thí nghiệm của ông hò hét đập phá chửi rủa ông là “đồ giết người”.
Mặc dù vậy, chân lý cuối cùng vẫn thắng. Tại Pháp và nhiều viện khoa học trên thế giới đã kiểm chứng thứ vacxin mà Pasteur sáng chế ra, tất cả đều công nhận đó là thứ vũ khí hiệu nghiệm nhất để chống bệnh dại.
Pasteur đã được cả thế giới tôn vinh là nhà phát minh vĩ đại, và ông đã trở thành viện sĩ của nhiều viện hàn lâm nổi tiếng trên thế giới. Trong cuộc đời mình, Pasteur đã nhận tới 25.000 thư từ, tài liệu của mọi người trên trái đất gửi đến tỏ lòng tri ân vị cứu tinh của họ.
Năm 1873, Louis Pasteur được bầu vào Viện Hàn lâm Y học Pháp. Năm 1881, ông tiếp tục được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp và được nhận Huân chương Bắc đẩu bội tinh. Sau đó, Pasteur đã nghiên cứu thành công vacxin phòng bệnh dại. Ông thử nghiệm loại vacxin này trên người một chú bé chăn cừu đã bị chó dại cắn sau ba ngày. Thật bất ngờ, chỉ sau 9 ngày đều đặn tiêm vacxin, cậu bé đã hồi phục trở lại. Tin tức về việc này được lan truyền rất nhanh. Kể từ đó, những người bị chó dại cắn ở khắp nước Pháp và châu Âu liên tục kéo đến nhờ Pasteur chữa trị.
Những thành quả trong nghiên cứu khoa học của Louis Pasteur đã mở ra một cuộc cách mạng lớn trong y học. Từ đây, nền y học thế giới chuyển sang thời kỳ hiện đại, chữa bệnh trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm vững chắc.
Tuy nhiên, ít ai ngờ rằng những thành quả mà Louis Pasteur có được phải đổi bằng rất nhiều mồ hôi của sự lao động khổ cực và nước mắt của sự phẫn nộ. Tất cả những phát minh của ông đều được nghiên cứu và trải qua quá trình thực nghiệm ở trong những phòng thí nghiệm hết sức tồi tàn. Ông thường tiến hành những cuộc thí nghiệm quên ăn, quên ngủ. Với ông: “Phòng thí nghiệm và phát minh là hai danh từ có liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu như không có phòng thí nghiệm thì khoa học tự nhiên sẽ trở nên suy kiệt và dần dần bị tiêu diệt, không có hy vọng phát triển. Nếu như có phòng thí nghiệm, năng lực của nó, sức sống của nó sẽ ngày càng phát triển, với những niềm hy vọng vô hạn”. Pasteur còn cho rằng: “Một khi nhà khoa học rời khỏi phòng thí nghiệm, họ sẽ chẳng khác gì một hàng binh hạ vũ khí trên chiến trường”. Có lẽ vì vậy mà Pasteur luôn làm việc miệt mài trong các phòng thí nghiệm, cho dù trong điều kiện hết sức khó khăn.
Louis Pasteur cho rằng sức mạnh duy nhất chính là lòng kiên trì. Năm 1868, tuy bị liệt nửa người, Pasteur vẫn tiến hành các nghiên cứu khoa học. Thành quả mà Pasteur có được đã phải đổi bằng mồ hôi và nước mắt, không những thế, ông còn phải chịu rất nhiều lời chỉ trích khi đưa ra những quan điểm mới. Khi ông vừa nêu lên luận điểm về nguồn gốc gây bệnh là các vi trùng, vi khuẩn, ông đã vấp phải sự chống đối kịch liệt của các nhà bác học đương thời. Với một tâm lý vững vàng, cuối cùng chân lý đã thuộc về Pasteur.
Ngày 14 tháng 11 năm 1888, Pasteur đã mở được một viện nghiên cứu riêng mang tên Viện Pasteur. Đây là nơi nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm, chế tạo các vacxin phòng bệnh, nơi giảng dạy về vi sinh học và cũng là nơi chữa bệnh chó dại. Viện Pasteur đầu tiên được mở ở Paris và uy tín của nó khiến cho các quốc gia khác nhau ở những châu lục khác cũng mở ra những Viện Pasteur của riêng họ. Đây là một sự vinh danh lớn nhất đối với Louis Pasteur, bởi ông rất mong muốn khoa học của mình là của chung nhân loại. Tên tuổi của ông theo đó trở nên quen thuộc với tất cả mọi người trên khắp hành tinh.
Với thành công của ông trên nhiều lĩnh vực khoa học, Chính phủ Pháp đã đầu tư nâng cấp phòng thí nghiệm đơn sơ của Pasteur ở phố Rua thành viện Pasteur, trung tâm nghiên cứu sinh vật và vi sinh vật lớn nhất nước Pháp.
Louis Pasteur mất ngày 28 tháng 9 năm 1895 trong sự tiếc thương của toàn nhân loại. Những cống hiến khoa học của ông đã đưa nền y học thế giới tiến những bước dài. Nhân loại mãi mãi nhớ về ông như một nhà bác học xuất sắc, một nhân cách lớn đáng học tập.