C
harles Darwin là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809 tại thành phố Shrewsbury nằm bên bờ sông Severn ở phía Tây Nam đảo British (Anh). Sinh ra trong một gia đình giàu có, Darwin là con kế út trong một gia đình có sáu người con. Từ bé Darwin đã được sống trong một gia cảnh sung túc. Cha của ông là một danh y rất được trọng vọng lúc bấy giờ. Năm ông lên 8 tuổi, mẹ ông qua đời khiến ông sớm lâm vào cảnh mồ côi mẹ.
Từ nhỏ, Darwin tỏ ra yêu thiên nhiên, thích những điều mới lạ. Ngay từ lúc 8 tuổi, Darwin đã được biết đến lịch sử tự nhiên và ông ước ao sẽ trở thành một nhà sưu tập trong tương lai. Có lẽ chính những điều này là động lực để ông đi đến những khám phá vĩ đại cho nhân loại về sau.
Lòng say mê kỳ lạ của Darwin với những điều mới mẻ đã khiến mọi người phải chú ý và thường gọi đùa Darwin là “Watt” khi thấy cậu bé miệt mài ngồi trong phòng thí nghiệm của người anh để tìm hiểu cho tới khuya, y như một nhà khoa học thực thụ. Tất cả những điều mới lạ đều gây cảm hứng cho Darwin. Nào là môn kỷ hà học, nào là cấu tạo của khí áp biểu, những khoáng thạch... Darwin cũng rất thích sưu tầm các mẫu côn trùng khác nhau. Tuy nhiên, những sở thích đặc biệt và khác thường của Darwin lại khiến cha ông vô cùng lo lắng. Vị hiệu trưởng trường trung học nơi Darwin theo học cũng thường la rầy ông về những sở thích kỳ quặc đó. Nhưng họ không biết rằng chính những đam mê tưởng như vớ vẩn đó của Darwin đã nuôi dưỡng một tư chất khoa học quý giá cho tương lai.
Với mong muốn con trai nối nghiệp mình, năm 1825, cha ông đã đưa con trai vào học ngành y ở Đại học Tổng hợp Edinburgh. Tuy không mấy thích thú với ngành y, nhưng với lòng say mê tìm hiểu khoa học, Darwin vẫn thường xuyên có những buổi gặp gỡ mang tính học thuật với những người bạn trẻ. Ngày 27 tháng 3 năm 1827, lần đầu tiên ông đọc một bản luận văn tại hội học Pliny. Ông cũng đã trở thành hội viên Hội y học Hoàng gia. Mặc dù người cha hết sức động viên Darwin trở thành một thầy thuốc, nhưng cuối cùng, sự say mê khoa học trong con người ông đã chiến thắng. Ông đã bỏ dở ngành y để theo học thần học tại Học viện Cơ đốc Cambridge năm 1828. Việc ông bỏ học ngành y khiến cha ông vô cùng tức giận. Thực ra, khao khát lớn nhất của Darwin là được khám phá thiên nhiên với bao điều kỳ thú. Ông vào học thần học cũng là theo ý nguyện của người cha. Người cha buộc Darwin nếu không làm bác sĩ thì cũng phải là một giáo sư.
Mặc dù vẫn tuân theo ý của cha, nhưng Darwin vẫn giữ nguyên niềm yêu thích tuyệt đối với cuộc sống thiên nhiên. Ông vẫn giữ thói quen săn bắn và đi chơi trong rừng. Darwin thường ghi chép tỉ mỉ từng chi tiết của những con chim mà ông săn được. Ngoài ra, các lĩnh vực như hội họa hay âm nhạc cũng rất có sức lôi cuốn Darwin. Ông thường có thói quen đến tham quan những hành lang tranh, đi tản bộ đến nhà thờ nghe hát thánh ca, ngay cả những ngày ông có tiết học. Đối với Darwin, niềm say mê lấn át tất cả mọi thứ. Đã có lúc, ông bỏ tiền ra thuê hẳn những chú bé chuyên hát thánh thi trong nhà thờ vào ký túc xá của mình để ca hát. Có lẽ, niềm say mê chính là một điều đặc biệt ở con người Darwin.
Năm 1831, Darwin tốt nghiệp đại học. Trong thời gian học tại Cambridge, ông được làm quen với giáo sư John Stevens Hanslow, một người rất tâm huyết với khoa học. Chính giáo sư Hanslow đã khuyên Darwin đọc một số sách về địa chất học, đồng thời giới thiệu ông với những giáo sư địa chất học có tiếng. Nhờ đó, Darwin không những được tiếp cận các tri thức mới mẻ mà còn được rèn luyện óc quan sát qua những lần trực tiếp tham gia khảo sát địa chất cùng các vị giáo sư này. Sự tích luỹ tri thức tự nhiên từ tấm bé cũng như năng lực quan sát sự vật của Darwin đã giúp ông tiến bộ nhanh chóng trên con đường nghiên cứu khoa học.
Một sự may mắn lớn và cũng là một sự sắp đặt của định mệnh khi Darwin tham gia chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới trên chiến hạm Beagle. Chính giáo sư Hanslow khi biết tin chính phủ Anh sắp sửa phái chiếc Beagle đi vòng quanh thế giới khảo sát tài nguyên ở các địa phương đã đề nghị cho Darwin tham gia với tư cách một nhà khoa học tự nhiên trẻ tuổi. Điều này khiến Darwin vô cùng vui sướng, trong khi cha ông lại phản đối kịch liệt. Nhưng cuối cùng Darwin đã thuyết phục được cha mình và tham gia vào chuyến thám hiểm đáng nhớ và bổ ích nhất trong cuộc đời mình.
Ngày 27 tháng 12 năm 1831, chiếc chiến hạm nhỏ ba cột buồm nhổ neo, rời cảng Plymouth của nước Anh bắt đầu cuộc hành trình kéo dài 5 năm. Điểm đầu tiên con tàu dừng lại tìm hiểu là bờ biển Nam Mỹ. Tàu đi theo bờ biển Đại Tây Dương, vượt qua Rio de Janeiro để đến cảng Bahia Blanca của Argentina. Tháng 6 năm 1834, tàu vượt đảo Tierra del Fuego ở chót phía Nam của Nam Mỹ, đi vào Thái Bình Dương. Sau đó tàu dừng lại ở Chile trong thời gian một năm để trắc lượng bờ biển. Năm 1835, con tàu tới quần đảo Galapagos - nơi được mệnh danh là “nhà bảo tàng thiên nhiên lớn nhất thế giới”. Cuối cùng sau khi vượt Thái Bình Dương, vòng qua mũi Hảo Vọng để vào Đại Tây Dương và đoàn thám hiểm đã trở về cảng Plymouth vào ngày 2 tháng 10 năm 1836.
Suốt quãng thời gian thám hiểm kéo dài 5 năm ấy, Darwin đã phải chịu rất nhiều gian khổ và thử thách từ những trận bão táp, những cơn nắng cháy da cháy thịt, những nỗi khổ sở vì thiếu nước ngọt và lương thực. Ngoài ra, tính mạng của Darwin cũng bị đe dọa nghiêm trọng trước những cuộc chiến đẫm máu xảy ra ở Nam Mỹ... Nhưng những điều ấy không thể khuất phục được Darwin mà ngược lại, ông đã không tiêu phí một giây phút nào để thu lượm các tiêu bản, khai quật các hóa thạch và không quên ghi nhật ký mỗi ngày. Mỗi lần tàu dừng lại, Darwin đều tự mình đi sâu vào lục địa để khảo sát. Nội dung khảo sát của Darwin chủ yếu là địa chất học và thực vật học. Sự liên hệ một cách khoa học giữa hai ngành khoa học này đã khiến Darwin có được những tư duy rất quý giá. Khi lên tàu, Darwin mang theo nhiều sách vở, đặc biệt, trong đó có cuốn “Nguyên lý địa chất học” của nhà địa chất học Charles Lyell. Những kiến giải về các địa tầng của Lyell giúp Darwin rất nhiều trong việc tìm hiểu lịch sử tiến hóa của các loài khi khai quật.
Sau 5 năm, Darwin đã sưu tập được một lượng lớn các tiêu bản về thực vật, động vật và hóa thạch. Trên bãi biển Punta Arenas, ông phát hiện được hóa thạch của 9 loài thú khổng lồ có bốn chân. Còn ở quần đảo Galapagos, ông sưu tập được 193 loài, trong đó có 100 loài hoàn toàn mới. Ông cũng sưu tập được 26 loài chim trên đảo, trong đó, 25 loài thuộc loại tuyệt chủng. Trên hòn đảo không người cư ngụ này, chỉ có các ngọn núi lửa trơ trụi, Darwin đã nhìn thấy các con rùa khổng lồ, các con thằn lằn thực to lớn chưa từng thấy trên thế giới, các con cua và sư tử biển quá cỡ. Ông cũng đặc biệt nhận thấy các con chim tại đây tương tự như thứ chim trên các hòn đảo bên cạnh nhưng không giống hệt. Ngoài ra, đã có sự thay đổi trong các loại chim khác nhau từ hòn đảo này sang hòn đảo khác.
Hiện tượng lạ lùng của các sinh vật trên quần đảo Galapagos cộng với các sự kiện chắc chắn đã được ghi nhận trước kia tại Nam Mỹ đã tăng cường các ý tưởng về sự tiến hóa bắt đầu hình thành trong đầu Darwin. Darwin đã ghi trong sổ tay như sau: “Tôi đặc biệt ngạc nhiên thứ nhất vì các hóa thạch của động vật có vẩy như loại armadillo hiện có, thứ hai vì cách thức các động vật liên hệ gần đã thay thế nhau trên lục địa khi đi dần về phía nam và thứ ba, các sinh vật đổi thay khác nhau đôi chút trên các hòn đảo Galapagos dù cho các đảo này khá trẻ theo ý nghĩa địa chất”.
Darwin không hiểu ngay ý nghĩa của sự thay đổi hình thức bên ngoài của các sinh vật, nhưng ông đã ghi chép tất cả nhận xét để sau này nghiên cứu khi trở về nước Anh. Ông không chấp nhận các giáo điều trong sách Sáng thế theo đó mọi chủng loại đã được tạo nên cùng một lúc và không thay đổi qua thời gian.Và điều quan trọng mà Darwin phát hiện ra trong chuyến đi này, là ông đã bắt đầu hoài nghi về thuyết các loài bất biến - một học thuyết vô cùng quen thuộc với giới khoa học trong suốt thời Cổ đại cho đến lúc đó. Với những điều đã thu thập được, Darwin đã hình thành trong đầu những nét phác thảo đầu tiên cho vấn đề lịch sử tiến hóa của các loài. Sự hoài nghi này là cơ sở cho những mầm mống tư tưởng đúng đắn nảy sinh trong trí óc Darwin, để rồi về sau trở thành kiến thức chuẩn mực của toàn nhân loại.
Đến Nam Mỹ, Darwin nhận thấy các loài vật giống nhau nhưng lại có hình dạng khác nhau, có những hóa thạch của động vật cổ xưa, nay đã tuyệt chủng nhưng lại có nét giống với rất nhiều loài động vật hiện tại. Khi khảo sát trên quần đảo Galapagos thuộc Equador ở phía Đông Thái Bình Dương, Darwin nhận thấy những sinh vật trên hòn đảo này đều khác biệt với những sinh vật cùng loài tại vùng Nam Mỹ. Thậm chí, cùng một loài sinh vật mà ở mỗi hòn đảo nhỏ trong vùng quần đảo Gapalagos lại có sự khác biệt. Trước những hiện tượng kỳ lạ đó, Darwin biến nghi ngờ của mình thành một sự xét đoán kiên định: “Những vật chủng mới không phải do Thượng đế sáng tạo ra, còn những vật chủng cũ cũng không phải không bao giờ thay đổi”.
Và sau 5 năm thực hiện chuyến đi khám phá thế giới, Darwin đã trở thành một nhà khoa học tự nhiên thực thụ. Điều đáng nói là nếu như trước kia, ông không bao giờ có ý nghi ngờ những điều răn dạy trong Kinh thánh thì sau chuyến đi lịch sử ấy, chân lý “Thượng đế tạo ra con người” đã bị lung lay dữ dội trong ông. Bước phát triển trong nhận thức của Darwin cũng chính là điều kiện để tạo ra sự phát triển trong nhận thức nói chung của loài người, sự trở về của Darwin sau chuyến hành trình đã đưa đến cho nhân loại một nhận thức đúng đắn hơn tất thảy những học thuyết giải thích về nguồn gốc và sự tồn tại của các loài. Bằng chính những sự thật hiển nhiên mà Darwin thu thập được trong chuyến hải trình, sau này ông đã chinh phục được giới khoa học.
Năm 1836, sau khi trở về nước, Darwin sống ở Luân Đôn 3 năm. Dù người thầy Hanslow tìm được cho ông một chức vụ thư ký của hội địa chất Anh nhưng ông từ chối. Darwin bằng lòng làm việc không lương, cống hiến hết mình cho khoa học. Suốt cuộc đời, Darwin chưa từng đảm nhiệm một chức vụ nào bởi ông dành tất cả thời gian cho việc nghiên cứu và viết lách tự do. Nhờ sự trợ giúp về mặt kinh tế của người cha, Darwin có thể toàn tâm toàn ý cho khoa học. Ngay sau khi trở về, Darwin đã chuyên tâm chỉnh lý lại các tiêu bản đã thu thập được và cho xuất bản cuốn “Nhật ký khảo sát”. Cuốn nhật ký ra đời ngay lập tức đã thu hút một số lượng lớn độc giả. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và khiến cả thế giới phải say mê. Nhưng với Darwin, điều quan trọng nhất là ông đã phổ biến được những điều tai nghe, mắt thấy của mình trong cuộc hành trình khám phá thế giới với đông đảo mọi người.
Ngoài ra, Darwin còn tham gia các thực nghiệm về nuôi các loài mới, thực nghiệm về tạp giao ở những nông trường lớn của nước Anh. Thời đó, để tạo ra giống mới, con người lựa chọn các con vật tốt nhất để cho sinh sản. Theo Darwin, đó chính là một việc làm thao túng, khống chế sự tiến hóa của sinh vật. Từ đó, ông có những liên tưởng về vấn đề “chọn lọc tự nhiên” đang tồn tại trong tự nhiên: giống nào biết thích nghi thì sẽ sinh tồn và tiến hóa, ngược lại, giống nào không biết thích nghi thì sẽ bị đào thải, thậm chí đi tới tuyệt chủng. Đây chính là cốt lõi vấn đề mà Darwin sẽ tiếp tục tiến hành nghiên cứu trong phần đời còn lại của ông.
Năm 1839 cuốn “Tạp chí khảo cứu địa chất và khoa học tự nhiên của các quốc gia khác nhau trong chuyến đi trên con tàu Beagle” được công bố. Giờ đây ông bắt đầu suy nghĩ về lý thuyết của sự tiến hóa hữu cơ, theo đó các chủng loại thay đổi không chỉ từ nơi này sang nơi khác mà còn qua các thời đại địa chất. Ông muốn khám phá ra lý do của các thay đổi và đồng thời, viết cuốn sách “Nguồn gốc của các loài”. Bản phác thảo đầu tiên gồm 35 trang viết vào năm 1842, qua năm 1844 đã được mở rộng thành 230 trang. Từ đầu, bài toán bí ẩn là làm sao cắt nghĩa đời sống hữu cơ, đã bắt đầu phát triển kể từ thời khởi đầu của trái đất, cắt nghĩa sự xuất hiện và biến đi của các loài vật. Tại sao các loài vật đã sinh ra, bị thay đổi qua thời gian, phân chia thành các ngành khác nhau và đôi khi biến mất hoàn toàn?
Trong 20 năm ròng rã, Darwin đã cụ thể hóa các lý thuyết của mình. Ông đọc vô số tài liệu: tạp chí, sách du lịch, sách thể thao, sách dạy trồng hoa, sách dạy nuôi súc vật và sách lịch sử tự nhiên. Ông nói chuyện với nhiều nhà gây giống cây và thú vật, gửi câu hỏi tới nhiều người hiểu biết. Ông đã lý luận rằng nếu sự tiến hóa được thực hiện do cách chọn lựa nhân tạo thì thiên nhiên cũng có thể hoạt động theo cùng một phương thức do cách chọn lựa tự nhiên?
Ông sưu tầm các bộ xương của các con vật đã được thuần hóa, so sánh chúng với xương của các con vật hoang dã. Ông khảo cứu các trái cây và hạt giống nổi và di chuyển trên mặt nước biển. Ông dùng các dữ kiện thu lượm được trong cuộc hành trình trên con tầu biển Beagle để giải đáp nhiều bài toán liên quan tới thực vật học, động vật học, địa chất học, cổ sinh vật học...
Ông quan sát thấy một số lớn chủng loại đã bị chết đi, chỉ một phần nhỏ sống sót. Vài loài động vật là thức ăn của các loài động vật khác. Sự tranh đấu tiếp tục không ngừng và cuộc cạnh tranh dữ dội đã diệt đi chủng loại nào không thích hợp với sự sống còn. Các thay đổi về chủng loại đã xẩy ra để đáp ứng các điều kiện cần thiết vì sự sống còn.
Chìa khóa đáp án đối với Darwin đã được tìm thấy khi ông đọc cuốn sách “Khảo luận về dân số” của Thomas Robert Malthus. Malthus cho rằng việc cung cấp thực phẩm đã kiểm soát mức độ gia tăng dân số và dân số tăng thêm trên trái đất bị chặn lại do tai nạn, bệnh tật, chiến tranh và nạn đói. Sau khi đọc cuốn sách đó, Darwin đã viết: “Từ sự quan sát lâu dài các thói quen của sinh vật và thực vật, tôi nhận ra rằng trong các hoàn cảnh sống, các chủng loại thích nghi thường được duy trì và các chủng loại không biết thích nghi sẽ bị tiêu diệt. Kết quả của sự kiện này là các chủng loại mới được sinh ra”.
Tháng 5 năm 1856, Darwin bắt đầu viết cuốn “Khởi nguyên các loài vật”. Khi viết được gần một nửa thì ông nhận được một bức thư của một nhà khoa học trẻ người Anh tên là Alfred Roussel Wallace. Trong thư có kèm theo một bản luận văn nhan đề “Bàn về khuynh hướng biến dị vô cùng tận tách rời nguyên hình”. Con đường mà Roussel Wallace đi tuy khác con đường mà Darwin đã đi nhưng họ lại gặp nhau ở kết quả cuối cùng. Darwin chủ động nhường quyền ưu tiên cho Wallace công bố trước nhưng do sự thuyết phục của các đồng sự, Darwin đã cùng phát biểu chung một bài luận văn với Wallace nhan đề: Bàn về sự hình thành và khuynh hướng biến đổi giống, đồng thời bàn về sự biến đổi giống và các giống thông qua phương thức chọn lựa tự nhiên để tiếp tục tồn tại.
Cuối cùng, năm 1859, cuốn “Nguồn gốc các loài” chính thức ra mắt. Ngay trong ngày phát hành, số sách in ra đã được bán sạch. Sách gồm 15 chương, nội dung chủ yếu là luận chứng sự tiến hóa trong thế giới tự nhiên thông qua chọn lọc tự nhiên. Tác phẩm của Darwin trở thành một cái mốc của lịch sử khoa học. Ấn bản đầu tiên ở Luân Đôn gồm 1.200 cuốn đã bán hết trong vài ngày đầu. Các ấn bản khác chỉ bán tại nước Anh đã lên tới 24.000 cuốn và được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ chính. Bản gốc của tác phẩm của Darwin có tên “Về nguồn gốc của các loài do chọn lọc tự nhiên”. Nhan đề dài của cuốn sách đã được rút gọn thành “Nguồn gốc của các loài”. Lý thuyết của Darwin được trình bày trong 4 chương đầu của tác phẩm. Các chương sau đề cập tới ngành địa chất học, việc phân bổ thực vật và sinh vật, các điều kiện thích hợp với sự phân loại, hình thái học và phôi thai học, và cuối cùng là phần kết luận.
Tác phẩm “Nguồn gốc của các loài” từ phần đầu đã mô tả các thay đổi của động vật và thực vật, các biến đổi do “chọn lựa nhân tạo” so với các thay đổi trong thiên nhiên hay “chọn lựa tự nhiên”. Darwin kết luận, mỗi khi cuộc sống có sự thay đổi thì không có hai cá thể nào hoàn toàn giống nhau. Trong sự biến đổi, còn có sự tranh đấu để sinh tồn và tốc độ gia tăng theo cấp số nhân. Tác phẩm này còn cho thấy nguyên tắc “chọn lựa tự nhiên” đã hoạt động để kiểm soát độ gia tăng của số lượng sinh vật. Một số cá thể trong một chủng loại sẽ có sức mạnh hơn, chạy nhanh hơn, thông minh hơn, ít bị bệnh tật hơn, có khả năng chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết. Các cá thể này sẽ sống còn các cá thể yếu đuối hơn sẽ suy tàn. Loài thỏ trắng trường tồn trên miền bắc cực còn loài thỏ nâu sẽ bị loài chồn, sói ăn thịt. Các con hươu cao cổ nhờ cổ dài, sẽ sống còn do ăn lá trên ngọn cây trong khi loài hươu cổ ngắn bị chết đói. Như vậy, hoàn cảnh thay đổi đã chi phối sự sống còn của các sinh vật có khả năng nhất. Darwin cũng đề cập tới sự chọn lựa truyền giống với các con đực thích nghi được nhiều nhất trong môi trường sống, sẽ để lại nhiều hậu duệ nhất.
Sự ra đời của cuốn sách với những tri thức mới mẻ đã làm dấy lên một phong trào chống đối Darwin trong giới nghiên cứu vẫn đi theo con đường cũ. Người thầy cũ đã từng dạy Darwin ở trường Cambridge là Adam Sedgwick đã gửi thư chỉ trích ông. Ngoài ra, những người theo thuyết do thần sáng tạo và những người tôn sùng tôn giáo tuyệt đối đã tỏ rõ thái độ hằn thù đối với Darwin khiến ông hết sức đau buồn và phẫn nộ. Tác phẩm “Nguồn gốc các loài” mang tính cách mạng nên câu chuyện trong Thánh Kinh về Chúa tạo ra con người sẽ không còn được chấp nhận. Do vậy, Giáo hội Thiên chúa đã coi luận đề của Darwin là nguy hiểm và một trận bão phản đối ông đã nổi lên. Dù cho Darwin cẩn thận tránh né việc áp dụng lý thuyết của ông vào lịch sử phát triển của con người nhưng lời buộc tội đã gán cho ông là ông đã hạ thấp con người khi cho rằng con người bắt nguồn từ con khỉ. Nhiều lời giễu cợt đã được dùng để bác bỏ lý thuyết của Darwin. Tạp chí Quarterly Review đã gọi Darwin là một con người nông nổi, làm ô danh khoa học. Darwin còn bị tố cáo là đã thu thập nhiều dữ kiện để cụ thể hóa một “nguyên tắc sai”. Tại ngôi trường cũ mà Darwin theo học, Đại học Trinity ở Cambridge, ông William Whewell đã không cho phép một ấn bản nào của tác phẩm “Nguồn gốc các loài” được đặt trong thư viện nhà trường.
Thế nhưng, bên cạnh Darwin vẫn có những người hiểu và tôn trọng giá trị khoa học mà ông đem lại. Nhà sinh vật học người Anh - Henry Huxley đã bày tỏ: “Tôi cho là nội dung của quyển sách này không còn gì tốt hơn. Nó có thể làm cho một người hoàn toàn không hiểu vấn đề này cũng phải cảm động... Tôi sẵn sàng để bị thiêu sống - nếu thấy cần thiết - tôi vẫn ủng hộ”.
Đầu mùa hè năm 1860, nước Anh bùng nổ một trận đại biện luận tại thư viện trường Đại học Oxford. Vị tổng giám mục giáo khu Oxford là Sanuel Wilberforce lên tiếng công kích thuyết tiến hóa của Darwin. Trước những lời lẽ quá khích của vị tổng giám mục, giáo sư Huxley vẫn điềm tĩnh đưa ra những luận chứng gãy gọn, dễ hiểu, bẻ gãy những lời lăng mạ của đối phương và được mọi người tán thưởng nồng nhiệt, khiến nhóm tín đồ trong giới tôn giáo kinh hoàng thất sắc. Trong cuộc tranh biện ấy, Wilberforce tin có thể đè bẹp lý thuyết của Darwin nên đã hướng về Huxley và hỏi một cách châm biếm:
- Xin hỏi giáo sư Huxley, liệu có phải phía ông nội hay bà nội của ngài có nguồn gốc từ loài khỉ không?”.
Huxley quay sang một người bạn và nói nhỏ:
- Chúa đã giao ông ta vào tay tôi rồi!”.
Huxley bèn đứng lên và nói:
- Một người không có lý do gì phải xấu hổ khi có một con khỉ là ông nội. Tôi xấu hổ chỉ vì có một ông tổ trí thức gặp một câu hỏi không biết rõ, làm mờ tối câu hỏi này vì lời hùng biện không chủ đích, làm lãng trí người nghe bằng các lời lẽ lạc đề mà lại khéo léo sử dụng thành kiến tôn giáo.
Trên đây chỉ là một trong các cuộc đụng độ diễn ra trong nhiều thập niên giữa nhà thờ và khoa học về lý thuyết của Darwin. Sau này qua cuốn sách “Dòng dõi của con người”, một khối lượng lớn dữ kiện của Darwin đã chứng minh rằng con người cũng là sản phẩm của thuyết tiến hóa, từ các hình thức thấp kém hơn.
Từ đó, thuyết tiến hóa của Darwin giữ vị trí thống lĩnh trong khoa học sinh vật. Năm 1885, trong buổi khai mạc chính thức tượng đồng của Darwin, giáo hội Anh đã cử người tới dự và ngỏ ý: “Học thuyết tiến hóa hoàn toàn không hề có một điểm nào xung đột với Thánh kinh”.
Như vậy, Darwin không chỉ chịu nhiều gian khổ để tìm ra chân lý mà còn vô cùng vất vả để bảo vệ nó. Nhà bác học ấy xứng đáng được tôn vinh bởi lòng say mê khoa học và sự trung thành tuyệt đối với chân lý khoa học. Năm 1860, dù phải chịu đựng sự nguyền rủa của các cha cố, Darwin vẫn tiếp tục viết một tác phẩm có quy mô lớn mang tên: “Sự biến dị của động vật và thực vật trong trường hợp được nuôi ở nhà”. Cuốn sách hoàn thành sau 8 năm và được xuất bản vào năm 1868. Năm 1871, Darwin xuất bản cuốn “Nguồn gốc giới tính của con người và sự lựa chọn giới tính”. Năm 1872, ông lại xuất bản cuốn “Tình cảm bộc lộ của loài người và động vật”. Năm 1876, ông xuất bản cuốn “Dị hoa thụ phấn và tự hoa thụ phấn trong giới thực vật”. Sự ra đời liên tục của các cuốn sách cho thấy quá trình làm việc không biết mệt mỏi của Darwin. Chân lý đối với nhà khoa học ấy mới là điều đáng kể, còn tất cả những điều thị phi xung quanh đều không làm ông chùn bước. Cho đến lúc sắp qua đời, Darwin vẫn cố gắng để ra tiếp một cuốn sách mang tên “Thổ nhưỡng, thực vật và giun đất”.
Cả cuộc đời hết lòng vì khoa học đã khiến sức khỏe của Darwin bị ảnh hưởng nghiêm trọng, ngày 19 tháng 4 năm 1882, Darwin qua đời ở tuổi 73. Darwin được an táng bên cạnh nhà khoa học thiên tài Newton. Người đời vẫn nhắc đến ông như một tấm gương sáng về lòng say mê và tinh thần cao cả trong khoa học. Với thuyết Tiến hóa, Darwin đã dấy lên một cơn bão táp tri thức trong lĩnh vực khoa học sinh vật. Ông đã thực sự làm một cuộc cách mạng triệt để về quan niệm nguồn gốc các loài của toàn nhân loại. Cách nhìn nhận mới mẻ và những chứng cớ xác thực mà Darwin đưa ra không chỉ tạo nên sự thay đổi trong nội bộ ngành sinh vật, nó còn là cơ sở cho nhiều ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội khác thay đổi hướng đúng đắn hơn, tích cực hơn.