A
ndré-Marie Ampère sinh ngày 20 tháng 1 năm 1775 tại Lyon. Ông là nhà vật lý, nhà toán học , một trong những người sáng lập ra lĩnh vực vật lý mới - điện động lực học. Đơn vị đo cường độ dòng điện được mang tên ông là Ampère.
Tương truyền, từ nhỏ Ampère đã tỏ ra ham học hỏi, có tính tò mò và lòng say mê theo đuổi kiến thức .Có chuyện kể ông đã đưa ra lời giải cho các tổng số học lớn bằng cách sử dụng các viên sỏi và mẩu bánh bích quy trước khi biết con số. Cha ông dạy ông tiếng Latinh, nhưng sau đó không bắt ông học tiếp ngôn ngữ này khi nhận thấy khả năng và khuynh hướng nghiên cứu toán học của con trai. Tuy vậy chàng thanh niên trẻ tuổi Ampère sau này đã học lại tiếng Latinh để giúp ông hiểu được các tác phẩm của Euler và Bernoulli. Cuối đời ông đã nói, ông biết nhiều nhất về toán học khi ông 18 tuổi, tuy vậy ông cũng đọc rất nhiều sách vở về các lĩnh vực khác như lịch sử, các ghi chép trong các chuyến du hành, thơ ca, triết học và khoa học tự nhiên.
Khi Lyon bị rơi vào tay quân đội cách mạng năm 1793, cha của Ampère đã chống lại một cách kiên quyết cuộc cách mạng này, do đó bị bỏ tù và sau đó chết trên đoạn đầu đài. Sự kiện này gây ấn tượng sâu sắc đối với tâm hồn nhạy cảm của André-Marie Ampère. Trong vài năm sau đó Ampère chìm trong sự lãnh cảm. Sau đó, sở thích của ông đã được đánh thức bởi một số bức thư về thực vật học khi chúng vô tình rơi vào tay ông, và từ thực vật học ông chuyển sang nghiên cứu thơ ca cổ điển, tự mình viết những bài thơ.
Năm 1796 ông gặp Julie Carron, họ đã gắn bó với nhau. Quá trình gặp gỡ của hai người đã được ông ghi chép lại rất cụ thể trong tạp chí (Amorum). Năm 1799 họ cưới nhau. Vào khoảng năm 1796 Ampère giảng dạy toán học, hóa học và ngoại ngữ tại Lyon; năm 1801 ông chuyển tới Bourg, làm giáo sư môn vật lý và hóa học, để lại người vợ ốm đau và con nhỏ (là Jean Jacques Ampère) ở Lyon. Vợ ông mất năm 1804, ông đã không bao giờ lấy lại được thăng bằng vì mất mát này. Cùng năm này ông được bổ nhiệm làm giáo sư môn toán của trường trung học (lycée) ở Lyon. Thời gian này, ông đã xuất bản cuốn sách nói về lý thuyết xác suất, về sử dụng phép tính biến phân vào các bài toán cơ học và giải tích toán học.
Bài báo nhỏ của ông trong đó mô tả những khả năng thắng bạc thay vì chơi may rủi, được xuất bản năm 1802 đã giành được sự chú ý của Jean Baptiste Joseph Delambre, là người đã giới thiệu ông làm giáo sư ở Lyon, và sau đó một thời gian (năm 1804) là vị trí trợ giảng ở trường Bách khoa Paris. Tại đây ông được bầu là giáo sư toán và tiếp tục theo đuổi các nghiên cứu khoa học, các nghiên cứu đa ngành với một sự chuyên cần không mệt mỏi của Ampère. Ông được kết nạp làm thành viên của Viện Hàn lâm Pháp năm 1814.
Ông đã thiết lập mối quan hệ giữa điện trường và từ trường, và trong phát triển khoa học về điện từ trường, hay như ông gọi đó là điện động lực học, là lĩnh vực tên tuổi của Ampère đã được công nhận. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1820, ông đã nghe nói về phát minh của Hans Christian Orsted rằng kim nam châm chịu tác động của dòng điện. Vào ngày 18 tháng 9 cùng năm ông gửi một báo cáo tới Viện hàn lâm, đề xuất quy tắc xác định chiều lệch của kim nam châm bởi dòng điện. Tiếp tục nghiên cứu, ông đã phát hiện ra tương tác cơ học của các dòng điện và đã thiết lập các hệ thức định hướng để xác định lực tương tác đó.
Toàn bộ lĩnh vực này đã được mở ra khi ông khảo sát và phát biểu công thức toán học không những để giải thích hiện tượng điện từ trường mà còn dự đoán nhiều sự kiện và hiện tượng mới. Ampère phân biệt hai khái niệm dòng và điện áp, xác lập chiều dòng điện trong mạch kín và khẳng định hai dòng điện song song cùng chiều thì hút nhau, ngược chiều thì đẩy nhau. Ông còn xây dựng lý thuyết về từ học, khái niệm về nam châm như tập hợp các dòng điện vòng, sắp xếp trong các mặt phẳng, vuông góc với các đường nối các cực của nam châm. Năm 1826, ông đã xuất bản công trình cơ bản về điện động lực học “Lý thuyết các hiện tượng điện động lực học suy ra chỉ từ thực nghiệm”.
Là một nhà toán học hàng đầu, Ampère đã chỉ ra cách sử dụng ngành khoa học này như thế nào. Ông coi toán học là một ngành của triết học, là cơ sở để đưa các phát minh trong vật lý trở thành các công thức định lượng. Vai trò của toán học là nâng cao tính chính xác, cũng như một phương tiện thực nghiệm của vật lý hiện đại. Trong toán học ông nghiên cứu lý thuyết xác suất, giải tích và ứng dụng toán học vào vật lý.
Là một nhà tiên đoán vĩ đại, ông đã đưa các tư tưởng khoa học, từ đó đã mở ra các hướng nghiên cứu và ứng dụng khoa học rộng lớn. Tên tuổi của ông được xếp ngang hàng với các nhà bác học vĩ đại khác của nước Pháp.
Ampère có nhiều đóng góp trong lĩnh vực toán học, vật lý, hóa học, triết học.
Công trình của Ampère trong vật lý đạt được hàng loạt các thành tựu vĩ đại. Dựa vào phát hiện của Orsted năm 1820 về tác dụng của dòng điện lên kim nam châm, ông đã nghiên cứu bằng thực nghiệm, tìm ra lực điện từ và phát biểu thành định luật mang tên ông. Lực điện từ là một trong các lực cơ bản của tự nhiên, cơ sở của điện động lực học. Định luật Ampère cho phép xác định chiều và trị số của lực điện từ, là cơ sở chế tạo động cơ điện. Công thức Ampère và định luật Faraday là hai cơ sở chính để James Clerk Maxwell xây dựng nên lý thuyết trường điện từ.
Ampère đã phát biểu qui tắc xác định từ trường của dòng điện (qui tắc vặn nút chai), tiên đoán dòng điện phân tử để giải thích bản chất từ của vật liệu sắt từ. Sau Ampère, vật liệu sắt từ trở nên rất phổ biến.
Trong hóa học, ông đã tìm ra định luật sau này gọi là định luật Avogadro-Ampère. Ông còn là một nhà thực nghiệm tài ba. Ampère đã thiết kế và tự làm nhiều thiết bị phục vụ cho các thí nghiệm của mình. Những thiết bị này đã trở thành nền tảng cho các dụng cụ đo điện (như ampe kế, vôn kế, điện trở kế...). Ông còn là cha đẻ của khái niệm phần tử vô hướng, của từ xuyến và của nam châm điện.
Ampère mất ở Marseille và được hỏa táng ở Cimetière de Montmartre, Paris. Sự hào hiệp và tính cách đơn giản của ông được thể hiện trong cuốn sách của ông “Journal et correspondance” (Paris, 1872).