A
lbert Einstein sinh ngày 14 tháng 3 năm 1879 tại thị trấn Um (Wurttemberg) nước Đức trong một gia đình gốc Do Thái. Einstein có cái đầu rất to, xương đầu dô ra. Cha mẹ cậu rất lo sợ cậu bị thiểu năng trí não bởi 4 - 5 tuổi cậu vẫn chưa biết nói. Người cha đã mời nhiều bác sĩ đến khám, họ kết luận là cậu bé hoàn toàn khỏe mạnh và phát triển bình thường. Thuở thiếu thời, Einstein rất lặng lẽ, thường đơn độc đắm mình triền miên trong mơ ước hoặc suy tư. Trò chơi mà cậu ưa thích là dùng các mẩu gỗ hoặc mẩu giấy chắp thành các hình phức tạp.
Với một cửa hiệu buôn bán nhỏ, gia đình Einstein chỉ tạm đủ ăn, nhưng sống trong một không khí lạc quan, đầm ấm, âm nhạc và văn học cổ điển Đức luôn luôn là niềm vui của cậu. Từ nhỏ, Einstein đã học chơi vĩ cầm, nhưng không thích thú lắm, mặc dù vẫn chăm tập luyện. Phải nhiều năm sau đó, khi tập chơi những bản xônat của Mozart, Einstein mới thấy những nét nhạc hài hòa, duyên dáng cuốn hút mình. Lúc này, cậu mới thực sự miệt mài, kiên trì luyện tập, trở thành người chơi vĩ cầm giỏi, say sưa với âm nhạc.
Năm 10 tuổi, học xong tiểu học, Einstein vào học trường trung học Munkhen. Cậu vừa học, vừa giúp bố mẹ trong việc kinh doanh. 12 tuổi, lúc chuẩn bị bước vào năm học mới lần đầu tiên cậu cầm trong tay cuốn sách giáo khoa hình học. Tò mò đọc thử vài trang đầu, cậu bị sự lập luận chặt chẽ và đẹp đẽ của cuốn sách lôi cuốn. Nhiều ngày sau đó, cậu miệt mài đọc cho đến trang cuối cùng. Đọc xong, Einstein rất thích thú.
Khi đi học, Einstein rất thích các môn tự nhiên và triết học. Người chú ruột là Jacôp đã tặng cho Einstein cuốn sách “Hình học thần thánh” của Ơclit, cậu lập tức đọc một mạch cho đến trang cuối cùng. Tính cách của Einstein rất khác thường, với những vấn đề thắc mắc không những cậu buộc mình phải làm sáng tỏ nó là gì mà còn đào sâu tìm hiểu thêm vì sao lại như thế. Ở trên lớp, thầy giáo thường không nhẫn nại chờ được mà phải gõ thước vào bảng thôi thúc Einstein trả lời câu hỏi nhanh lên vì cậu luôn suy nghĩ chu đáo rồi mới chịu trả lời. Thầy giáo thường bối rối vì không trả lời được câu hỏi của cậu. Các thầy giáo không thích tính cách Einstein, cậu không chịu học những môn học thuộc lòng.
Trường trung học Munkhen nơi Einstein theo học lúc đó toát ra một không khí quân phiệt, trong giờ học, phải nói theo ý thầy, không được có ý kiến khác. Einstein nổi tiếng là một học trò bướng bỉnh, thầy giáo dạy tiếng Đức có lần đã nói: “Einstein, em lớn lên sẽ chẳng làm được tích sự gì đâu”. Tư tưởng bài Do Thái cũng lan đến trường, và cậu bé Einstein ương bướng gốc Do Thái đó đã bị xóa tên, không cho học ở đó nữa, mặc dù khi ấy cậu là học sinh giỏi nhất lớp về toán và vật lý.
Sau đó, gia đình Einstein chuyển sang Thuỵ Sĩ để tránh sự đàn áp người Do Thái. Einstein tiếp tục học ở trường trung học Arau, nổi tiếng là một nhà trường mẫu mực. Không khí tự do lành mạnh của nhà trường: “một làn gió hoài nghi tươi mát”, như sau này Anhxtanh nhận xét là: Không bắt học sinh cúi đầu thừa nhận cái gì mà mình chưa tin, khiến cho Einstein hồ hởi học tập và tốt nghiệp vào loại ưu.
Thời gian này, việc kinh doanh của gia đình không mấy tốt đẹp, nhưng bố Einstein cố cho anh được tiếp tục học. Einstein vào thẳng trường Bách khoa Zurich mà không phải thi, anh chọn khoa sư phạm, khoa đào tạo giáo viên toán và vật lý. Trường này có nhiều giáo sư giỏi. Ngoài giờ học Einstein say sưa đọc kỹ các công trình của các nhà vật lý nổi tiếng: Măcxoen, Hemhôxơ, Kiasôp, Bôndơman... Khi ấy, máy quang điện rất hiếm nhưng trong phòng thí nghiệm của trường có nhiều máy và sinh viên có thể tự do đến làm thí nghiệm. Einstein rất say mê làm việc trong phòng thí nghiệm và phớt lờ những giờ lên lớp. Vấn đề Einstein say mê nghiên cứu là bụi vũ trụ mà theo Einstein là một mệnh đề quan trọng của vật lý lý thuyết.
Sau nhiều đêm trăn trở, Einstein đem bản thảo của mình đến gặp giáo sư Uây-pơ. Giáo sư nhận bản thảo một cách hờ hững. Vốn không ưa cậu sinh viên hay bỏ học này, nên khi lật xem vài trang bản thảo, thấy suy nghĩ của Einstein xa rời thực tế, giáo sư trả bản thảo cho cậu và nói: “Einstein, cậu rất thông minh nhưng nhược điểm là không muốn học ai cả”. Nói rồi giáo sư bỏ đi.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu Einstein đã biết cách chọn lấy điều gì thuộc bản chất, bỏ qua những gì chỉ làm mệt óc một cách không cần thiết. Einstein vùng vẫy trong vật lý học tựa như cá trong nước, nhưng chẳng bao giờ nhớ được vận tốc âm trong không khí là bao nhiêu, bởi vì “tìm trong cuốn sách tra cứu nào cũng thấy thì nhớ làm gì cho nặng đầu?” Anhxtanh tốt nghiệp xuất sắc trường Bách khoa, nhưng vẫn nổi tiếng là một sinh viên vô kỉ luật và tự do chủ nghĩa. Đặc biệt quan hệ của anh với giáo sư Vêbe rất căng thẳng. Vêbe giảng bài hấp dẫn, nhưng tư tưởng của ông cũ kĩ, ông không chấp nhận những cái mới trong vật lý học. Einstein không bao giờ nghe ông giảng, chỉ tự đọc sách và đến làm thí nghiệm. Khi tiếp xúc với ông, có lần anh không nói “Thưa giáo sư”, mà chỉ nói “Thưa ông Vêbe”. Vêbe không tha thứ anh về điều đó. Cuối khóa học, tất cả sinh viên cùng lớp đều được ông giữ lại làm việc ở trường, trừ một mình Einstein phải ra đi. Hai năm liền Einstein không có việc làm, chỉ thỉnh thoảng nhận dạy học ngắn hạn ở một trường nào đó, hoặc kèm cặp cho một vài học sinh. Anh không thể dựa mãi vào gia đình, vì cha anh làm ăn rất chật vật. Anh sống tự lập, bữa đói bữa no, “túng thiếu gay go đến nỗi tôi không thể suy nghĩ về một vấn đề trừu tượng nào cả”. Nhưng Einstein vẫn lạc quan và hy vọng, chỉ trong khi viết thư cho bạn rất thân anh mới bông đùa tự gọi mình là “con người không thành đạt”. Hai năm chật vật, lo ăn từng bữa, đã khiến Einstein mắc bệnh đau gan, căn bệnh này còn theo anh suốt đời.
Mùa hè năm 1902, nhờ cha của một người bạn thân giới thiệu, Einstein được nhận đến làm việc ở phòng đăng kí phát minh thành phố Becnơ, với chức danh “giám định viên kĩ thuật hạng ba”. Sau một thời gian, anh đã nắm vững được công việc, đối với mỗi phát minh xin đăng kí, anh nhanh chóng và dễ dàng làm nổi rõ được bản chất của những vấn đề kĩ thuật, và viết bản kết luận một cách gọn gàng, rõ ràng, logic. Anh thích thú với công việc này, vì đòi hỏi anh phải suy nghĩ, cân nhắc, và thúc đẩy tư duy vật lý. Một điều quan trọng nữa là công việc này kéo anh ra khỏi cảnh bần cùng, cho anh một vị trí khiêm tốn nhưng vững bền. Với đồng lương hạn hẹp, anh đã cảm thấy giàu có và hài lòng, vì ngoài tám giờ làm việc, anh lại có điều kiện ung dung để nghiên cứu vật lý học. Giám đốc cơ quan cũng hài lòng với công việc của anh. Một thời gian sau, anh được tăng lương, nhưng anh đã ngạc nhiên hỏi: “Sao cho tôi lắm tiền thế này để làm gì?”
Ba năm liền sau đó là một thời gian thật hạnh phúc và hết sức phong phú đối với Einstein. Anh cùng một số bạn trẻ ý hợp tâm đầu luôn luôn gặp mặt nhau, và nhóm bạn đó tự gọi nhau là “Viện Hàn lâm Ôlympia”. Chiều chiều họ hay gặp nhau sau giờ làm việc, cùng nhau ăn cơm, rồi cùng đọc sách vật lý và triết học, đọc tiểu thuyết, ngâm thơ, tranh luận với nhau, nghe Einstein kéo vĩ cầm những nhạc phẩm của Bakhơ, Sube và nhất là của Mozart. Chiều thứ Bảy, có khi họ kéo nhau lên núi chơi, trò chuyện, tranh luận suốt đêm, sáng sớm ngắm cảnh mặt trời mọc, tiếp đến xuống núi ăn điểm tâm, rồi trở về nhà mệt mỏi nhưng sung sướng. Ba năm như vậy đã tạo cho Einstein một niềm vui lớn, một sự yên tĩnh trong tâm hồn, để tư duy khoa học được thả sức bay bổng.
Năm 1903, Einstein kết hôn với Mivela là bạn học cũ, năm sau họ sinh một con trai. Năm 1905, kỳ tích và vinh quang đã đến với Einstein. Chỉ trong vòng một năm, Einstein đã có năm công trình nghiên cứu có giá trị đăng trên “Biên niên Vật lý học”, một trong những tạp chí khoa học được tín nhiệm nhất lúc bấy giờ. Công trình thứ nhất là một nghiên cứu nhỏ về kích thước của phân tử. Công trình thứ hai nói về hiệu ứng quang điện, trong công trình này Einstein nêu ra lý thuyết về lượng tử ánh sáng. Ánh sáng không những bức xạ gián đoạn như giả thuyết của Plăng, mà còn lan truyền và bị hấp thụ một cách gián đoạn nữa. Trong công trình thứ ba, Einstein dựa vào thuyết động học phân tử để giải thích bản chất của chuyển động Brown. Công trình thứ tư là một sự trình bày tóm tắt thuyết tương đối hẹp. Công trình thứ năm là một khảo sát ngắn gọn về công thức E = mc2. Đó là những công trình hết sức cơ bản, đặc biệt là công trình thứ tư, đánh dấu sự ra đời của thuyết tương đối hẹp.
Thời gian này, Einstein đã dồn thời gian rỗi để viết bốn công trình vĩ đại chuẩn bị lý luận cho cuộc cách mạng vật lý thế kỷ XX. Công trình thứ nhất “Phương pháp xác định mới về độ lớn của phân tử”, Einstein đã trích phần “Nghiên cứu sự khuếch tán và nội ma sát của các chất trung tính trong dung dịch loãng để xác định độ lớn thực tế của nguyên tử” gửi cho Đại học Công nghiệp liên bang Zurich. Công trình thứ hai về quang học. Trước đây, Newton cho rằng ánh sáng do các hạt cấu thành, trong lịch sử khoa học gọi đó là “thuyết hạt ánh sáng”. Đầu thế kỷ XIX, các nhà khoa học lại cho rằng ánh sáng không phải do các hạt cấu thành mà là một loại sóng dao động. Về sau lý thuyết điện từ của Maxwell tiến thêm một bước đã chứng minh tính dao động sóng của ánh sáng. Học thuyết này có tên là “Động học sóng của ánh sáng”. Lúc ấy Einstein từ một góc độ mới mẻ bàn về sự bức xạ năng lượng của ánh sáng. Einstein cho rằng ánh sáng là do những hạt rời rạc (lượng tử) cấu thành. 16 năm sau nhờ công trình này Einstein giành được giải Nobel Vật lý. Công trình thứ ba nghiên cứu về “chuyển động Brown”. Chuyển động Brown được phát hiện năm 1827, nhà thực vật học Brown người Anh làm thí nghiệm rắc phấn hoa vào nước, dùng kính hiển vi quan sát. Brown phát hiện một hiện tượng lạ là phấn hoa chuyển động không ngừng giống như vô số các sinh vật li ti đang nhảy múa. Chuyển động kỳ lạ này được gọi là chuyển động Brown. Mấy chục năm sau, các nhà khoa học đã mất nhiều công sức để giải thích hiện tượng này nhưng chưa lý giải được thấu đáo. Einstein bằng nhãn quan độc đáo của mình đã nắm được bản chất vấn đề. Hồi đó rất nhiều người còn chưa tin vào sự tồn tại của phân tử và nguyên tử nhưng Einstein đã đi sâu nghiên cứu chuyển động của phân tử. Ông cho rằng phân tử nước rất nhỏ, dùng kính hiển vi không thể thấy được nhưng phân tử nước vận động không ngừng. Do sự va chạm với các phân tử nước mà phấn hoa có chuyển động Brown không quy tắc. Einstein còn dùng phương pháp toán học tính được độ lớn của phân tử và hằng số Avogadro - Số lượng phân tử chất khí bất kỳ ở trạng thái tiêu chuẩn. Ba năm sau nhà vật lý người Pháp, Faylan đã chứng minh được định luật của Einstein về chuyển động Brown. Công trình thứ tư được công bố trên tạp chí vật lý học: “Bàn về điện động lực học của các vật thể động”, là công trình đầu tiên về thuyết tương đối. Với độ dày 30 trang, Einstein đã làm thay đổi về bản chất quan niệm về thời gian và không gian.
Trước thế kỷ XX, Newton là chúa tể của vương quốc vật lý. Cơ học Newton được xây dựng trên cơ sở thời gian và không gian tuyệt đối. Newton cho rằng trong bất kỳ điều kiện nào độ dài thời gian đo được luôn luôn như nhau, không thể có kết quả thứ hai, rằng thời gian và không gian tuyệt đối, không liên quan đến bất kỳ sự vật nào ở thế giới bên ngoài. Ví dụ: Nếu thời gian phát tiếng của một máy ghi âm trên mặt đất đo được là 1 giờ thì thời gian phát tiếng của máy ghi âm đó trên mặt trăng đo được cũng là 1 giờ. Nhưng Einstein cho rằng thời gian phát tiếng của máy ghi âm trên mặt trăng đo được không phải là 1 giờ mà có thể hơn hoặc kém hơn 1 giờ. Như vậy thời gian là tương đối tức là độ dài thời gian đo được trong những điều kiện khác nhau là khác nhau. Đến những năm 30 của thế kỷ XX, từ các thí nghiệm kích phát nguyên tử hyđrô người ta đã chứng minh được thời gian bị kéo dài. Về không gian cũng tương tự, độ dài theo phương chuyển động của cái thước chuyển động với tốc độ nhanh cũng bị rút ngắn lại so với cái thước ở trạng thái nằm yên. Đó là thuyết tương đối hẹp. Luận văn về thuyết tương đối hẹp đã nhanh chóng thu hút sự hứng thú mạnh mẽ của một bộ phận các nhà khoa học có kiến thức trong giới vật lý. Qua luận văn này họ nhận được những thông tin mới về cuộc cách mạng trong vật lý.
Tuy nổi tiếng vậy nhưng cuộc sống của Einstein vẫn chẳng có gì thay đổi. Hàng ngày 9 giờ ông đến cơ quan làm việc. Sau giờ làm việc ông đến làm thuê cho xưởng làm giấm. Nhiều học giả nổi tiếng đinh ninh Einstein phải là một giáo sư, họ tìm gặp ông và rất ngạc nhiên khi thấy ông chỉ là một viên chức quèn, đầu tóc rối bù, áo sơ mi nhăn nhúm. Vị giáo sư nổi tiếng Plăng đã phải kêu lên: “Làm sao lại có thể chà đạp nhân tài đến thế. Một thiên tài sắp phát động một cuộc cách mạng trong vật lý, một Côpecnic của thế kỷ XX mà lại phải làm những việc lặt vặt của một công chức hạng ba ở cục bản quyền, thật bất công”.
Năm 1909, nhờ giáo sư Klein tích cực giới thiệu, Đại học Công nghiệp liên bang Zurich đã mời Einstein làm giáo sư, lương 4500 frăng một năm. Einstein rất vui vì bây giờ ông có thể nuôi được gia đình bằng việc nghiên cứu vật lý.
Danh tiếng Einstein ngày càng lớn. Mùa hè năm 1913 Plăng và Lơnxtow ở viện khoa học Prusi (Đức) đã mời Einstein về làm giáo sư Đại học Berlin, Viện sỹ Viện khoa học Prusi và Cục trưởng Cục nghiên cứu vật lý với mức lương rất hậu hĩnh, Einstein đã nhận lời. Với những thiết bị nghiên cứu vào loại bậc nhất và điều kiện vật chất đầy đủ, Einstein đã đưa thuyết tương đối đi vào con đường phát triển huy hoàng. Chỉ hai năm sau khi ở Berlin, năm 1916 ông đã hoàn thành công trình có tính tổng kết về thuyết tương đối: “Cơ sở thuyết tương đối rộng” và đưa ra giả thuyết hữu hạn vô biên của không gian vũ trụ, tổng kết sự phát triển của thuyết lượng tử, lần đầu tiến hành khám phá sóng lực hấp dẫn được công nhận là đỉnh cao của lý luận vật lý thế kỷ XX. Về sau Einstein căn cứ trên phương trình chuyển động của thuyết tương đối đã đưa ra ba dự đoán lớn:
- Tia sáng bị cong đi trong trường hấp dẫn của Mặt trời.
- Quy luật chuyển động của Sao Thủy ở điểm gần Mặt trời nhất: Sau mỗi vòng quay quanh Mặt trời, vị trí điểm gần Mặt trời nhất của Sao Thủy bị biến đổi một ít.
- Tia quang phổ trong trường lực hấp dẫn bị dịch chuyển về phía ánh sáng đỏ (phía sóng dài).
Ngày 29/5/1919, các nhà thiên văn người Anh thông qua quan sát nhật thực đã chứng minh tính chính xác của thuyết tương đối rộng: Tia sáng bị uốn cong trong trường hấp dẫn của Mặt trời, không gian là không gian cong, học thuyết mới về lực hấp dẫn hoàn toàn chính xác. Hai dự đoán sau cũng lần lượt được nghiệm chứng. Einstein nhanh chóng trở thành thần tượng được cả thế giới sùng bái. Từ khắp nơi trên thế giới, những lời mời liên tiếp gửi đến ông. Einstein đã đến nhiều nơi trên thế giới để thuyết minh về thuyết tương đối và được mệnh danh là “Newton của thế kỷ XX”.
Tháng 6/1919, Einstein đã gặp Elsa, một người em họ, người bạn từ thuở thiếu thời. Elsa lúc ấy đã góa chồng và có hai đứa con riêng, song cô là người tính tình vui vẻ, lại đảm đang. Hai người thành hôn với nhau sau khi Einstein li dị Mileva. Họ có 2 con là Ilse và Margot. Cuộc sống của họ tương đối đầy đủ và hạnh phúc. Bà Elsa thường chăm sóc chồng một cách hiếm có. Bà chỉ cho phép Einstein mỗi ngày hút một điếu thuốc lá. Mặc dù luôn tuân theo kỷ luật này, nhưng trong phòng ông, căn phòng không ai được phép vào, kể cả vợ của ông lại có một hộp thuốc do các bạn của ông bỏ vào.
Einstein rất thích âm nhạc. Âm nhạc đối với ông vừa là môn giải trí, vừa là nguồn an ủi và còn là sự cần thiết nữa. Ông có tai nghe nhạc rất chính xác và rất ưa thích các nhạc phẩm của Mozart. Ông chơi đàn rất rõ ràng, đúng nhịp, không đi trước mà cũng không bỏ qua các dấu nhạc. Trong các nhạc cụ, ông ưa thích vĩ cầm. Nhiều người quí mến ông đã gửi tặng ông các nhạc cụ do những thợ đàn danh tiếng làm, nhưng Einstein lại ưa thích cây vĩ cầm rất bình thường của Nhật Bản, hình như cây đàn này đã đem lại cho ông nhiều kết quả tốt đẹp.
Trong đời thường, Einstein là người có óc hài hước và rất thích nhân vật hề Sác lô. Ông viết cho nghệ sĩ một bức thư nói: “Trong phim ‘Nhật ký đào vàng’, Ngài chỉ diễn câm thế mà mọi người trên thế giới đều hiểu. Ngài chắc chắn sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại”. Sác lô đã cung kính trả lời Einstein: “Tôi càng kính phục Ngài hơn. Thuyết tương đối của Ngài không ai hiểu cả, thế mà Ngài đã trở thành nhân vật vĩ đại rồi”.
Xung quanh cuộc đời ông có rất nhiều giai thoại. Chuyện kể rằng, khi thuyết tương đối được công bố, các tờ báo của Anh, Mỹ đã đăng một bức biếm họa minh họa không gian bị uốn cong của thuyết tương đối. Bức tranh vẽ một thám tử tay cầm đèn pin soi, ánh sáng đèn sau khi bị uốn cong hai, ba lần mới chiếu lên lưng một tên trộm đang đào tường khoét ngạch. Tiêu đề của bức tranh biếm họa là: Albert Einstein bắt trộm. Thật thú vị”.
Năm 1921, khi vừa đặt chân lên đất Mỹ, ông đã bị các ký giả hiếu kỳ vây lấy, yêu cầu ông dùng mấy câu thật ngắn gọn nói rõ “Thuyết tương đối là gì?” Ông nói:
- Nếu các vị không đòi hỏi quá khắt khe về câu giải thích thì tôi có thể nói như thế này: Xưa nay người ta cho rằng, nếu tất cả các vật trong vũ trụ mất đi thì thời gian và không gian vẫn tồn tại y như cũ, còn thuyết tương đối thì nói rằng thời gian và không gian cũng sẽ mất đi như tất cả các vật đó”.
Ngay sau đó, các ký giả láu lỉnh lại chĩa micro về phía vợ ông, bà Elsa.
- Thưa bà, bà hiểu thuyết tương đối là thế nào?
Elsa trả lời như một viên chức ngoại giao điêu luyện. Bà mỉm cười nói:
- Ồ! Thực tình tôi cũng không hiểu lắm, tuy ông ấy nhiều lần giải thích cho tôi. Nhưng tôi cho rằng tình cảm và hạnh phúc của chúng tôi hình như không cần đến thuyết tương đối. Trình độ toán học của tôi đủ để ghi chép các khoản chi tiêu trong gia đình là được rồi.
Einstein luôn hài hước, ngay cả khi gặp rủi ro. Có người phàn nàn với ông rằng thuyết tương đối của ông khó hiểu quá. Ông đáp: “Có gì là khó hiểu, chẳng hạn như khi ta ngồi cạnh người yêu thì thấy một giờ ngắn bằng một phút, còn nếu ta ngồi trên lò lửa hồng thì một phút lại lâu bằng một giờ.”
Một hôm, có người hỏi ông:
- Ông có chắc rằng lý thuyết của ông đúng không?
Ông đáp:
- Tôi tin chắc là đúng, nhưng người đời chỉ có được dẫn chứng cụ thể khi tôi đã chết rồi. Khi đó nếu tôi có lý, thì tại nước Đức người ta bảo tôi là người Đức còn người Pháp lại bảo tôi là dân Do thái. Nếu lý thuyết của tôi sai, thì người Đức bảo tôi là dân Do thái còn người Pháp sẽ bảo tôi là dân Đức.
Khi Einstein nói về thuyết tương đối, một người hay nghi ngờ hỏi:
- Trí thông minh của người mạnh khoẻ như tôi không chấp nhận những cái mà nó không nhìn thấy.
Einstein đứng yên lặng một lúc rồi trả lời:
- Điều này có vẻ có lý lắm. Giờ ông đặt trí thông minh của ông lên bàn đây, và tôi có thể tin rằng ông có một bộ óc thông minh.
Einstein là một nhà vật lý nổi tiếng về tài năng nhưng cũng không kém nổi tiếng về sự đãng trí. Một lần trên xe buýt, Einstein bị rơi mất một mắt kính xuống sàn xe, đang lom khom tìm nhặt thì con gái nhanh nhẹn nhặt lên và dúi vào tay ông. Ông cảm ơn rồi hỏi:
- Cháu gái ngoan, cháu tên là gì? Cô bé trả lời:
- Thưa bố, tên con là Clara Einstein.
Lại có chuyện kể, một lần trên xe buýt, khi người soát vé đi kiểm tra vé, đến lượt nhà bác học Anhxtanh thì thấy ông hình như đang tìm kiếm thứ gì đó. Người soát vé liền hỏi:
- Thưa ngài! Ngài đang làm gì vậy? Anhxtanh ngẩng lên và nói có vẻ khó khăn:
- Tôi không tìm thấy vé của mình, không biết nó rơi mất đâu rồi.
Người soát vé ái ngại nhìn ông:
- Thưa ngài! Chính ngài đang ngậm chiếc vé ở trong miệng. Dứt lời, anh ta tiện tay giật luôn chiếc vé trong miệng Einstein, xé đưa cho ông và bỏ đi. Mấy vị khách bên cạnh tò mò hỏi vì sao ông lại không biết mình đang ngậm chiếc vé trong miệng. Einstein cười mỉm đáp:
- Vì chỗ vé tôi ngậm đã bị xé từ tuần trước.
Một giai thoại khác kể, trên chuyến tàu từ châu Âu sang Mỹ, mọi người đều mệt mỏi vì bị sóng biển nhồi lắc.
Riêng một người gương mặt thật bình thản ngồi hút thuốc, nghe nhạc. Mọi người thêm thán phục khi biết được đó chính là Einstein. Một người tiến đến bên ông hỏi:
- Thưa ngài, trong thuyết tương đối, nhiều và ít được hiểu như thế nào ạ?
- Ồ, có gì đâu. Đơn giản thế này nhé: mấy trăm cọng tóc trên đầu là ít. Nhưng trong một chén nước uống mà chỉ có vài ba cái tóc cũng là nhiều.
Một lần, một nữ phóng viên Mỹ hỏi Einstein về thuyết tương đối, ông nói:
Nếu tôi có thì giờ để giải thích cho cô sự khác biệt đó thì sẽ là sự vô tận trước khi cô hiểu điều đó!
Sau khi đề ra lý thuyết của mình. Einstein đi khắp các trường đại học ở Mỹ để giảng bài. Ông thường đi với người tài xế tên là Harry, người luôn ngồi ở hàng ghế cuối, chăm chú nghe mỗi khi ông giảng bài.
Một ngày đẹp trời, sau khi giảng bài, Einstein rời giảng đường đi ra xe. Người tài xế gọi ông và nói:
- Thưa giáo sư, tôi đã nghe bài giảng về thuyết tương đối của ông rất nhiều lần, và nếu tôi có một cơ hội, tôi hoàn toàn có thể giảng lại bài đó!
- Tốt quá, Einstein trả lời. Tuần tới tôi sẽ đi đến Dartmouth. Ở đó họ không biết tôi, anh sẽ là Einstein giảng bài, còn tôi sẽ là tài xế!
Có thể nói, suốt quá trình phát triển của lịch sử, nhân loại đã may mắn được chứng kiến những thay đổi có tính cách mạng trong các quan niệm về thế giới tự nhiên... Lần thứ nhất do nhà thiên văn học Ba Lan kiệt xuất, Copernic (1473 - 1543), mở đầu bằng một kết luận khoa học bác bỏ quan điểm “Trái đất là trung tâm Vũ trụ!”. Kết luận ấy đã xé tan bức màn đen của đêm dài Trung cổ, đưa loài người sang thời kỳ Phục hưng. Đó chính là cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất với sự hình thành và phát triển vật lý - thiên văn cổ điển do công lao sáng tạo của nhiều thế hệ các nhà khoa học, mà tiêu biểu là Kepler (Ba Lan), Galilê (Ý) và Newton (Anh).
Einstein là người đột phá trong cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai, đúng lúc khoa học cổ điển tưởng chừng như sắp có thể hoàn chỉnh sự mô tả toàn bộ Vũ trụ bằng giả thuyết chất ête (ether) tràn ngập không gian. Với trí tưởng tượng, siêu đẳng và trực giác bẩm sinh, Einstein đã làm đổ vỡ nền móng của khoa học cổ điển bằng lập luận khoa học xác đáng, phủ nhận sự tồn tại của chất ête, và do đó phủ nhận luôn cả hai cái tuyệt đối của khoa học cổ điển (không gian tuyệt đối và thời gian tuyệt đối) bằng Thuyết tương đối bất hủ của mình. Lúc đó, cả thế giới triết học lẫn khoa học đã chao đảo như có ai đó rút mạnh tấm thảm dưới chân mình. Thuyết tương đối của Einstein là phiến đá tảng của nền khoa học và công nghệ hiện đại - một trong những nét đặc trưng quan trọng nhất của thế kỷ XX. Vì thế, Einstein đã được cộng đồng các nhà khoa học thế giới chọn làm biểu tượng của thế kỷ XX - thế kỷ của khoa học và công nghệ.
Einstein đã đặt ra bài toán: nếu ta hình dung một con tàu chuyển động với vận tốc bằng tốc độ ánh sáng thì sẽ thấy sóng ánh sáng thế nào? Liệu có thấy không gian và thời gian khác đi so với bình thường ta vẫn thấy? Ông đã giải bài toán ấy một cách chính xác và đi đến các kết luận kinh hoàng đối với khoa học thời đó: tốc độ ánh sáng là không đổi, gần bằng 300.000 km/giây, bất kể ta chuyển động về phía nguồn sáng hay ngược lại. Và không gian cũng như thời gian là tương đối: nếu tốc độ chuyển động của con tàu gần bằng tốc độ ánh sáng, thì thời gian trên con tàu chậm hơn so với lúc nó đứng yên (hoặc chuyển động chậm hơn), đồng thời chính con tàu cũng sẽ trở nên ngắn hơn và nặng hơn. Nói cách khác, không tồn tại chất ête và không có cái gì là tuyệt đối cả. Quan điểm này về sau đã lan truyền sang các lĩnh vực văn học, nghệ thuật... thậm chí cả đạo đức trong suốt thế kỷ XX.
Đi xa hơn nữa, Einstein còn chứng minh rằng năng lượng và vật chất (khối lượng) là hai mặt khác nhau của cùng một thực thể. Quan hệ giữa chúng được mô tả bằng một phương trình rất đơn giản nhưng lại cực kỳ lợi hại: E = mc2 (E là năng lượng được giải phóng khi vật chất bị hụt đi một khối lượng bằng m, c là tốc độ ánh sáng). Đây chính là nguồn gốc của năng lượng nguyên tử, và đau đớn thay (như sau này ông từng than thở) của cả bom nguyên tử nữa!
Ngay từ năm 1907, ông đã nhận thấy Thuyết tương đối hẹp của mình tuy phù hợp với các định luật Điện - Từ trường (đã được xác lập một cách hoàn chỉnh), nhưng không tương thích với Định luật Trọng trường của Newton (đã được xác lập một cách còn có vẻ như hoàn chỉnh hơn!). Định luật Newton đã dẫn đến kết quả là: nếu ta thay đổi sự phân bố vật chất ở một vùng nào đó trong không gian thì trọng trường trong toàn bộ Vũ trụ tức thời thay đổi. Có nghĩa là về nguyên tắc có thể truyền tín hiệu với vận tốc lớn hơn vận tốc ánh sáng, và hơn thế nữa, thời gian là tuyệt đối. Điều đó mâu thuẫn với Thuyết tương đối hẹp. Để khắc phục mâu thuẫn này, Einstein đã lập luận rằng, ắt phải có một mối liên hệ nào đó giữa trọng trường và chuyển động gia tốc. Mối liên hệ đó được ông - mô tả bằng sự uốn cong của không - thời gian bốn chiều (ba - chiều không gian và một chiều thời gian) dưới tác động của khối lượng (năng lượng). Đó chính là Thuyết tương đối tổng quát, khác với Thuyết tương đối hẹp ở chỗ có sự hiện diện của trọng trường. Einstein đã công bố công trình đồ sộ này của mình vào năm 1916, có lẽ đó là đỉnh cao nhất trong cuộc đời sáng tạo của ông.
Với tấm lòng vị tha và trái tim nhân hậu, Einstein còn là một nhà hoạt động xã hội nhiệt thành và hơn thế nữa, một nhà hoạt động chính trị nhân văn. Năm 1939, khi được biết Đức quốc xã âm mưu phát triển vũ khí nguyên tử, ông đã viết thư thúc giục Tổng thống Rudơven phê duyệt đề án chế tạo bom nguyên tử của Mỹ. Thế nhưng, khi được biết hai quả bom nguyên tử đã rơi xuống Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản) vào cuối chiến tranh thế giới thứ hai thì Einstein đã vô cùng hối hận. Ông thú nhận: “Có lẽ đó là sai lầm lớn nhất của đời tôi”. Từ đó, ông đã trở thành một chiến sỹ hòa bình tích cực, ra sức chống chiến tranh phi nghĩa và chống phổ biến vũ khí nguyên tử. Tuy nhiên Einstein không thích làm chính trị. Khi nhà nước Do thái được thành lập năm 1952, người ta ngỏ lời mời ông làm Tổng thống, ông từ chối với một quan điểm rất rõ ràng: “Chính trị là nhất thời, phương trình là vĩnh cửu”.
Ba năm sau ông qua đời với sự bình tĩnh và thanh thản lạ thường. Ông nói với người thân vây quanh giường bệnh: “Đừng bối rối thế! Ai mà chẳng phải chết một lần!”. Trước đó ông đã từng viết: “Nỗi lo sợ về cái chết là nét phổ quát rất dễ thương của loài người. Đó là một trong những phương thức mà tạo hóa dùng để duy trì sự sống của muôn loài. Nhưng công bằng mà nói, nỗi lo sợ ấy thật là khó biện minh, bởi vì chẳng có rủi ro tai họa nào có thể xảy ra đối với một người đã chết”.
Những người thực hiện di chúc đã đưa ông trở về với cát bụi bằng cách rắc nắm tro thi hài lòng ông vào thinh không. Họ đã không ngờ rằng, có một nhà bệnh lý học táo tợn dám cất giấu bộ não của Einstein và bảo quản cho đến tận ngày nay. Nhờ thế mà gần đây, các nhà khoa học Canađa mới có điều kiện thông báo rằng: thùy não dưới (trung tâm tư duy toán học và hình tượng không gian) của con người vĩ đại ấy lớn hơn nhiều so với người bình thường
Einstein đã vĩnh biệt chúng ta nhưng tên tuổi và hình ảnh của ông sẽ mãi mãi sống cùng thời gian. Người đời sau sẽ vẫn luôn kinh ngạc trước trí tuệ siêu phàm của Anhxtanh. Đồng thời, cũng sẽ lưu truyền mãi những câu cách ngôn hóm hỉnh mà lúc nào ông cũng có thể ứng khẩu một cách dễ dàng như làm toán vậy. Chẳng hạn: “Khoa học là một thứ tuyệt vời nếu như ta không phải kiếm sống bằng khoa học!”.
Tên tuổi của Einstein đã trở nên bất tử trong lịch sử nhân loại, đúng như ông nói: “Chúng ta chết đi nhưng sự nghiệp sáng tạo chung của chúng ta sẽ còn mãi mãi”.