• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đảo giấu vàng
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 44
  • Sau

Chương 13Cuộc phiêu lưu trên đảo của tôi bắt đầu như thế nào

S

áng hôm sau, lúc tôi lên boong, quang cảnh hòn đảo giờ đã khác hẳn. Dẫu gió giờ đã ngừng thổi, suốt đêm qua chúng tôi vẫn đi được cả một quãng đường dài. Lúc này, con tàu đang nằm yên vì thiếu gió, cách bờ biển phía đông gần một cây số theo hướng đông nam. Rừng cây phơn phớt xám phủ một khoảng rộng trên đảo. Khoảng xám ấy bị những vệt cát vàng ở nơi đất thấp và nhiều cây thuộc họ thông, cao vượt hẳn những cây khác - khi đứng đơn độc, khi rúc vào nhau thành cụm - xé thành từng mảnh; nhưng những mảng màu trên đảo vẫn chung một vẻ ảm đạm, buồn rầu. Đồi núi nhô cao hơn hẳn cây cối, phơi ra những tảng đá trơ trụi. Quả nào quả nấy đều hình thù kỳ dị. Đồi Viễn Vọng - quả đồi cao nhất trên đảo - phải cao đến hơn một trăm thước, nom cũng cổ quái nhất: gần như mọi mặt đều dốc đứng, còn trên đỉnh lại thình lình bị phạt ngang, hệt như một cái bệ để đặt tượng lên.

Tàu Hispaniola bị sóng nhồi dữ dội, mấy lỗ thoát nước ở mạn tàu chìm hẳn xuống dưới những con sóng cồn. Các thanh lèo rung bần bật làm những khối ròng rọc treo bên dưới cũng xủng xoẻng lắc lên theo, bánh lái[1] bẻ liên tục, toàn bộ con tàu lay chuyển, kêu răng rắc, rền rĩ, cọt kẹt hệt như một xưởng sản xuất. Tôi phải bấu chắc vào dây néo để khỏi ngã vật ra, mọi vật quay mòng mòng trước mắt tôi, dẫu bây giờ, sau một chặng đường dài, tôi cũng đã là một tay thủy thủ kha khá, nhưng đứng im một chỗ và bị nhồi như một cái chai bị sóng đánh dập dềnh trên biển làm tôi không khỏi nôn nao, nhất là khi mới sáng ngày, bụng vẫn còn rỗng.

Có lẽ chính vì điều này - có lẽ chính vẻ đìu hiu của hòn đảo với những hàng cây xám xịt u sầu, những mỏm đá tai mèo nhọn hoắt, và những con sóng xô vào bờ đá dựng đứng nổi bọt trắng xóa, đập ầm ầm như tiếng sấm rền - mà dẫu mặt trời rực rỡ, ấm nóng chiếu sáng trên đầu, những con chim bên bờ biển đang rình bắt cá kêu oang oác rộn rã xung quanh chúng tôi, và quý bạn cho rằng ai cũng sẽ vui mừng khôn xiết khi được về với đất liền sau một chuỗi ngày dài lênh đênh trên biển cả, tôi vẫn thấy chán nản vô ngần - và như người ta vẫn nói, tôi “tiu nghỉu như mèo bị cắt tai”, rồi chỉ mới thoáng nghĩ tới thôi, tôi đã thấy ghét Đảo Giấu Vàng.

Sáng hôm đó, cả núi việc chờ phía trước làm tôi đã chán lại càng thêm chán. Trời không có gió, lại phải thả thuyền con xuống, rồi đội thuyền sẽ kéo con tàu chạy ngoắt ngoéo men theo đảo năm, sáu cây số nữa, sau đó lại luồn vào một lạch nước hẹp để vào bến đỗ đằng sau đảo Xương Người. Tôi xung phong xuống một chiếc thuyền, tất nhiên, khi xuống đó, tôi chẳng phải làm gì cả. Trời ngột ngạt, oi bức, đám thủy thủ phải làm việc cật lực đâm ra càu nhàu. Anderson chỉ huy con thuyền của chúng tôi, nhưng thay vì bắt đám thủy thủ trật tự thì ông ta lại ồn ào hơn tất thảy.

“Gớm nữa!” Ông ta nói rồi chửi thề. “Có phải đi mãi đâu nào!”

Tôi thấy đây là dấu hiệu rất đáng lo ngại, vì cho tới tận ngày hôm ấy, nhóm thủy thủ vẫn vui vẻ và tận tụy làm việc, nhưng khi thấy hòn đảo ngày một gần, họ bắt đầu buông lỏng kỷ luật.

Trong thời gian đó, Long John chẳng chút ngại ngùng, cứ ngang nhiên đứng cạnh thủy thủ cầm lái và hướng dẫn cho tàu đi. Ông ta thuộc con lạch như lòng bàn tay, và dù cho thủy thủ phụ trách dò nước báo chỗ nào cũng sâu hơn mực nước ghi trong bản đồ, John cũng không hề nao núng, dù chỉ một lần, mà vẫn chỉ bảo rất rõ ràng.

“Ở đây triều rút mạnh làm đất bị rửa trôi nhiều lắm.” Ông ta nói. “Nói văn vẻ thì con lạch này được thủy triều cầm xẻng đào sâu thêm đấy.”

Chúng tôi vào chỗ thả neo vẽ trên bản đồ, cách đôi bờ chừng hơn năm trăm mét, một bên là phần đảo chính, một bên là đảo Xương Người. Đáy biển toàn là cát. Vừa quăng neo xuống, chim đã bay vù lên rợp trời, tựa như một đám mây, vừa kêu choe chóe, vừa lượn vòng quanh, rồi chưa đầy một phút sau đã sà xuống, xung quanh lại yên lặng như ban đầu.

Nơi này có đất liền bao quanh, có rừng phủ kín, cây bò xuống tận mép nước, bờ biển thấp và bằng phẳng, những đỉnh đồi khum khum đằng xa nom như vòm kịch trường cong cong, một cái ở bên này, một cái ở đằng kia. Có hai dòng sông nhỏ, hay đúng hơn là hai đầm lầy, cùng đổ nước vào cái ao (quý bạn có thể gọi như vậy cũng được) này, còn những tán lá xung quanh lại láng bóng và rực rỡ theo kiểu nhìn đã thấy độc. Từ trên tàu nhìn vào đất liền, chúng tôi chẳng thấy nhà cửa hay hàng rào cọc gỗ gì hết, vì chúng nằm khuất sau những hàng cây; nếu không có tấm bản đồ đặt trên bục cao sau vô lăng lái kia, hẳn chúng tôi sẽ nghĩ mình là những người đầu tiên thả neo xuống đây, kể từ ngày hòn đảo này nhô lên trên mặt biển.

Trời lặng phắc, không một gợn gió, cũng chẳng có lấy một thanh âm nào khác ngoài tiếng sóng xô bờ, đập vào những tảng đá ầm ầm vọng lại từ cách đó hàng mấy trăm mét. Mùi lá ngâm lâu ngày trong nước tù đọng, mùi thân cây mục quyện vào nhau bốc lên nồng nặc khắp chỗ chúng tôi thả neo. Tôi thấy bác sĩ cứ khịt mũi suốt, cứ như vừa trót nếm mùi trứng ung.

“Không biết ở đây có của cải gì hay không.” Bác sĩ nói. “Chứ bệnh sốt rét thì có đấy, tôi dám đem cả bộ tóc giả của tôi ra cược!”

Cách cư xử của nhóm thủy thủ lúc ở trên thuyền đã đáng lo, thì khi cập bến, họ lại càng tỏ ra hung hăng hơn nữa. Họ tụm năm tụm ba trên boong tàu, gầm gừ nói chuyện với nhau. Đối với lệnh nhỏ nhất, họ cũng gườm gườm nhìn, rồi mới miễn cưỡng làm qua quýt, tỏ ý bất tuân. Đến cả những người trung thành cũng lây thói ấy, vì không còn ai trên tàu chỉnh đốn cho nhau nữa. Chuyện dấy loạn giờ đã biểu hiện quá rõ rệt, nó lơ lửng ngay trên đầu chúng tôi như cơn dông sắp nổi.

Và không chỉ có phe chúng tôi mới nhận ra mối nguy. Long John cũng chịu khó gặp hết nhóm này tới nhóm kia, hết lòng khuyên nhủ và làm gương cho chúng, mà quả thật, không ai sánh bằng ông ta. Ông ta còn sốt sắng, tận tâm và lễ độ hơn mọi khi, với ai, ông ta cũng tươi cười vui vẻ. Lệnh vừa truyền ra, ông ta liền lập tức chống nạng thoăn thoắt nhảy đi làm ngay, vừa đi vừa “Vâng, vâng thưa ngài!” hân hoan hết sức. Và khi không có việc gì làm, ông ta ca hết bài này sang bài khác như muốn dùng cách đó để che đậy những bất mãn của mấy kẻ kia.

Trong tất thảy những ảm đạm của buổi chiều u ám ấy, mối lo về Long John là điều hiển hiện rõ ràng nhất.

Chúng tôi họp nhau lại trong cabin.

“Thưa ngài!” Thuyền trưởng nói. “Nếu tôi đánh liều phát thêm một lệnh nữa thôi, cả tàu này sẽ đồng loạt xông vào bao vây chúng ta ngay tức khắc. Các ngài cũng thấy rõ rồi đấy. Trước mọi lệnh ban ra, tôi đều nhận về những cái nhìn hằn học. Nếu tôi lên tiếng trấn áp, đao kiếm sẽ lập tức vung lên. Còn nếu tôi không nói gì, Silver sẽ biết ngay có điều bí mật đằng sau và thế cũng hỏng hết. Lúc này, chúng ta chỉ có thể dựa vào một người duy nhất mà thôi.”

“Người đó là ai?” Ngài điền chủ hỏi.

“Silver, thưa ngài.” Thuyền trưởng đáp. “Hắn ta cũng sợ, cũng muốn sóng yên bể lặng như ngài và tôi thôi. Giữa chúng đang có xích mích; khi có cơ hội, hắn sẽ nhanh chóng giải quyết thôi, và tôi đang tính tạo cơ hội cho hắn. Chiều nay, ta hãy cho thủy thủ lên bờ nghỉ. Nếu tất cả bọn chúng đều đi cả, con tàu sẽ là căn cứ chiến đấu của chúng ta. Nếu không kẻ nào chịu đi, vậy thì chúng ta phải bám lấy cabin, và cầu Chúa bảo vệ cho lẽ phải. Nếu chỉ vài người trong số chúng đi, ngài cứ tin ở tôi, thưa ngài, Silver sẽ dẫn chúng về lại tàu, ngoan ngoãn như mấy con cừu.”

Chúng tôi cùng quyết như vậy. Súng lục đã nạp đạn đầy đủ được giao cho những người trung thành. Anh Hunter, anh Joyce và bác Redruth được gọi vào họp kín với chúng tôi. Khi biết chuyện, ba người họ không ngạc nhiên lắm, lại có tinh thần quả cảm hơn cả mong đợi. Rồi thuyền trưởng lên boong và gọi các thủy thủ.

“Các anh em!” Ông nói. “Hôm nay trời nóng nực, lại nhiều việc nặng, ai cũng mệt mỏi hết cả. Anh em cứ lên bờ nghỉ ngơi cho thoải mái - thuyền vẫn còn đang thả ở dưới nước, chiều nay, anh em nào muốn, cứ việc dùng thuyền đó mà lên bờ chơi. Nửa giờ trước khi mặt trời lặn, tôi sẽ nổ súng báo hiệu.”

Tôi tin chắc: Mấy tên ngu si ấy cho rằng chúng sẽ tìm luôn được của ngay khi đặt chân lên bờ, vì thuyền trưởng vừa dứt lời, mặt chúng lập tức đã dãn ra và hỉ hả reo hò vang dội, to đến nỗi vọng tới tận ngọn đồi phía xa, làm chim chóc giật mình bay tán loạn và kêu la ỏm tỏi quanh chỗ tàu thả neo.

Thuyền trưởng của chúng tôi rất nhanh trí nên chẳng dại mà đứng lại đó. Vừa nói xong, ông liền bỏ đi ngay, mặc cho Silver muốn sắp xếp thế nào tùy ý. Nếu cứ ở nguyên trên boong, ông sẽ không thể cứ vờ như không biết tình hình được. Mọi chuyện đã rõ như ban ngày thế kia. Silver là chúa tàu, chỉ huy nhóm thủy thủ dấy loạn. Những thủy thủ trung thành - và chẳng mấy chốc, tôi sẽ thấy rằng tàu chúng tôi quả thật có những người trung thành - mà cũng theo lên bờ thì đó hẳn là những người đại ngốc. Nói đúng ra là, tôi nghĩ thế này: Tất cả các thủy thủ trên tàu đều nổi loạn, chống đối vì bị những tên đầu sỏ xúi giục, chỉ có kẻ nhiều, kẻ ít; và một số người, vốn bản chất lương thiện, không bị đẩy đi quá xa. Lười biếng và trốn việc là một chuyện, còn cướp tàu và đoạt mạng người vô tội lại là một chuyện hoàn toàn khác.

Dẫu sao, chí ít thì ai đi ai ở cũng đã phân chia rõ ràng. Sáu người ở lại trên tàu, còn mười ba người khác, bao gồm cả Silver, lục tục kéo nhau xuống thuyền.

Khi ấy cũng là lúc một ý nghĩ điên rồ đột ngột nảy ra trong đầu tôi, cũng nhờ ý nghĩ đó mà về sau, tính mệnh của chúng tôi mới được bảo toàn. Nếu sáu người kia là do Silver bỏ lại, rõ ràng, phe chúng tôi không thể giữ được tàu và biến con tàu thành căn cứ chiến đấu, nhưng cũng vì chỉ có sáu người, rõ ràng, những người trong cabin cũng không cần tôi trợ giúp. Vì những lẽ đó, tôi mới nảy ra ý tưởng lên bờ. Chỉ trong tích tắc, tôi trèo qua mạn tàu, nhảy xuống chiếc thuyền gần nhất, vừa lom khom len ra đến cánh buồm phía mũi thuyền thì cũng vừa lúc thuyền lao đi.

Không ai để ý tới tôi, chỉ có tay thủy thủ chèo thuyền bảo tôi: “Là mày đấy à, Jim? Cúi đầu xuống!” Nhưng Silver đang ở trên một chiếc thuyền khác nghe thế liền quắc mắt nhìn sang và hỏi xem có phải tôi đấy không. Cũng từ giây phút đó, tôi bắt đầu thấy hối hận với việc mình làm.

Đoàn thuyền đua nhau lao vào bờ, nhưng chiếc thuyền tôi ngồi xuất phát trước, lại nhẹ hơn và có tay chèo giỏi hơn nên đi nhanh hơn hẳn, rồi chẳng mấy chốc, thuyền đã cập bến. Mũi thuyền húc vào chỗ bụi cây xòa cành lá la đà trên mặt nước, tôi nhanh tay túm vội lấy một cành, đu người nhảy lên bờ rồi chạy vụt vào rừng cây gần đó, mặc cho Silver và mấy người kia còn cách đó gần trăm mét.

“Jim, Jim!” Tôi nghe ông ta gọi với theo.

Chắc các bạn cũng đoán ra, tôi chẳng hề lưu tâm tới John. Tôi ra sức chạy, tôi nhảy lên đá, tôi thụp xuống tránh các cành cây, tôi chạy thẳng một mạch cho tới khi hai chân rã rời không sao đi nổi nữa.


[1] . Bộ phận phía sau chân vịt tàu thủy, giúp đẩy tàu đi và chuyển hướng; tránh nhầm lẫn với vô lăng.