• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đảo giấu vàng
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 44
  • Sau

Chương 15Người trên đảo

B

ên sườn đồi dốc và lởm chởm đá, tự dưng có một mảng đất sụt xuống, làm sỏi rơi rào rào như mưa và nảy cả lên cây. Theo phản xạ, tôi quay sang nhìn về hướng đó, và thấy một hình thù gì chạy vụt qua, đằng sau một cây thông. Đó là gấu, là người hay là khỉ, tôi không sao biết được. Chỉ thấy nó đen đúa và bờm xờm đầy lông lá. Và sự hiện hình kinh khiếp đó làm tôi đứng khựng lại, tay chân không sao động đậy nổi.

Vậy là tôi bị kẹt giữa hai đằng; đằng sau là lũ giết người, phía trước là yêu ma quỷ quái gì vẫn chưa rõ, đang rình rập sau những gốc cây. Ngay tức thì, tôi bắt đầu thấy thà đương đầu với mối hiểm nguy mà mình biết rõ còn hơn là phải đối mặt với những nguy hiểm chưa rõ ràng. Lão Silver chắc chắn không khủng khiếp bằng sinh vật trong rừng kia, và tôi trở gót, căng mắt nhìn ra sau vai, toan chạy về phía chúng tôi buộc thuyền.

Mới chớp mắt, hình thù kỳ dị kia lại hiện ra, và chạy một vòng thật rộng như muốn chặn đầu tôi. Tôi bấy giờ đã thấm mệt; nhưng giá khi ấy có còn sung sức như lúc mới thức dậy đi chăng nữa, tôi thấy mình cũng không địch nổi tốc độ của đối thủ ghê gớm nọ. Sinh vật đó thoăn thoắt nhảy từ gốc cây nọ sang gốc cây kia hệt như một con nai, nó chạy hai chân như người, nhưng lại chẳng giống con người lúc chạy, nó vừa chạy vừa khom người xuống. Nhưng nó là người thật, tôi không còn phải nghi ngờ gì nữa.

Bất giác, tôi nhớ tới những câu chuyện về mọi ăn thịt người mình từng nghe kể. Tôi toan hô lên kêu cứu. Nhưng quả thực, khi biết hắn là người, dẫu là mọi đi chăng nữa, tự nhiên tôi thấy vững dạ hơn một chút, và nỗi sợ Silver lại bắt đầu lớn dần. Nhưng tôi vẫn đứng yên tại chỗ, tính đường chạy trốn; và trong những tia ý tưởng thi nhau ùa tới trong đầu, có cả hình ảnh khẩu súng lục của tôi lóe lên. Ngay khi nhớ ra mình có mang theo vật phòng thân, tôi can đảm hơn hẳn. Tôi kiên cường quay mặt về phía người trên đảo kia và hiên ngang bước tới gần hắn.

Lúc bấy giờ, người rừng đương nấp đằng sau một thân cây; nhưng chắc có lẽ hắn đã quan sát tôi rất kĩ, vì ngay khi tôi vừa nhấc chân lên tiến về phía hắn, hắn cũng bước ra và tiến về phía tôi. Rồi hắn do dự, hắn lùi lại, rồi lại bước tới, cuối cùng, khiến tôi ngạc nhiên và bối rối vô cùng, hắn quỳ sụp xuống và siết chặt hai tay, giơ thẳng lên trời như muốn thỉnh cầu điều gì.

Thấy vậy, tôi khựng lại ngay lập tức.

“Anh là ai?” Tôi hỏi.

“Ben Gunn.” Anh ta đáp. Giọng anh ta khản đặc và lọc xọc như một cái ổ khóa lâu ngày gỉ sét. “Tôi là Ben Gunn, khốn khổ cái thân tôi, suốt ba năm nay, tôi chưa được nói chuyện với người Cơ Đốc nào!”

Giờ tôi mới thấy anh ta cũng là một người da trắng giống như tôi, thậm chí, mặt mũi anh ta còn khá dễ coi nữa. Có điều, phần da nào bị phơi ra ngoài của anh ta đều cháy nắng hết cả; tới môi cũng đen sì, còn đôi mắt xanh ngự trên gương mặt sạm đen kia, quả thật, ai thấy cũng phải giật mình. Trong tất cả những người hành khất tôi từng trông thấy hay tưởng tượng ra, chưa có ai rách rưới như anh ta. Anh ta lấy những mảnh buồm và vải dầu cũ rách vá víu vào với nhau làm quần áo, và bộ đồ chắp vá cổ quái của anh ta được ráp lại bằng đủ thứ vật liệu kỳ quặc, nào khuy đồng, nào que, nào khoen ủng. Ben đeo một cái thắt lưng bằng da đã cũ có gắn khóa đồng ở quanh bụng, đó là thứ duy nhất lành lặn trong bộ y phục của anh ta.

“Ba năm kia à?” Tôi kêu to. “Tàu anh bị đắm ư?”

“Không, anh bạn ạ.” Anh ta trả lời. “Bị đày cơ.”

Tôi đã từng nghe thấy cái từ ấy, và tôi biết đó là một hình phạt khủng khiếp khá phổ biến trong giới hải tặc. Kẻ phạm lỗi sẽ bị đồng bọn bỏ lại trên bờ cùng một khẩu súng và ít đạn dược nơi hoang đảo xa xôi.

“Bị đày tận ba năm nay rồi.” Anh ta nói tiếp. “Và từ hồi đó tới giờ, tôi săn dê, hái quả và mò ốc sống qua ngày. Con người bước chân tới đâu thì cũng nuôi được thân ở đó mà. Nhưng, anh bạn ạ, tôi thèm đồ ăn của người Cơ Đốc quá. Không biết cậu có mang theo ít pho mát bên mình đó không? Chắc không đâu nhỉ? Chậc, bao đêm ròng tôi chỉ mơ tới pho mát mà thôi - nhất là pho mát đã nướng rồi - để đến khi tỉnh dậy, chỉ có mình mình nằm trơ ở đây thôi.”

“Nếu tôi về lại được tàu…” Tôi đáp. “Anh sẽ tha hồ chén pho mát, chén đến căng bụng thì thôi.”

Trong lúc tôi nói, Ben cứ sờ áo tôi mãi, rồi vuốt ve đôi bàn tay tôi, ngắm nghía đôi giày tôi đi, và giữa lúc nói chuyện, anh ta tỏ ra vô cùng thích thú, hệt như một đứa trẻ khi được gặp bạn đồng niên. Nhưng khi nghe tôi nói câu ấy, anh ta lại càng mừng rỡ hơn, mắt anh ta ánh lên tia ranh mãnh.

““Nếu tôi về lại được tàu” - cậu vừa nói thế phải không?” Anh ta nhắc lại lời tôi nói. “Sao thế? Ai cấm cậu à?”

“Không phải anh, tất nhiên rồi.” Tôi đáp.

“Đúng thế!” Anh ta kêu lên. “Thế bây giờ, gọi cậu là gì đây nhỉ?”

“Jim.” Tôi trả lời.

“Jim, Jim.” Anh ta nói, niềm vui như hiện rõ trên nét mặt. “Chà, này Jim ạ, đời tôi sóng gió lắm, cậu mà nghe chắc cũng phát xấu hổ thay tôi. Ví dụ nhé, nhìn tôi thế này chắc cậu không nghĩ tôi có một bà mẹ ngoan đạo đâu nhỉ?” Anh ta hỏi.

“Sao kia? Quả thật là tôi không nghĩ thế.” Tôi đáp.

“À, vâng.” Anh ta tiếp tục. “Thế mà tôi có đấy - một bà mẹ cực kỳ ngoan đạo nữa là đằng khác. Tôi cũng từng là con nhà tử tế, rất lễ phép và sùng đạo, tôi có thể đọc vanh vách các bài giáo lý, đọc nhanh như chớp, cậu mà nghe thì không phân biệt được từ nào với từ nào đâu. Thế mà giờ tôi lại ở đây đấy, Jim ạ. Tất cả đều bắt đầu từ việc tôi chơi xóc đĩa[1] mà lại dùng bia mộ làm đĩa đấy cậu ạ. Bắt đầu là thế, rồi từ ấy lại đi xa hơn; mẹ tôi đã bảo tôi rồi, đã nói trước toàn bộ hậu quả cho tôi thấy, ôi, mẹ hiền ngoan đạo của tôi! Là Thượng Đế đưa tôi đến chỗ này. Trên hoang đảo đơn côi này, tôi ngẫm lại tất tần tật những chuyện đã qua, và tôi lại quay về làm người mộ đạo. Cậu sẽ không bao giờ bắt gặp tôi say sưa chè chén, uống đẫy rượu rum nữa đâu, nhưng nếu có, chỉ một chén nhỏ lấy may thôi, tất nhiên! Tôi quyết tâm cải tà quy chính rồi, thật sự quyết tâm đấy! Mà này, Jim ạ!” Vừa nói, Ben vừa lấm lét nhìn xung quanh rồi hạ giọng thì thầm. “Tôi giàu!”

Nghe Ben nói thế, tôi tin chắc anh chàng tội nghiệp sống một mình quá lâu nên đã phát điên. Chắc suy nghĩ đó hiện rõ lên trên mặt tôi nên anh ta sốt sắng nhắc đi nhắc lại: “Tôi giàu! Tôi giàu! Thật đấy. Để tôi nói cậu nghe: Tôi sẽ giúp cậu trở thành một quý ông, Jim ạ. Cậu phải tạ ơn Trời vì là người đầu tiên tìm thấy tôi đấy!” Rồi tự nhiên, anh ta sầm nét mặt, siết tay tôi thật mạnh và đưa ngón tay lên trỏ vào mặt tôi như dọa dẫm.

“Nào, Jim, giờ cậu phải nói thật với tôi: Tàu kia không phải tàu của Flint chứ?” Anh ta hỏi.

Tôi nghe vậy, cả mừng. Tôi đoan chắc mình vừa tìm được một đồng minh, và lập tức trả lời anh ta.

“Không phải tàu của Flint đâu, và Flint chết rồi; nhưng anh đã hỏi, tôi cũng nói thật với anh: Có vài kẻ là thủ hạ của Flint trên tàu - thật quá đen đủi cho chúng tôi!”

“Không có kẻ nào nào… cụt chân đấy chứ?” Anh ta thở hắt ra.

“Silver à?” Tôi hỏi.

“À, Silver!” Anh ta nói. “Đúng tên lão đấy.”

“Lão ta là bếp trưởng, và cũng là đầu sỏ của bọn chúng.”

Anh ta bấy giờ vẫn đang nắm cổ tay tôi, khi nghe thấy thế, lại siết tay tôi một cái thật mạnh.

“Nếu Long John phái cậu tới đây…” Anh ta nói. “Thì thôi đành, đời tôi kể như xong! Nhưng cậu biết mình đang ở đâu không?”

Tôi im lặng suy nghĩ một lúc, rồi quyết định thuật lại cho anh ta toàn bộ câu chuyện về chuyến vượt biển lẫn tình hình nguy cấp của chúng tôi lúc này. Anh ta chăm chú lắng nghe, rồi khi tôi kể xong, anh ta vỗ lên đầu tôi một cái.

“Cậu là một thiếu niên rất tốt, Jim ạ!” Anh ta nói. “Và cậu đang lâm vào tình thế hết sức ngặt nghèo, phải không nào? Chà, cậu chỉ cần đặt niềm tin vào Ben Gunn này thôi - Ben Gunn là người sẽ gỡ rối cho cậu. Mà này, cậu có chắc ngài điền chủ sẽ đối xử phóng khoáng với người giúp ông lúc cam go như cậu nói không?”

Tôi nói với anh ta: Ngài điền chủ là người phóng khoáng nhất trên đời.

“Phải, nhưng anh phải hiểu ý tôi.” Ben Gunn đáp. “Tôi không định nhận một chân gác cổng, một chân người hầu hay những việc tương tự; mục đích của tôi không phải thế, Jim ạ. Ý tôi là, liệu ông ấy có đồng ý cho tôi lấy, xem nào, cứ cho là một nghìn đồng vàng đi, phần của tôi trong số của cải sắp đào được kia không?”

“Chắc chắn ngài ấy sẽ đồng ý thôi.” Tôi nói. “Vốn dĩ, ai cũng được chia phần cả mà.”

“Và cho quá giang về nhà nữa chứ?” Anh ta hỏi thêm, ánh mắt rất sắc.

“Sao kia?” Tôi kêu lên. “Ngài điền chủ là một quý ông đích thực. Vả lại, nếu chúng tôi trừ khử được bọn kia, chúng tôi chắc chắn phải cần anh giúp để cho tàu quay trở về nhà.”

“À!” Anh ta nói. “Đúng như vậy thật.” Và anh ta tỏ ra vô cùng nhẹ nhõm.

“Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh biết chuyện này.” Anh ta nói tiếp. “Những chuyện mà tôi kể được, tôi không dám nói gì thêm. Ngày xưa, tôi từng đi tàu với Flint, khi lão ta chôn kho báu; lão ta và sáu thủ hạ - sáu thủy thủ lực lưỡng, khỏe mạnh. Bọn họ ở trên bờ suốt gần một tuần lễ, còn chúng tôi ở lại dưới tàu Walrus. Rồi một ngày nọ, chúng tôi nhận được tín hiệu và thấy Flint một mình trên con thuyền nhỏ, đầu quấn khăn xanh, chèo về tàu. Lúc bấy giờ, mặt trời vừa ló dạng, Flint về tới gần mạn tàu, mặt lão trắng bệch đầy vẻ chết chóc. Thế nhưng, lão ta về lại được tàu, còn sáu người kia đều đã chết - chết sạch và bị vùi xuống đất. Lão ta đã làm cách nào, không một ai trong số chúng tôi biết cả. Đã xảy ra đụng độ, giết chóc và cái chết bất ngờ, chí ít là thế - một mình lão đấu với sáu người. Khi đó, Billy Bones là đại phó; còn Long John, ông ta là đội trưởng; hai người đó hỏi lão ta kho báu ở đâu. “À!” Lão đáp. “Các anh thích thì cứ việc lên bờ rồi ở luôn trên đấy.” Lão nói. “Nhưng còn con tàu này, nó phải cưỡi sóng đạp gió để kiếm thêm nhiều nữa, có hà bá chứng giám!” Lão đã bảo như thế đấy!

Chà, ba năm trước, tôi đi biển trên một tàu khác, và chúng tôi trông thấy đảo này. “Các anh em!” Tôi nói. “Kho báu của Flint chôn trên đảo này đấy; ta hãy cập vào bờ và tìm kho báu.” Thuyền trưởng không ưng bụng, nhưng mấy gã ăn cùng bàn với tôi đều bằng lòng và cùng lên đảo với tôi. Chúng tôi tìm kiếm ròng rã suốt mười hai ngày, cứ mỗi ngày qua, họ lại thêm nặng lời với tôi, rồi đến một ngày đẹp trời nọ, tất cả bọn họ đều quay trở lại tàu. “Còn mày, Benjamin Gunn…” Họ nói. “Đây là súng hỏa mai, xẻng và cuốc chim. Mày cứ việc ở đây mà tự đi tìm kho báu của lão Flint.” Họ nói như thế đấy!

Jim ạ, tôi đã ở trên đảo này ba năm rồi, và kể từ ngày hôm đó tới giờ, tôi chưa được ăn một miếng thức ăn nào của người Cơ Đốc cả. Nhưng giờ, cậu nghe này, cậu nhìn tôi mà xem. Trông tôi có giống một thủy thủ không? Thể nào cậu cũng bảo “không”. Đến tôi cũng sẽ trả lời như thế cơ mà.”

Vừa nói, anh ta vừa nháy mắt và véo mạnh tôi một cái.

“Cậu cứ thuật lại mấy lời này với ngài điền chủ của cậu, Jim ạ.” Anh ta nói tiếp. “Cậu cứ bảo như thế này: Suốt ba năm qua, anh ta ở trên đảo này, dãi dầu mưa nắng từ sáng tới tối; và đôi khi anh ta nghĩ đến chuyện cầu nguyện (ấy là cậu nói thế), cũng có đôi khi nghĩ tới mẹ già, như khi bà còn sống (cậu nói vậy nhé); nhưng Ben Gunn chủ yếu dành thời gian (cậu cứ nói y như thế) - anh ta chủ yếu dành thời gian để làm việc khác. Xong rồi cậu cũng véo ông ấy một cái như thế này, giống như tôi làm ấy.”

Anh ta lại véo tôi một cái nữa ra chiều bí hiểm lắm.

“Rồi.” Anh ta lại nói. “Rồi khi kể xong, cậu lại nói câu này: Gunn là người tốt (đây là lời của cậu nhé), và anh ta đặt niềm tin - đặt trọn vẹn niềm tin, thật thế - vào một quý ông thực thụ chứ không phải vào những “quý ông giang hồ” kia. Anh ta cũng từng là một kẻ giang hồ nên anh ta quá hiểu bọn chúng.”

“Chà!” Tôi nói. “Anh nói gì, tôi không hiểu lấy một từ. Nhưng thôi việc ấy không quan trọng; cái chính là: Làm sao tôi về lại được tàu?”

“À!” Anh ta nói. “Khó nhất là ở chỗ đó, chắc chắn rồi. Chà, thuyền của tôi kia - do chính tay tôi đóng lấy đấy. Tôi giấu bên dưới hốc đá trắng đằng kia. Trong trường hợp xấu nhất, chúng ta có thể chèo đi vào ban đêm. Ơ kìa!” Anh ta bất giác kêu lên. “Cái gì thế?”

Ngay sau đó, cả hòn đảo ầm ầm rung chuyển, tiếng đại bác rền vang từ phía con tàu, vọng khắp mọi ngóc ngách trên đảo, dẫu còn tới một, hai tiếng nữa mặt trời mới lặn.

“Sắp đánh nhau rồi!” Tôi kêu to. “Mau theo tôi.”

Tôi quên cả sợ, vội vàng co giò chạy về phía tàu thả neo, còn gã trai bị đày - mình trùm áo da dê - chạy thoăn thoắt sát bên tôi.

“Bên trái, bên trái!” Anh ta nói. “Cứ chạy về phía bên trái đi Jim ơi! Chạy bên dưới bóng cây ấy! Đây là chỗ lần đầu tiên tôi hạ được một con dê. Giờ chúng không dám bén mảng xuống dưới này nữa, chúng trốn hết cả trên đỉnh núi kia vì sợ Benjamin Gunn này. A! Còn kia là bãi ma tha...” - Bãi tha ma, chắc ý anh ta là vậy. “Cậu có nhìn thấy mấy nấm mộ không? Thỉnh thoảng, tôi tới đó để cầu nguyện, cứ khi nào tôi nghĩ ngày hôm ấy là Chủ nhật thì tôi lại tới. Nó không giống nhà nguyện lắm, nhưng nom còn tôn nghiêm hơn thế; đấy cậu xem, Ben Gunn này chả có gì, chẳng có cha cố, cũng chẳng có Kinh thánh, tới một lá cờ cũng chẳng có nốt, cậu nhìn mà xem.”

Anh ta cứ huyên thuyên liên tục, còn tôi vẫn cắm đầu chạy mải miết, chẳng đợi mà cũng chẳng trả lời anh ta.

Sau loạt đại bác nổ một lúc lâu là một tràng liên thanh của những loại vũ khí cá nhân.

Lại một lúc yên ắng nữa, và rồi, trước mắt tôi, còn cách chừng nửa cây số, tôi thấy lá cờ Anh tung bay phấp phới trên một khoảnh rừng.


[1] . Một trò cờ bạc, đoán đồng tiền sấp hay ngửa để ăn tiền.