BƯỚC QUA CỬA SÂN BAY, TÔI ĐẾN VỚI Trung Quốc.
Tôi đứng hình. Tình thế hỗn loạn trước mắt oanh tạc mọi giác quan của tôi. Cuộc chiến không khoan nhượng của cả ngàn động cơ gầm rú trong bãi đậu xe phía trước và cả ngàn tiếng người la hét vào điện thoại.
Biển báo được viết bằng cả chữ Hán và thứ chữ gì đó trông như tiếng Ả Rập. Tôi không đọc được bất kì thứ chữ nào, nên tôi quyết định gia nhập đoàn người chờ taxi. Tôi đoán thế. Hầu hết họ đều thấp hơn tôi chừng 30 phân, nhưng có vẻ như chẳng mấy ai quan tâm. Đứng giữa họ, tôi như người vô hình.
Tôi đang ở Urumqi, thủ phủ rộng lớn của khu tự trị Tân Cương , tây bắc Trung Quốc. Urumqi là thành phố xa biển nhất thế giới. Đi máy bay từ Bắc Kinh, tôi thấy địa hình chuyển từ những dãy núi lởm chởm phủ đầy tuyết đến vùng sa mạc hoang vu trải rộng mênh mông. Đâu đó dưới kia, ban tổ chức giải đua đã lên lộ trình đường chạy dài 155 dặm vượt qua cả những đỉnh núi băng giá, gió thổi liên miên. Vùng đất cằn cỗi, hoang vu và thiếu vắng sự sống đó chính là sa mạc Gobi. Tôi sẽ chạy xuyên qua sa mạc. Bốn ngày đầu, mỗi ngày hoàn thành suýt soát một đường chạy cự li chuẩn. Tiếp đó là quãng đường dài gần gấp đôi cự li chuẩn trong ngày thứ năm. Mùa giải sẽ khép lại với màn chạy nước rút 6 dặm chót trong một giờ đồng hồ.
Những giải như thế được gọi là “Giải chạy siêu bền đa chặng”. Bạn khó có thể tìm được thử thách nào kiểm nghiệm cả độ bền tinh thần và thể chất cam go hơn thử thách này. Những người như tôi phải bỏ ra hàng nghìn đôla mới giành được đặc quyền “chuốc khổ vào thân”, rồi phải giảm thêm 10% cân nặng , nhưng sự hi sinh này hoàn toàn đáng giá. Chúng tôi có dịp chạy qua những vùng hẻo lánh nhưng đẹp nhất trên hành tinh. Chúng tôi được đội ngũ nhân viên hỗ trợ, tận tâm bảo vệ và đội ngũ chuyên viên y tế chăm sóc tận tình. Đôi khi, những thử thách có thể khắc nghiệt đến cùng cực, nhưng nhờ thế mà cuộc đời ai đó có hẳn một bước ngoặt lớn. Chưa kể, cán đích chính là một trong những trải nghiệm tuyệt nhất của đời người.
Mọi chuyện đôi khi không được suôn sẻ cho lắm. Ví như lần cuối cùng tôi gắng chạy quãng đường dài bằng sáu lần cự li chuẩn trong vòng một tuần. Kết cục là tôi phải từ bỏ giữa chừng , trong đau đớn. Ấy là lúc tôi sụp đổ, tưởng như chẳng bao giờ thi đấu được nữa. Nhưng tôi đã hồi phục, đủ để “nổ một phát súng” cuối cùng. Nếu thể hiện tốt trong Giải chạy Gobi lần này, có lẽ tôi sẽ đăng ký mấy mùa giải nữa. Dẫu sao, sau ba năm tham gia các giải chạy một cách nghiêm túc, tôi nhận ra cảm giác được đứng trên bục vinh quang mới tuyệt vời làm sao. Nhưng trong tôi luôn canh cánh nỗi lo rằng mình không bao giờ thi đấu được nữa.
Chẳng may đời tôi chấm hết giống như tuyển thủ cùng giải vài năm trước thì sao.
Tôi đã tra trên mạng rồi. Ngồi xe từ sân bay đến khách sạn mất chừng hai mươi, ba mươi phút. Nhưng càng gần giờ cao điểm, tài xế càng nôn nóng hơn. Anh ta bắt đầu cáu kỉnh khi biết tôi là một du khách nói tiếng Anh, thét giá gấp ba lần số tiền tôi dự tính. Từ đó, mọi chuyện bắt đầu tệ hơn.
Xe đỗ xịch trước một tòa nhà xây bằng gạch đỏ, tài xế xua tay và cố đuổi tôi ra khỏi xe. Tôi nhìn tòa nhà qua cửa xe, rồi nhìn lại tấm ảnh mờ mà tôi cho anh ta xem trước khi xe chuyển bánh. Nheo mắt lại nhìn thì đúng là hơi giống thật. Nhưng rõ ràng là anh ta không đưa tôi đến đúng chỗ.
“Tôi nghĩ anh cần đeo kính đấy, anh bạn!” Tôi mở lời, gắng nói thật nhẹ nhàng để xoa dịu anh ta. Nhưng chẳng ăn thua.
Anh ta miễn cưỡng nhấc điện thoại lên và gắt gỏng với ai đó ở đầu dây bên kia. Hai mươi phút sau, chúng tôi mới đến đúng chỗ. Anh ta cáu tiết, dứ nắm đấm về phía tôi rồi phóng xe lao vụt đi.
Chuyện ấy chẳng mảy may khiến tôi bực mình. Không khác chạy siêu bền là mấy. Nó vừa hành hạ cơ thể anh, vừa tra tấn đầu óc anh, nhờ thế anh sẽ nhanh học được cách tĩnh tâm trước những phiền toái không đáng có như bật móng chân hay chảy máu núm vú. Do vậy, không có lý do gì mà tôi phải nhọc thân vì một gã tài xế taxi nổi khùng.
Ngày hôm sau là một câu chuyện khác.
Sân khấu chính của giải đua được đặt tại một thị trấn lớn có tên là Hami. Tôi phải ngồi tàu cao tốc vài trăm dặm mới đến được đó. Ngay từ giây phút tôi bước vào nhà ga Urumqi, tôi mới nhận ra cuộc hành trình này đang thử thách lòng kiên nhẫn của tôi.
Đời tôi chưa từng thấy sân ga nào có lực lượng an ninh hùng hậu như ở đây. Xe quân sự ở khắp mọi nơi. Người đi bộ và các phương tiện phải đi trong lối đặt rào chắn tạm thời có lính gác vũ trang. Người ta bảo hai giờ nữa tôi được lên tàu, nhưng nhìn dòng người dài dằng dặc đằng trước, tôi băn khoăn: Có chắc là chỉ cần đợi hai giờ thôi không ? Nếu hỏi chuyến taxi ngày hôm trước đã dạy cho tôi điều gì thì chính là : Nếu lỡ chuyến tàu này, tôi không chắc mình có thể đánh bại rào cản ngôn ngữ và đặt thêm một tấm vé khác hay không đây. Chẳng may không kịp tham gia cuộc gặp gỡ các tuyển thủ hôm nay, thì ma nào biết người ta có cho tôi xuất phát hay không ?
Hoảng sợ cũng chẳng ích gì nên tôi thở đều, tự nhắc mình phải bình tĩnh và chậm rãi đi qua cửa an ninh đầu tiên. An toàn đi qua cửa an ninh, đến quầy lấy vé, tôi phát hiện ra mình đứng sai hàng. Đến lúc tôi chuyển sang đúng hàng thì thời gian không còn nhiều. Nếu đây là một cuộc đua thì, tôi nghĩ, mình sẽ về đích sau cùng mất. Tôi chưa nếm cảm giác về đích sau cùng bao giờ.
Lấy được vé, tôi chỉ còn bốn mươi phút nữa để qua một cửa an ninh khác trước khi tàu chạy. Một cảnh sát soi từng chi tiết trong hộ chiếu của tôi xem có hợp pháp không rồi đẩy tôi vào trước một hàng năm mươi người đang chờ làm thủ tục lên tàu. Tôi đứng đó, miệng há hốc, thở hổn hển rồi cuống quýt ngó đủ thứ biển báo, bảng hiển thị không biết tên. Quỷ tha ma bắt! Sân ga của tôi ở chỗ quái nào chứ?
May thay, tôi không hoàn toàn vô hình. Một anh bạn người Trung Quốc từng học tại Anh vỗ vai tôi.
“Anh cần giúp gì không ?” anh ta hỏi. Tôi chỉ thiếu nước ôm chầm anh ta nữa thôi.
Tôi vừa đặt mông xuống ghế chờ khởi hành thì mọi người xung quanh quay sang nhìn theo đoàn tàu mới sượt qua chúng tôi. Quang cảnh một sân bay những năm 50 hiện ra: Các tài công khoác trên mình bộ đồng phục trắng không tì vết, đeo găng tay trắng ; không khí nghiêm cẩn; mấy cô tiếp viên ăn vận chỉn chu, trong tư thế sẵn sàng.
Tôi theo lên tàu, thả mình vào ghế, kiệt sức. Gần ba mươi sáu giờ kể từ khi rời khỏi quê nhà Edinburgh, tôi cố gắng xua tan hết tất thảy những căng thẳng chất chứa trong cả tâm trí lẫn thể xác. Ngồi trên tàu, tôi hướng ra cửa sổ xem có thứ gì hay ho không , nhưng qua nhiều giờ ròng rã, quanh đi quẩn lại vẫn chỉ là một thứ phong cảnh nhạt nhẽo, chẳng phải đất trồng trọt trong trang trại cũng chẳng hoang vu như sa mạc. Chỉ có đất, đất và đất, trải dài hàng vạn dặm.
Mệt lử và căng thẳng. Đây không phải trạng thái mà tôi muốn khi mùa giải quan trọng nhất trong sự nghiệp chạy đường trường ngắn ngủi của mình đang đến gần. Tôi đã có dịp tham gia một vài giải chạy danh tiếng hơn thế, ví như Giải Marathon des Sables tại Ma rốc được cả thế giới biết đến là giải chạy bộ khắc nghiệt nhất hành tinh. Hai lần đứng trong hàng ngũ 1.300 vận động viên chạy qua sa mạc Sahara dưới nền nhiệt ban ngày chạm ngưỡng 52oC và ban đêm, nhiệt độ giảm xuống còn hơn 4oC. Chưa kể, tôi còn về đích với thành tích đáng nể - đứng thứ ba mươi hai toàn đoàn - trong lần thứ hai tham gia. Nhưng mười lăm tháng trôi qua, nhiều thứ đã không còn như trước.
Tôi bắt đầu nhận thấy những thay đổi trong cuộc đua dài 155 dặm qua sa mạc Kalahari, Nam Phi. Tôi đã quá tham vọng khi ép mình hoàn thành mục tiêu về thứ hai chung cuộc và “đứng trên bục vinh quang lần đầu tiên” trong một cuộc đua đa chặng. Ấy vậy mà do uống không đủ nước, nước tiểu của tôi có màu như màu Coca. Trở về nhà, bác sĩ riêng nói rằng thận của tôi bị teo lại do thiếu chất lỏng , rồi chạy bộ khiến thận bị dập và đi tiểu ra máu.
Một vài tháng sau, khi tôi tham gia một cuộc đua khác, triệu chứng đánh trống ngực bắt đầu xuất hiện. Tim tôi đập dồn dập, cảm giác buồn nôn và choáng váng ập đến.
Tất cả triệu chứng này đồng loạt tái phát lúc tôi bắt đầu chạy Marathon des Sables. Dĩ nhiên, tôi làm ngơ và gắng gượng trên suốt đường chạy để đạt mục tiêu lọt top 50. Hậu quả là, về đến nhà, cơ gân khoeo chân trái đau điếng mỗi khi tôi cố đi bộ, chứ đừng nói gì đến chạy vài bước.
Mấy tháng đầu sau mùa giải, tôi nghỉ hẳn. Mấy tháng tiếp, tôi đi khắp các phòng tư vấn vật lý trị liệu, nghe hết người này đến người kia bảo tôi phải thử những phương pháp mới kết hợp các bài tập thể lực với bài tập bổ trợ mà họ gợi ý. Tôi thử hết. Nhưng vô vọng.
Sau đúng một năm, tôi mới tìm được một chuyên viên vật lý trị liệu và một huấn luyện viên. Họ đều là chuyên gia về chạy bộ và hiểu rõ căn ng uyên của bệnh phần nhiều là do tôi chạy không đúng. Tôi cao trên một mét tám, sải chân dài và vững chãi giúp bước chạy trở nên dễ dàng và thuần thục. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà tôi không điều động hết tất cả các cơ cần thiết, khiến cẳng chân bị co thắt đột ngột mỗi khi chạy.
Cuộc đua cam go ở Trung Quốc lần này là cơ hội để tôi thử nghiệm cách chạy mới, bước ngắn hơn nhưng nhanh hơn. Đúng ra thì, tôi cũng nóng lòng muốn thử lắm. Ở nhà, tôi có thể chạy hàng giờ liền mà không đau chân và tuân thủ chế độ ăn trước cuộc đua nghiêm ngặt hơn trước đây. Từ ba tháng trước, tôi bỏ tất cả đồ uống có cồn và đồ ăn vặt, chỉ ăn thịt gà và rau xanh. Tôi thậm chí còn cai cả cà phê, những mong sẽ không bị đánh trống ngực nữa.
Nếu những nỗ lực từ trước đến nay phát huy tác dụng , tôi có thể thi triển đúng năng lực của mình trong cuộc đua tại Trung Quốc, sau đó thử sức trong giải đua danh tiếng băng qua hoang mạc Atacama, Chilê, được tổ chức vào cuối năm nay. Nếu giành chiến thắng , tôi sẽ trở lại giải Marathon des Sables năm tới với tâm thế tốt nhất và làm nên tên tuổi.
Tàu tiến vào Hami. Là hành khách đầu tiên xuống tàu nên tôi dẫn đầu dòng người ào về phía lối ra. Có thế chứ, tôi nghĩ.
Quả nhiên, tôi không nên vui mừng quá sớm. Lính gác chốt an ninh chặn tôi lại và hỏi:
“Anh đến đây làm gì?”
Trông ra ngoài cửa, tôi thấy một hàng taxi dài dằng dặc đỗ bên vỉa hè, chờ những hành khách đi cùng chuyến tàu với tôi vẫy xe. Tôi gắng giải thích với anh ta về giải đua, bày tỏ nguyện vọng muốn đi bắt một chiếc taxi, nhưng tôi biết mà, vô dụng thôi. Anh ta nhíu mày, hết nhìn tôi lại nhìn hộ chiếu của tôi, rồi ra hiệu cho tôi đi theo anh ta vào một xe moóc to gấp đôi một văn phòng.
Tôi mất nửa giờ để giải thích công dụng của từng bịch gel bổ sung năng lượng và đồ khô. Tôi dám thề là anh ta chả tin đâu. Tôi nghĩ anh ta cho tôi đi phần vì anh ta chán ngán lắm rồi.
Lúc tôi đi ra, vỉa hè vắng tanh, người và taxi đều đi hết rồi.
Hay thật.
Tôi đành đứng chờ một mình. Tôi đã quá mệt mỏi và chỉ muốn cuộc hành trình ngớ ngẩn này mau mau kết thúc.
Ba mươi phút sau, một chiếc taxi đến. Trước khi rời khỏi Urumqi, tôi đã cẩn thận in địa chỉ khách sạn bằng chữ Hán ra giấy. Tôi đưa tờ giấy đó cho tài xế và mừng vì dường như cô ấy biết khách sạn đó. Tôi trèo lên ghế sau, co giò ngồi trong một cái lò sắt và tranh thủ chợp mắt khi xe lăn bánh.
Mới đi được mấy chục mét, chiếc xe đột nhiên dừng lại. Tài xế đang vẫy một hành khách khác. Nhập gia tùy tục, Dion.
Tôi không thấy có gì đáng phàn nàn ở đây cả. Ít nhất là không cho đến khi cô ấy quay sang chỗ tôi, chỉ tay ra cửa, ý bảo người kia hiển nhiên là một khách hàng tiềm năng hơn tôi. Vậy nên, tôi không còn được chào đón trên chiếc xe này nữa.
Tôi đi bộ quay trở lại, rồi mất thêm hai mươi phút để được đi qua các chốt an ninh khác, rồi lẳng lặng xếp hàng lần nữa, một mình, ở trạm bắt taxi vắng vẻ.
Cuối cùng , một chiếc taxi khác cũng xuất hiện. Tài xế rất vui tính, lịch sự và biết chính xác nơi cần đến. Sự thực chứng minh anh ta tự tin thái quá. Mười phút sau, anh ta dừng xe trước một toà nhà quy mô lớn, màu xám. Còn tôi thì chẳng buồn kiểm tra xem có đúng khách sạn đó không. Tôi chỉ trả tiền, xách ba lô ra khỏi xe và nghe tiếng xe đi xa dần.
Tận lúc bước vào sảnh, tôi mới nhận ra mình đến nhầm chỗ. Đây không phải khách sạn mà là một toà nhà văn phòng. Một toà nhà văn phòng mà không ai biết nói tiếng Anh.
Bốn mươi phút, tôi và các nhân viên văn phòng vẫn nỗ lực thông ngôn với nhau. Các cuộc điện thoại đến người- không-quen-biết cũng không mấy tác dụng. Chỉ khi trông thấy một chiếc taxi từ từ lướt qua trước tòa nhà, tôi vội chộp lấy ba lô, chạy ra, và nài nỉ người lái xe đưa tôi đến nơi tôi cần đến.
Rốt cục, ba mươi phút sau, đứng sững nhìn chiếc giường trống không trong khách sạn bình dân mà ban tổ chức đã đặt trước, tôi thề thành tiếng :
“Tôi sẽ không bao giờ quay lại Trung Quốc nữa!”
Tôi phiền lòng không phải vì nỗ lực giao tiếp không thành hay vì những cơn đau cơ và uể oải. Cả ngày nay, tôi phải cố gắng lắm mới ngăn không cho mình luống cuống , và giờ tôi chỉ cảm thấy bực dọc khi kết quả không như mong đợi. Điều này không hợp lý tí nào. Những nỗ lực của tôi hoàn toàn vô nghĩa. Tôi đã tự thuyết phục rằng mình vẫn còn đủ thời gian đi từ Bắc Kinh đến điểm xuất phát, mà nếu như có lỡ tàu đi chăng nữa thì tôi vẫn có thể tìm cách khác. Tôi cũng hiểu rõ, tất cả những cơn đau góp nhặt trong hai ngày qua sẽ sớm tiêu tan một khi tôi bắt đầu chạy.
Ấy thế mà, khi có mặt tại khách sạn gần địa điểm tổ chức giải đua, tôi còn thấy lo lắng hơn bất cứ giải đua nào tôi từng tham gia trước đây. Không phải những nỗi lo về chuyến đi, hay sức khỏe trước mắt, mà là một cái gì đó sâu xa hơn thế.
Tôi lo đây có thể là cuộc đua cuối cùng trong đời tôi. Tôi sợ mình sẽ không giành chiến thắng trong một cuộc đua mà chỉ có chiến thắng là động lực thúc đẩy tôi tham gia thi đấu.
Thứ Ba, ngày 3 tháng 1 năm 1984. Ngày đầu tiên sau sinh nhật chín tuổi chính là lúc tôi bắt đầu hiểu cuộc sống thay đổi nhanh đến chừng nào. Một ngày tuyệt vời, ngập tràn ánh nắng mặt trời mùa hạ tuyệt đẹp ở Australia. Buổi sáng hôm ấy, khi tôi cưỡi chiếc xe đạp qua những chướng ngại vật tự sắp, bố mẹ tôi đang đọc báo và cô em gái ba tuổi thì đang chơi trong sân gần phòng của bà ở dưới tầng , đằng cuối ngôi nhà. Trình diễn xong cú nhào lộn quá ư là hoàn hảo trên giàn nhún, sau bữa trưa, bố và tôi cầm gậy cricket và mấy quả bóng cũ ra ngoài.
Bệnh nhiễm trùng ngực của bố mới hồi phục. Nhiều năm rồi ông mới cùng tôi chơi thể thao ngoài trời. Bố dạy tôi cầm gậy đúng cách để bóng bay thật mạnh, thật cao, vụt qua bãi cỏ trụi lủi và bay xa ra khỏi đất nhà chúng tôi.
Về nhà lúc chiều tối, mùi thức ăn mẹ nấu lan tỏa khắp nhà. Mẹ đã hấp bánh pudding sô-cô-la mấy giờ liền và làm sốt thịt bò bằm siêu ngậy đến nỗi tôi chỉ muốn chúc đầu vào nồi, hít hà mùi nước sốt thơm nức đến tận khi hơi nóng hừng hực phả ra mới thôi.
Một ngày tuyệt vời biết mấy.
Như mọi đứa trẻ chín tuổi khác, đến giờ đi ngủ, tôi liền khăng khăng là con không mệt. Nhưng chẳng bao lâu sau, tôi đã nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, mơ mơ màng màng thấy mẹ ra khỏi nhà đến lớp học Aerobic mỗi tối Thứ Ba, còn bố vặn nhỏ âm lượng , xem một trận cricket trên tivi.
“Dion!”
Tôi không muốn dậy đâu.
Trời vẫn còn tối mà tâm trí tôi thì đang mắc kẹt trong thế giới của những giấc mơ lý thú.
“Dion!” Tôi lại nghe bố gọi. Cả căn nhà hết sức yên ắng , không có tiếng tivi, cũng chẳng có tiếng của mẹ.
Tôi không hiểu sao bố gọi tôi như thế nên tôi cứ ngủ tiếp. Tôi không biết bố đã liên tục gọi tên tôi bao lâu, chỉ biết mình phải thức dậy, đi xem bố muốn gì.
Bố đang đắp chăn, nằm trên giường. Khi tôi bước vào, ông không nhìn tôi, mà tôi cũng không muốn đi hẳn vào phòng.
Hơi thở của bố có gì đó không ổn, như thể ông cố hết sức mới hít được một chút ít không khí vào phổi. Ông bị ốm thật rồi.
“Dion, đi tìm bà nội con.”
Tôi vội chạy xuống tầng , gõ cửa phòng bà.
“Bà ơi”, tôi gọi. “Bố cháu cần bà. Có chuyện không ổn bà ạ.” Bà tôi lao ra ngay, tôi nối gót bà lên tầng. Tôi nhớ lúc đó mình đã nghĩ bà từng là y tá mà, bố sẽ không sao đâu. Mỗi khi tôi, hoặc em gái Christie bị thương , bà vừa bôi thuốc vừa kể chuyện thời bà còn làm y tá trưởng ở một bệnh viện phục hồi chức năng thời chiến để chọc chúng tôi cười. Bà là một người phụ nữ cứng cỏi, một chiến binh mà tôi tin là mang trong mình sức mạnh chữa lành mọi bệnh tật và đau đớn.
Vừa nhìn thấy bố, bà liền đi gọi một chiếc xe cứu thương. Còn tôi ở lại với ông. Ngay sau khi bà trở lại, bà bảo tôi ra ngoài.
Christie vẫn đang yên giấc ở phòng sát vách. Tôi vừa đứng trông em vừa nghe tiếng bố thở ngày một khó nhọc và giọng nói mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ của bà. “Garry,” Bà thốt lên, to hơn bình thường. “Xe cứu thương đang đến rồi. Con chỉ bị lên cơn hen thôi. Bình tĩnh, Garry. Ở lại với mẹ.”
Tiếng ồn đã đánh thức Christie. Nó bắt đầu khóc toáng lên. “Bố bị ốm thôi, Christie,” tôi dỗ dành, cố gắng nói át đi tiếng bà. “Nhưng xe cứu thương sắp đến rồi.”
Tôi chạy qua hành lang để mở cửa ngay khi nghe thấy tiếng xe cứu thương đỗ bên ngoài. Các nhân viên y tế mang theo cáng và máy thở lên trên tầng. Tôi chỉ biết lặng nhìn. Vài phút sau, mẹ chạy vội vào nhà. Tôi nghe tiếng mẹ sụt sùi bên giường , vẫn chưa hiểu thế nghĩa là sao. Một lát sau, khi họ đẩy cáng ra, tôi không dám nhìn bố lấy một lần. Ông vẫn còn khó thở, đầu ông run lên bần bật. Tôi có thể nghe thấy tiếng bánh xe cáng cứu thương rít lên. Tôi đi theo mọi người ra ngoài, nơi cả đèn đường , đèn pha và đèn báo động nhấp nháy chiếu rọi mọi ngóc ngách như thể đêm tối đã qua. Khi các nhân viên y tế nâng cáng vào xe cứu thương , bố nói bố yêu mẹ. Tôi đứng bên cạnh bà, bàn chân trần giẫm trên cỏ lạnh. Mẹ thủ thỉ: “Sẽ ổn cả thôi.” Tôi không biết mẹ đang nói với ai.
Bà, Christie và tôi ở lại, còn mẹ đi theo xe cứu thương. Tôi không biết chúng tôi chờ đợi bao lâu, hay làm gì. Tôi chỉ nhớ, chừng nửa đêm, cửa nhà cuối cùng cũng mở. Mẹ đi vào cùng một bác sĩ. Hai người họ lặng thinh. Tới lúc ấy, bà và tôi đều hiểu. Trong chốc lát, bà, mẹ và tôi oà khóc. Không lâu sau thì điện thoại reo. Bà thấp giọng trả lời. Cuộc điện thoại chỉ kéo dài vài phút. Chuông cửa reo, những người hàng xóm đầu tiên đến nhà và ôm mẹ thật chặt. Còn tôi lủi về phòng mình.
Ngày đưa tang , tôi thấy người ta đẩy quan tài bố vào xe tang. Giãy khỏi cánh tay mẹ đang ôm vai mình, tôi chạy ra chặn họ lại. Tôi cố hết sức ôm vòng quanh chiếc hộp gỗ, nhưng không được. Hai cánh tay tôi quá nhỏ bé. Tôi oà khóc nức nở, lồng ngực thắt lại khi có người gỡ từng ngón tay tôi ra.