TRONG LỀU NÓNG QUÁ NÊN CẢ ĐÊM QUA tôi mất ngủ. Thế nhưng sáng nay, vừa bước ra khỏi lều, tôi đã rùng mình vì lạnh. Mặt đất ẩm ướt. Mây đen giăng kín dãy Thiên Sơn trước mặt, chứng tỏ trời sẽ còn mưa nữa.
Vài phút nữa là đến 8 giờ - giờ xuất phát. Tôi đứng vào chỗ, đầu dãy, sau vạch xuất phát. Về đích thứ ba trong chặng đua hôm qua khiến tôi có cảm giác như thể đây là chỗ dành cho tôi vậy.
Hiển nhiên, mọi người đã thoải mái hơn. Thậm chí, tôi còn nghe thấy vài người cười nữa, mặc dù đã cố gắng không phân tâm và hết sức tập trung vào thử thách phía trước. Bởi sắp tới đây, khi chạy lên núi, chúng tôi sẽ phải leo dốc mấy dặm liền và theo sau đó là những mối nguy hiểm khôn lường khi xuống núi. Chúng tôi hiện đang ở độ cao 2.134 mét. Tôi đoán chắc hẳn một số vận động viên phải gắng gượng vì thiếu oxy rồi. Hôm nay sẽ là một chặng đua đầy chông gai bởi chúng tôi phải leo lên độ cao gần 2.800 mét.
Bỗng nhiên, ngày càng nhiều tiếng cười và reo hò đằng sau lưng tôi, làm tôi xao nhãng.
“Một con chó!”
“Đáng yêu chưa kìa!”
Tôi nhìn xuống thì thấy con chó tối qua. Nó đang đứng bên chân tôi, mắt nhìn đăm đăm vào mấy cái ghệt màu vàng sáng buộc quanh giày tôi. Cái đuôi nó ngoe nguẩy liên tục. Tôi sững người một lúc. Sau đó, nó làm điều lạ lùng nhất. Nó nhìn lên. Đôi mắt đen láy vốn đang nhìn chân tôi, chuyển lên chiếc áo bó màu vàng và dừng lại trên mặt tôi. Nó nhìn thẳng vào mắt tôi, làm tôi không thể lảng tránh.
“Đáng yêu đấy nhóc,” tôi hụt hơi nói, “nhưng tốt hơn hết là mày chạy nhanh lên, nếu mày không muốn bị một trăm tuyển thủ chạy đằng sau giẫm đạp.”
Tôi nhìn xung quanh xem có ai định tiến lên nhận con chó và bế nó ra khỏi đường chạy trước khi chúng tôi xuất phát hay không. Tôi để ý thấy một vài vận động viên khác cười và gật đầu với con chó, nhưng không có người dân hay thành viên ban tổ chức nào có ý định nhận nó cả.
“Có ai biết là chó của ai không ?” Tôi hỏi, nhưng không ai đáp. Tất cả họ đều tập trung đếm ngược 10 giây để xuất phát.
“Chín... Tám... Bảy...”
Tôi nhìn xuống lần nữa. Con chó vẫn ở cạnh chân tôi, chỉ là không nhìn tôi nữa mà đánh hơi mấy cái ghệt.
“Mày nên đi ra đi nhóc, nếu mày không muốn bị đè bẹp gí.”
“Năm... Bốn...”
“Đi ra,” Tôi gắng xua nó đi. Nhưng vô dụng. Nó vẫn hăng say gặm cái ghệt, hết nhảy lùi, chúi xuống đất rồi lại chìm đắm trong thú vui đánh hơi và gặm một cái ghệt khác.
Cuộc đua bắt đầu. Tôi chạy, con chó chạy theo tôi. Mấy cái ghệt đung đưa giúp trò chơi ghệt gủng trở nên thú vị hơn. Con chó chạy nhảy quanh chân tôi như thể nó đang vui lắm, vui nhất từ trước tới giờ.
Còn với tôi, khoảnh khắc đáng yêu này có thể khiến tôi bực mình nếu như nó cứ kéo dài mãi. Điều cuối cùng tôi muốn là vấp phải con chó nhỏ này và khiến cho cả nó lẫn tôi bị thương. Tôi biết, tới con đường mòn hẹp dài phía trước sẽ rất khó vượt, nên tôi phải giữ vững tốc độ và không được rớt hạng. Chạy được 400 mét, tôi cúi xuống nhìn. Ơn trời, con chó đi rồi. Chắc là quay về lều với chủ ở chỗ cắm trại rồi cũng nên, tôi nghĩ.
Chúng tôi vừa tiến vào con đường mòn xuyên rừng dài vài dặm. Đường hẹp nhưng được cái bằng phẳng. Tôi đang ở vị trí thứ hai, cách người dẫn đầu - một người Trung Quốc tôi chưa gặp bao giờ - mấy mét. Thỉnh thoảng , anh ta lại bỏ sót một dấu mốc - một tờ giấy ô li màu hồng to cỡ vỏ hộp đĩa CD, gắn vào que kim loại mảnh cắm trên mặt đất. Cứ ba đến sáu mét lại có một cái. Chúng dễ thấy lắm.
“Ê!” Tôi gọi vài tiếng để anh ta biết mình đi nhầm đường vào rừng rồi. Tôi chờ anh ta quay lại, rồi để anh ta chạy trước. Đáng lẽ tôi có thể để anh ta chạy tiếp, hoặc gọi nhắc anh ta rồi chạy trước. Nhưng các vận động viên chạy đa chặng có quy ước riêng của họ. Chúng ta chiến thắng vì chúng ta nhanh hơn và mạnh hơn chứ không phải nhờ chơi khăm hoặc không giúp đỡ khi có thể. Suy cho cùng , khi phải gánh khó khăn vượt quá sức chịu đựng của cơ thể, người ta thỉnh thoảng cũng sẽ mắc sai lầm. Bạn không biết khi nào thì mình sẽ cần người khác cứu giúp.
Để lại khu rừng phía sau, chúng tôi bắt đầu leo lên núi. Tôi giữ vững tốc độ 268m/phút, sải bước ngắn và tiếp đất nhanh. Thân tôi hoài niệm cái cảm giác chạy theo tiếng hô theo nhịp của huấn luyện hàng giờ liền bên máy chạy bộ. Lúc đầu, tiếng hét “một-hai-ba-một-hai-ba” của ông như tra tấn, nhưng sau vài lần chạy ba phút, nghỉ một phút trong một giờ đồng hồ như thế, chân tôi cuối cùng cũng có cảm giác. Bởi tôi muốn chạy nhanh và không phải chịu cơn đau tê tái nữa, nên tôi buộc phải học cách chạy này.
Bỗng chốc, tôi nhác thấy có cái gì. Tôi miễn cưỡng liếc xuống một phần trăm giây. Lại là con chó đó. Lần này, nó không nghịch mấy cái ghệt nữa mà có vẻ thích thú khi chạy lon ton theo tôi.
Quái! Nó đang làm gì ở đây thế? Tôi thầm nghĩ.
Tôi nghiêng người, chạy lên dốc. Zeng , người Trung Quốc đang dẫn đầu đoàn đua, là một vận động viên chạy đường trường sành sỏi. Anh ta đã kéo dãn khoảng cách thêm một chút. Tôi không nghe thấy tiếng chân ai phía sau. Chỉ có tôi và con chó, chạy song song , lượn qua những khúc cua ngoằn ngoèo. Một cái rãnh nước rộng chưa đầy một mét xuất hiện, chia đôi con đường. Tôi nhảy vọt luôn qua dòng nước chảy xiết mà không nghĩ ngợi gì.
Như ý tôi, con chó đứng khựng lại. Nó bắt đầu sủa ăng ẳng , sau đó thì rên rỉ là lạ. Tôi không quay lại nhìn. Không bao giờ. Thay vì làm thế, tôi tập trung hoàn toàn vào cuộc đua và tăng tốc. Chắc là chó của ai đó sống gần lều nghỉ chặng trước thôi. Hôm nay, nhóc đó đã thu hoạch kha khá rồi, cuỗm được ít thức ăn giàu calo từ vài vận động viên, và giờ đã đến lúc phải về nhà.
Năm mười lăm tuổi, tôi bảo mẹ là tôi sẽ rời khỏi tầng hầm dơ dáy và chuyển đến ở với bạn. Mẹ không buồn nói gì. Chắc bà không thèm quan tâm đâu. Tôi đoán chắc chuyện tôi tự ra ngoài ở cùng bạn chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi mà cứ quanh quẩn ở nhà là mẹ và tôi lại cãi nhau liên miên, chửi qua chửi lại như mấy võ sĩ quyền Anh đọ cân. Có khi đây lại là một sự giải thoát ý chứ.
Tôi chuyển đến sống với thằng Deon. “Dion và Deon á?” Bà chủ nhà trọ hỏi khi Deon giới thiệu tôi với bà. “Cháu không đùa ta chứ?”
“Không ạ,” Deon đáp.
“Được rồi, lên đi,” bà ấy khịt mũi và quay đi lẩm bẩm. “Ta biết rồi.”
Deon lớn hơn tôi một tuổi. Nó đã tốt nghiệp và đang học việc thợ xây. Nó cũng gặp chuyện như tôi ở nhà.
Mặc dù, cả hai chúng tôi cuối cùng cũng thoát khỏi mấy cuộc cãi vã, nhưng chẳng đứa nào thích sống ở nhà trọ cả. Tường thì mỏng như giấy. Mấy người sống ở đây thì già cả rồi và họ làm chúng tôi sợ. Trong đây toàn người vô gia cư, khách du lịch và mấy kẻ nát rượu. Thức ăn vứt bày bừa ở các khu vực chung. Chưa kể, hiếm có đêm nào thiếu vắng tiếng đánh lộn đánh thức cả khu trọ.
Lúc đó, tôi vừa đi học, vừa đi làm thêm - làm nhân viên bơm xăng ở trạm. Cũng kiếm được chút đỉnh nhưng chẳng đáng là bao. Cho nên, tuần nào tôi cũng phải vay Deon bù vào.
Tôi phải cố gắng lắm mới theo kịp bài vở trên lớp. Chẳng có giáo viên nào quan tâm tôi sống ở đâu hay tôi cáng đáng cuộc sống xa nhà như thế nào. Thực ra, tôi nghĩ không ai biết tôi chuyển nhà, và tôi cũng muốn thế. Đi về nhà trọ làm tôi cảm thấy xấu hổ, nên tôi cố giấu giếm, không để những người bạn cùng lớp chăm ngoan học giỏi, gia đình đầm ấm biết.
Deon là một tay sát gái. Con gái mê nó như điếu đổ. Tối thứ Sáu hoặc thứ Bảy chúng tôi hay lẻn vào quán bar, gọi vài chai bia và bắt chuyện với vài cô nàng. Tôi thà để Deon chém gió, còn hơn là để nó lên sàn nhảy. Những gã người Úc quê mùa đến từ mấy thị trấn như thị trấn chúng tôi không thích nhảy nhót vào những ngày này. Nên nếu để Deon lên sàn nhảy, thì lúc xuống , nó sẽ bị ăn chửi, rồi ăn đấm là cái chắc. Mà nếu có ăn đấm thật thì nó cũng chỉ cười xòa thôi.
Một chiều Chủ nhật, đang nằm trên giường giết thời gian, chúng tôi nghe thấy tiếng la ó bên ngoài hành lang. Ai đó gọi tên Deon, nói hắn ta sẽ giết nó vì ngủ với bạn gái hắn.
Hai chúng tôi ớn lạnh. Tôi sững sờ nhìn Deon. Lần đầu tiên tôi thấy nó sợ khiếp vía đến vậy. Ở trong nhà trọ, cả hai đứa đều cố tỏ ra lì lợm nhưng dù gì chúng tôi vẫn chỉ là trẻ con.
Mà đã là trẻ con, thì vào thời điểm đó, đứa nào chả sợ khiếp vía vì sắp bị đánh vỡ đầu. May thay, người kia không biết chúng tôi ở phòng nào. Họ đi tới đi lui ngoài hành lang rồi rời đi. Bị một lần là quá đủ. Chúng tôi quyết rời khỏi nhà trọ này càng sớm càng tốt.
Chúng tôi chuyển đến khách sạn Grand. Điều kiện ở đó hơn hẳn nhà trọ, nhưng mà cũng chưa thể gọi là một khách sạn, mà là một quán rượu có vài phòng cho thuê ở tầng trên cùng thì đúng hơn. Không có mấy thằng nghiện, nát rượu, và dân vô gia cư, Grand là căn cứ địa của những người làm việc trên đường ray hoặc trong xưởng đóng gói thịt địa phương . Một cựu kình ngư từng đánh bại nhà vô địch quốc gia nhưng vì nghiện rượu mà chôn vùi hết tất thảy sự nghiệp của mình. Một lữ khách đã tiêu hết sạch tiền và quyết định coi War wick là nhà . Tôi thích nghe ông kể chuyện. “Nơi nào cũng được, miễn là ta chấp nhận những gì xảy ra ở đó.” Ông nói.
Ở Grand, tôi thấy dễ chịu hơn là ở nhà trọ. Tôi thích ở cùng với những người tự quyết định số phận của họ và vui vẻ với nó.
Dù đôi khi sự lựa chọn đó đồng nghĩa với việc không vợ, không nhà cửa và không gia đình. Sống giữa họ, tôi thấy mình tự do. Lần đầu tiên sau chừng ấy năm, tôi có ý nghĩ rằng tất cả những điều mẹ nói, những điều từng khiến tôi thấy mình như một kẻ vô dụng , thừa thãi, thất vọng , một kẻ phá hoại không được chào đón, chưa chắc đã là thật. Sau tất cả, có lẽ tôi nên học cách bỏ qua.
Con chó vẫn sủa và rên rỉ. Đến tận khi tôi chạy cách rãnh nước khoảng sáu mét, thế giới mới im lặng trở lại. Trong phút chốc, tôi cầu mong nó không bị ngã xuống nước. Nhưng chẳng đợi tôi nghĩ viển vông thêm nữa, một nhúm lông màu nâu quen thuộc đã vụt đến bên cạnh tôi. Con chó đã trở lại bên tôi một lần nữa.
Mày đúng là một nhóc cứng đầu nhỉ?
Chẳng mấy chốc, đường đua càng dốc hơn, nhiệt độ không khí sụt giảm. Không khí lạnh khiến mặt và các ngón tay tôi tê cóng , nhưng tôi vẫn đổ mồ hôi. Lên cao khiến tôi khó thở và đầu tôi quay mòng mòng. Tôi biết, nếu cứ chạy liền một mạch lên núi mà không nghỉ chút nào, tôi sẽ đốt cháy nhiều năng lượng hơn bình thường.
Tôi ghét chạy đường núi. Phải, tôi sống ở Edinburgh, có vùng cao nguyên Scotland tuyệt đẹp bao quanh. Nhưng tôi luôn tránh chạy lên đồi và chạy ngoài trời nếu được. Nhất là những khi trời lạnh, có gió và ẩm ướt. Ấy vậy mà ném tôi vào trong sa mạc hơn 43 độ, tôi lại không hề hấn gì, vẫn tươi vui như các vận động viên khác.
Mọi người thường hỏi sao tôi thích chạy ở những vùng nóng thế. Câu trả lời rất đơn giản. Khi chạy dưới ánh mặt trời sáng chói, tôi cảm thấy mình tự do nhất.
Từ lúc còn nhỏ tôi đã vậy rồi. Sau khi bố Garry mất, tôi tìm đến thể thao, với hi vọng tìm một nơi lẩn trốn những rắc rối ở nhà. Tôi chơi cricket, khúc côn cầu bên ngoài hàng giờ liền. Thời gian như ngừng lại khi tôi ở bên ngoài. Và càng chạy, càng chạm đến cực hạn của bản thân, thở càng nặng nhọc, tiếng tim đập càng mạnh, thì nỗi phiền muộn trong tôi càng dịu đi.
Bạn có thể nói, chạy khi trời nóng là một kiểu giải thoát. Còn tôi thì chắc chắn một điều. Khi chạy trên sa mạc Gobi, tôi không còn phải chạy trốn quá khứ nữa. Tôi đang chạy để hướng tới tương lai. Tôi đang chạy với niềm hi vọng , chứ không phải phiền muộn.
Càng bước, chân tôi càng nặng như đeo chì. Tôi giảm tốc độ. Xung quanh đều là tuyết. Có lúc, chúng tôi phải chạy dọc sông băng. Lại có lúc, phải chạy dưới sườn núi dốc đứng như muốn sụt lún xuống bất cứ lúc nào. Từ độ cao này mà nhìn xuống , chắc hẳn sẽ kích thích lắm đây. Nhưng cũng may là mây bay là là dưới mặt đất nên tôi không thể nhìn thấy gì ngoài một bức tường sương mù dày. Cảnh tượng mờ mờ ảo ảo này làm tôi cứ ngỡ như mình đang trong một cơn dị mộng. Tôi chỉ mong sao mình thoát khỏi chỗ này thật nhanh.
Cuối cùng , chốt kiểm soát đã ở trước mắt. Tôi nghe thấy tiếng mọi người reo hò cổ vũ như mọi khi. Khi họ nhìn thấy con chó, họ càng hò hét to hơn.
“Lại là chú chó đó kìa!”
Tôi gần như đã quên khuấy nhóc này. Lúc tôi chật vật leo lên đồi, con chó vẫn bắt kịp tôi, lóc ca lóc cóc như thể chạy lên độ cao 760 mét dưới gầm trời là điều hết sức bình thường.
Đến chốt kiểm soát, tôi phải đối mặt với hàng tá câu hỏi như tôi cảm thấy thế nào, hay tôi đã uống nước chưa. Ban tổ chức đặt các chốt kiểm soát không chỉ để tiếp nước cho các vận động viên mà còn để kiểm tra xem chúng tôi có đủ sức đi tiếp hay không.
Ấy thế mà, người ta chú ý đến con chó nhỏ đó còn hơn cả tôi. Hai tình nguyện viên chụp ảnh trong khi con chó đánh hơi căn lều được dựng làm chốt kiểm soát. Rót đầy chai nước, tôi đã sẵn sàng đua tiếp. Tôi ra khỏi lều, nửa hi vọng con chó sẽ không đi theo tôi nữa và ở lại đây kiếm phiếu cơm ngon nghẻ hơn.
Nhưng khi chiếc ghệt màu vàng trên chân tôi bắt đầu chuyển động , con chó đã chạy ngay ra chỗ tôi.
Leo lên núi đã vất, xuống núi cũng không kém. Hơn năm dặm đường đua toàn đá dăm và đá tảng , có thể lăn xuống bất cứ lúc nào. Chạy thế này quả là hành hạ khớp xương. Như các vận động viên khác, nếu tôi không duy trì một trăm phần trăm phong độ, tôi có nguy cơ bị vượt qua bất cứ lúc nào.
Quả nhiên là thế. Khi chạy xuống dốc, chật vật lắm tôi mới gần đạt tốc độ tối đa. Chẳng mấy chốc, Tommy đã vượt qua tôi, tiếp theo đó là Julian.
Tôi tự trách mình đã tốn quá nhiều sức lúc leo lên. Tôi đã phạm một lỗi căn bản, dù biết là mình không nên.
Ngay sau đó, tôi tự điều chỉnh lại tâm trạng. Tự trách có thể khiến tôi mắc thêm lỗi căn bản khác. Trước đây, tôi từng mấy lần bị ám ảnh bởi chính lỗi lầm tôi gây ra. Trên vài dặm đua, cảm giác thất bại cứ tích tụ dần đến tận khi tôi chẳng còn hứng thú đua nữa và rút lui.
Chỉ tập trung nhìn phong cảnh xung quanh, tôi cố đánh lạc hướng bản thân. Chạy xuống núi được một quãng , hình như tôi trông thấy một một cái hồ nước lớn đằng trước. Mặt hồ trải rộng và thẫm lại dưới bầu trời xám xịt. Càng đến gần, tôi mới nhìn rõ đó không phải một cái hồ, mà là một bãi cát sỏi đen sì khổng lồ.
Đường bằng phẳng hơn nên tôi giảm tốc độ xuống còn 24m/phút, chạy thẳng qua chốt kiểm soát cuối cùng mà không cần dừng lại lấy nước. Tôi thấy Tommy, Zeng và Julian ngay đằng trước. Họ không cách quá xa như tôi lo ngại. Họ gan lì nối đuôi nhau. Chỉ cách họ chưa đầy một dặm, nhưng cố đến mấy tôi vẫn không thể bắt kịp họ. Tôi cũng không để tâm lắm. Tôi thấy thỏa mãn vì chân tôi không hề có dấu hiệu bị đau suốt chặng đua hôm nay. Tôi nghe thấy tiếng trống vang lên mỗi khi có một vận động viên về đích. Với vị trí thứ tư ngày hôm nay, tôi hoàn toàn có hi vọng giành hạng ba chung cuộc.
Con chó vẫn thu hút sự chú ý ở vạch đích như ở các chốt kiểm soát trước. Mọi người hết chụp ảnh, quay phim, rồi tung hô con chó lai nhỏ màu nâu khi nó chạy về đích. Dường như nhóc này thích được chú ý. Tôi thề là nó vẫy đuôi thoăn thoắt khi đùa nghịch với đám đông vây quanh.
Tommy về trước tôi một, hai phút gì đó, và cũng tiến vào hàng ngũ hoan nghênh. “Chú chó kìa, ông anh! Nó theo anh cả ngày nay cơ mà!”
“Nó đã được uống tí nước nào chưa nhỉ?” Một trong số các tình nguyện viên nghi hoặc.
“Tôi không rõ nữa,” tôi đáp. “Chắc nó uống ít nước suối trên đường rồi.” Tôi có chút ngượng nghịu. Tôi không muốn nó bị khát hay bị đói.
Ai đó kiếm một cái xô nhỏ và múc cho con chó ít nước. Nó liếm liên hồi, chắc là khát lắm.
Tôi lùi lại, tránh khỏi đám đông một chút vì muốn bỏ con chó lại đó. Lại một lần nữa, tôi nghĩ nó sẽ lảng vảng , rồi đi theo người khác, nhưng không. Uống nước xong , nó ngẩng đầu lên, hai mắt dán chặt vào chiếc ghệt màu vàng của tôi, rồi chạy lon ton đến bên tôi, tôi đi đâu nó theo đó.
Trong lều nóng hừng hực. Tôi mừng vì cuối cùng chúng tôi đã thoát khỏi cái lạnh cắt da cắt thịt trên núi cao. Bắt đầu từ giây phút này, cái chúng tôi phải đương đầu không còn là cái lạnh nữa, mà là khí nóng. Kể từ ngày mai, chúng tôi sẽ tiến vào sa mạc Gobi. Tôi háo hức lắm rồi đây.
Tôi vừa ngồi vào lều, con chó đã nằm cuộn tròn bên cạnh tôi. Còn tôi bắt đầu lo ngại về vi khuẩn và mầm bệnh. Trong một cuộc đua kéo dài cả tuần trời như thế này, điều cốt yếu là phải giữ mình càng sạch càng tốt. Bởi bạn sẽ rất dễ bị ốm nếu không tắm giặt. Con chó đang nhìn thẳng vào mắt tôi, như cách nó nhìn tôi sớm nay. Vài giờ nữa là đến bữa tối lúc sáu rưỡi, nên tôi lôi một túi đậu và thịt khô Biltong ra. Con chó nhìn không chớp mắt.
Cắn một miếng thịt, tôi chợt nhận ra con chó chưa ăn gì cả ngày nay. Nó đã biểu hiện xuất sắc trong một giải marathon.
Hơn thế, trước mặt tôi, nó chưa từng mặt dày xin xỏ hay ăn trộm tí thức ăn nào.
“Đến đây nào,” tôi vừa nói vừa tung một nửa miếng thịt xuống tấm bạt trước mặt nó. Trực giác mách bảo, tôi không nên cho nó ăn trên tay mình. Con chó nhai, nuốt, lượn vòng vài lần rồi nằm xuống. Trong nháy mắt, nó ngáy, giật giật người, rên rỉ, và chìm sâu vào giấc ngủ.
Tôi choàng tỉnh khi nghe tiếng mấy người thủ thỉ như đám học sinh.
“Ái chà, dễ thương nhỉ?”
“Đây không phải con chó tối qua sao? Anh nghe gì chưa? Cô nhóc theo anh ta cả ngày nay đấy.”
Cô nhóc ư? Nó chạy cùng tôi cả ngày, còn tôi thì chưa từng nghĩ đến chuyện nó là con đực hay con cái.
Tôi mở mắt. Con chó đang nhìn tôi. Ánh mắt chuyên chú hơn tất thảy. Tôi xem thử. Họ nói đúng. Nó không phải một cậu nhóc. Là một cô nhóc.
“Ừ.” Tôi nói với Richard và những người còn lại. “Cô nhóc cứ dính lấy tôi cả ngày nay. Nó dai sức phết đấy.”
Mấy người cho cô nhóc ấy ăn. Như mọi khi, người ta cho là nó ăn. Cô nhóc lặng lẽ ăn như thể nó biết mình đã chộp được một món hời béo bở và phải ngoan ngoãn.
Tôi kể với họ chuyện tôi không biết cô nhóc từ đâu đến và chuyện tôi đoán chủ của nó là người ở cùng lều với chúng tôi đêm hôm trước.
“Tôi không nghĩ thế đâu,” Richard nói. “Tôi nghe mấy vận động viên khác kể hôm qua nó chạy cùng họ trên cồn cát.”
Điều đó có nghĩa là cô nhóc đã chạy gần năm mươi dặm trong hai ngày qua! Tôi sửng sốt.
Điều đó cũng có nghĩa là cô nhóc không thuộc về ai ở cùng lều hôm trước hay ai đó trong ban tổ chức.
“Anh biết giờ mình cần làm gì chứ?” Richard nói tiếp.
“Gì?”
“Đặt tên cho nó đi.”