Xét về kết cấu hệ thống, con người và máy tính có nhiều bộ phận căn bản là rất giống nhau.
Ba hiện tượng y học hiện đại
• Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, sau khi vaccine Sabin ra đời chữa khỏi được bệnh bại liệt trẻ em, hơn 40 năm nay không còn nghe được tin tức tốt đẹp về loại bệnh nào đó lại được chữa khỏi.
• Các bệnh mạn tính (trừ bệnh ngoại thương và truyền nhiễm ra)(1) ví dụ như bệnh huyết áp cao, bệnh tiểu đường, bệnh tăng urê huyết và bệnh u bướu các loại, đa số chỉ có thể khống chế chứ không thể chữa khỏi.
• Nhiều năm nay liên tiếp có những công bố về những phương pháp chữa trị mới của ngành y học, mỗi kỳ trao tặng giải Nobel, y học chưa bao giờ vắng mặt, nhưng tất cả những tiến triển mới nhất của y học hiện đại, đều luôn luôn dự báo trước rằng một ngày nào đó trong tương lai, nhân loại có cơ hội giải quyết được một loại bệnh mạn tính nào đó, chứ chưa từng có thông tin là đã giải quyết được một bệnh mạn tính nào đó. Mấy chục năm nay, những bệnh mạn tính không thể chữa trị được nhiều như vậy, mà chưa cái nào được giải quyết.
Đứng trước ba hiện tượng này, chứng tỏ rằng y học hiện đại hầu như đang dậm chân tại chỗ mấy chục năm nay, đối với bệnh mạn tính không có sự tiến triển nào, vấn đề của nó tất nhiên không phải chỉ đơn giản là có tìm được loại thuốc mới nào hay không, rất có khả năng nguyên nhân ở logic suy nghĩ cơ bản của y học hiện đại, hoặc là có vấn đề ở phương hướng phát triển căn bản nhất.
(1) Ở đây tác giả có chút nhầm lẫn, ngoại thương và bệnh truyền nhiễm không phải là bệnh mạn tính (HĐ). (Từ đây về sau, chú thích ở chân trang là của dịch giả và người hiệu đính. Chú thích của dịch giả sẽ được ký hiệu là (ND), chú thích của người hiệu đính sẽ được ký hiệu là (HĐ) ở cuối dòng).
Những gợi ý của khoa học kỹ thuật máy tính
Điện áp của cơ thể con người là gì?
Rất nhiều người ở thế kỷ này có thể hiểu được khoa học kỹ thuật máy tính, xét về kết cấu hệ thống, con người và máy tính có nhiều bộ phận căn bản là rất giống nhau. Bởi vậy, tôi thường lấy cái máy tính cá nhân mà mọi người đều quen biết làm ví dụ để nói về nguyên nhân bệnh tật của cơ thể con người.
Bộ phận cung cấp điện nguồn cho máy tính cá nhân hiện đại đều sử dụng dạng điện tử, mở cuốn hướng dẫn sử dụng, có thể thấy điện áp cho phép dao động lên xuống 35%. Do đó, một máy tính có điện áp nguồn là 110 vôn, khi điện áp ở lưới điện bên ngoài hạ thấp xuống còn 70 vôn, hạn mức thấp nhất cho phép, máy tính vẫn hoạt động bình thường (đương nhiên trừ trường hợp chất lượng bộ nguồn quá kém). Khi điện áp hạ xuống còn 60 vôn, vượt quá mức thấp nhất cho phép, hệ thống có khả năng xuất hiện vấn đề, giả thiết lúc này vấn đề xuất hiện ở ổ đĩa quang. Vấn đề điện áp quá thấp, không dùng máy đo thì không thấy được, người sử dụng chỉ nhìn thấy ổ đĩa quang có sự cố. Lúc này người kỹ sư cần phải xử lý bộ phận nào? Điện nguồn hay là ổ đĩa quang? Câu trả lời đã rất rõ ràng rồi.
Trong con mắt của người kỹ sư điện tử đây là vấn đề hết sức giản đơn, một kỹ sư điện tử trải qua đào tạo cơ bản, bước đầu tiên khi sửa chữa chiếc máy tính này là phải đo điện áp nguồn, rất nhanh chóng sẽ phát hiện ra vấn đề điện áp nguồn không đủ. Đợi điện áp nguồn trở lại phạm vi bình thường, rồi hãy xem lại bộ phận đĩa quang có vấn đề gì hay không. Trong nhiều trường hợp ổ đĩa quang luôn luôn hoạt động tốt, chỉ cần điện áp bình thường, vấn đề cũng sẽ được giải quyết.
Nếu có tình hình tương tự xảy ra trên cơ thể người, thì sẽ không còn là một vấn đề đơn giản nữa. Ổ đĩa quang giống như một bộ phận của cơ thể người, trong trường hợp này chúng ta giả thiết là tạng thận. Dùng logic của người kỹ sư điện tử sửa chữa máy tính nói trên để suy xét, vấn đề trở nên lớn hơn rất nhiều. Vấn đề thứ nhất là “điện áp của cơ thể người” là gì? Không đo được điện áp, thì không có chứng cứ nói rằng mức năng lượng có vấn đề, mà các loại chứng cứ đều cho thấy ổ đĩa quang (tạng thận) đã bị hỏng, đương nhiên là phải chữa ổ đĩa quang, ở đây tức là chữa trị tạng thận. Thế là dùng các loại thuốc để chữa bệnh ở tạng thận, thậm chí còn cắt bỏ thay thận mới, nhưng tất cả đều không cứu vãn được sự cố, rất có khả năng đa số những quả thận bị cắt đi căn bản là còn tốt. Nghe có vẻ rùng mình, nhưng trong y học thật sự đã có những sự cố như thế.
Máy tính cá nhân hiện đại, có công năng tự chẩn đoán và tự sửa chữa phục hồi từng bộ phận. Cơ thể con người do Thượng đế thiết kế nhất định có công năng càng tinh xảo hơn, ví dụ như công năng tự chữa trị thậm chí tổ chức tái sinh.
Do y học ngày nay vẫn chưa có bất cứ một tiêu chuẩn nào để đo mức năng lượng cơ thể người, xét từ góc độ này, y học hiện đại so với điện tử học, vẫn còn ở thời đại chưa phát hiện ra điện áp, chưa phát hiện ra điện áp, thì đừng nói đến sự phát triển.
Chú trọng vào chứng cứ, không dùng những khái niệm chưa được chứng thực vào chẩn đoán và chữa bệnh là một nguyên tắc quan trọng nhất của y học phương Tây, trong ví dụ này, do nhân loại ngày nay vẫn chưa có khả năng đưa ra chứng cứ để chứng minh năng lượng của cơ thể người là không đủ, mà lại có chứng cứ rõ ràng cho thấy tạng thận khác thường, trong tình huống như vậy, tất cả các bác sĩ sẽ đều cho rằng tạng thận mắc bệnh.
Song, người bác sĩ dồn sức lực chủ yếu vào chữa thận, rất có khả năng cũng giống như người kỹ sư điện tử không điều chỉnh điện áp nguồn mà đi sửa ổ đĩa quang trong ví dụ trước, họ đã thiếu thường thức chuyên môn. Nhưng trong giới thầy thuốc ngày nay người ta lại lấy “đầu đau chữa đầu; chân đau chữa chân” làm logic, logic suy nghĩ như vậy lại được mọi người đồng tình tuân thủ như là một chân lý. Chứng tăng urê huyết sở dĩ trở thành một chứng bất trị cũng là lẽ đương nhiên thôi.
Cơ thể con người nhất định hoàn mỹ hơn máy tính
Máy tính cá nhân hiện đại, có công năng tự chẩn đoán và tự sửa chữa phục hồi từng bộ phận. Cơ thể con người do Thượng đế thiết kế nhất định có công năng càng tinh xảo hơn, có một câu nói của nhà Phật: Sự sáng tạo này đã ban tặng cho chúng ta thân thể quý báu, nó vốn có đầy đủ chức năng, cơ thể vốn được trang bị những công năng tinh túy tuyệt hảo nhất, ví dụ như công năng tự chữa trị thậm chí tổ chức tái sinh.
Cũng giống như các loại công năng mạnh của máy tính, có những yêu cầu nhất định đối với các thiết bị đi kèm với nó, các loại công năng của cơ thể con người cũng có yêu cầu nhất định đối với năng lượng của cơ thể người. Khi năng lượng hạ thấp đến một mức độ nhất định, việc điều tiết của tổ chức hay năng lực tái sinh ngay lập tức sẽ bị ngừng hoạt động; khi tiếp tục hạ thấp đến một mức độ nào đó, năng lực tự chữa trị sẽ bị mất hiệu lực; nếu vẫn tiếp tục hạ thấp nữa, năng lực đào thải các cặn bã, năng lực miễn dịch và tổ chức tái sinh, tất cả đều dần dần mất hết công hiệu. Khoa học kỹ thuật của nhân loại không ngừng tiến bộ, tập quán sinh hoạt cũng không ngừng thay đổi. Những thay đổi này hầu hết đều tạo nên những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc nặng hoặc nhẹ đến cơ thể con người.
Ví dụ, thay đổi thói quen giấc ngủ, rất có khả năng khiến cho chúng ta chiếm dụng mất thời gian để cơ thể tạo máu hoặc tự chữa trị. Cộng thêm với việc từ xưa tới nay, chúng ta dùng y thuật với sự hiểu biết không đầy đủ để đối phó với bệnh tật, có nhiều phương pháp điều trị đã để lại ảnh hưởng không tốt cho cơ thể, làm cho năng lực hấp thụ của cơ thể gặp trở ngại rất lớn. Những vấn đề này đều dẫn đến hiện tượng làm hạ thấp năng lượng của cơ thể, và làm cho cơ thể người dần dần mất đi các loại công năng, gây nên các loại bệnh tật.
Cũng giống như đặc tính giản đơn Plug & Play (cắm điện là chạy) của máy tính cá nhân hiện đại, nếu cứ theo sách hướng dẫn sử dụng mà dùng thì máy tính không dễ dàng phát sinh sự cố. Cũng như vậy, cơ thể con người vốn có rất nhiều công năng, nếu cứ căn cứ theo những điều kiện kết hợp cần thiết mà cơ thể đã đặt ra để sử dụng cơ thể, làm cho các loại năng lực vốn có của cơ thể đều được phát huy thì có thể bảo đảm cơ thể lúc nào cũng có đầy đủ năng lượng, nhiều loại bệnh tật sẽ không phát sinh. Cho dù đã sinh bệnh rồi, công năng tự phục hồi của cơ thể có năng lực tự sửa chữa phục hồi hầu hết những tổn thương, cũng sẽ giống như chiếc ổ đĩa quang của máy tính tự hoạt động trở lại khi có đủ điện áp.
Chúng tôi tin tưởng rằng cơ thể con người hoàn mỹ hơn rất nhiều so với chiếc máy tính mà chính con người thiết kế ra, bảo vệ giữ gìn sức khỏe thực ra là một việc làm giản đơn như việc sử dụng chiếc máy tính cá nhân vậy, chỉ cần làm theo sách hướng dẫn, không nên tùy tiện can thiệp chỗ này chỗ kia, sử dụng chính xác là được. Cuốn Đi tìm thần dược bên trong cơ thể này có thể giúp mọi người học được cách sử dụng chính xác cơ thể mình như thế nào.
Hai điều thắc mắc về kiểm tra máu
Số lượng hồng cầu bình thường thì không thiếu máu đúng không?
Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm xét nghiệm máu, thông thường là lấy từ cơ thể ra một lượng máu tươi nhất định, đựng vào một ống nghiệm nhỏ, đem đến phòng xét nghiệm tiến hành các loại hóa nghiệm. Việc người ta thường hay làm nhất là đếm số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu có trong lượng máu đó. Nếu hồng cầu quá ít, bác sĩ sẽ chẩn đoán bạn bị thiếu máu; bạch cầu quá nhiều thì bạn đang bị viêm, còn nếu bạch cầu lại nhiều hơn nữa thì chẩn đoán bạn bị bệnh máu trắng.
Nhìn bề ngoài cách làm này xem ra có vẻ rất khoa học, cách kiểm tra này đã được tiến hành nhiều năm, hầu như đều không có vấn đề gì. Nhưng suy nghĩ kỹ hơn thì vấn đề lại không nhỏ chút nào. Chúng ta hãy nói về chẩn đoán thiếu máu, khi số lượng hồng cầu không đủ, bác sĩ chẩn đoán bạn bị bệnh thiếu máu, nếu khi thiếu đến mức nguy hại đến tính mạng, thì phải dùng phương pháp truyền máu để tiến hành cấp cứu. Nói là thiếu máu có nghĩa là nói tổng số lượng máu của bạn quá ít, thế nhưng chỉ từ vài CC máu lấy ra xét nghiệm mà biết được tổng lượng máu của một người là không đủ, cách xác định này có đáng tin cậy không?
Phương pháp xét nghiệm này là xác định tỷ lệ các thành phần trong một dung tích máu nhất định, nói theo danh từ hóa học, đó là nồng độ các loại thành phần trong máu. Đây là một loại đo lường định tính, thế mà lại rút ra một kết quả về tổng lượng máu của cơ thể, tôi cho rằng điều này thật vô cùng không hợp logic.
Phương pháp xác định này cũng giống như khi thống kê số người trên một quảng trường, chọn ra 100 người trong số họ, đếm ra trong đó có 60 người nam và 40 người nữ, từ kết quả này dù thế nào cũng không thể rút ra kết luận có 1 vạn người trên quảng trường. “60 người nam và 40 người nữ” và “nồng độ các loại thành phần trong máu” đều là một loại đặc tính tỷ lệ, kết luận cuối cùng lại là kết quả số lượng “1 vạn người” và “thiếu máu”, cái logic này hoàn toàn không thể đứng vững được.
“Tổng lượng hồng cầu” trong máu là kết quả của “nồng độ hồng cầu” x “tổng thể tích máu”, nếu trực tiếp dùng “nồng độ hồng cầu” thay thế “lượng máu hồng cầu”, như vậy thì giả thiết rằng tổng thể tích máu là một hằng số cố định không thay đổi. Cũng có nghĩa là hệ phương pháp xác định này được xây dựng trên cơ sở giả thiết “tổng thể tích máu của cơ thể người là con số cố định không đổi”. Nhưng trong bất cứ một tài liệu y học nào đều không có chứng cứ có thể chứng minh “tổng thể tích máu của cơ thể người là một hằng số cố định”. Y học phương Tây luôn luôn quan tâm đến chứng cứ, nhưng đôi khi cũng không kiên trì cái nguyên tắc của mình như vậy, trong sự việc này họ đã quên cả những chứng cứ điều mà họ vốn quan tâm nhất. Trái lại, dung tích của huyết quản và tất cả các cơ quan của cơ thể người đều được cấu tạo bởi những vật chất có tính đàn hồi rất lớn, từ phán đoán thường thức, tổng thể tích máu của cơ thể người đúng ra là một con số luôn luôn thay đổi.
Trong máu có một bộ phận rất lớn là huyết thanh, thành phần chủ yếu trong huyết thanh là nước, bởi vậy khi xét nghiệm thấy số lượng hồng cầu quá thấp, cũng có thể giải thích là huyết thanh quá nhiều. Khi số lượng hồng cầu quá cao, rất có khả năng huyết thanh của người này quá ít, cũng có nghĩa nước trong cơ thể quá ít, người quá khô kiệt, phương pháp xét nghiệm hiện nay không thể dùng để phán đoán “tổng lượng hồng cầu” của người nào đó là nhiều hay là ít.
Cách xét nghiệm này trên cơ thể những người bình thường nói chung không có ảnh hưởng gì quá lớn, dù sao cũng không nguy hại đến tính mạng. Nhưng trong phòng cấp cứu, cách xét nghiệm này lại thường quyết định sự sống và chết của người bệnh. Bởi vì, con số này là chứng cứ để quyết định người bệnh có được truyền máu hay không. Rất có khả năng nhiều người bệnh do năng lực hấp thu nước của cơ thể quá kém, kết quả gây nên huyết thanh rất ít, tức là làm cho tổng lượng máu cơ thể rất thấp, số lượng hồng cầu khi xét nghiệm vẫn rất cao, thế là không được truyền máu cấp cứu cần thiết, vì thế mà dẫn đến thiệt mạng.
Người mắc bệnh luôn tìm mọi linh đan dược liệu có thể chữa được bệnh, nhưng lại không muốn điều chỉnh lại thói quen sinh hoạt của mình để loại trừ nguyên nhân gây bệnh thật sự.
Xét nghiệm máu là biện pháp cơ bản nhất trong các loại kiểm tra, nếu bộ phận này còn có những hiểu lầm lớn như vậy, các phương pháp kiểm tra khác còn có thể tin tưởng được nữa không?
Làm cách nào nhận định cơ năng của các bộ phận trong cơ thể chuyển biến tốt lên hay xấu đi?
Trong sinh hoạt của chúng ta, nước sạch chảy ra từ trong vòi nước máy, nước bẩn chảy vào các cống rãnh, phân biệt rất rõ ràng, con người ta rất quan tâm chú ý đến nước sạch mà mình cần đến, dùng mọi biện pháp để cải thiện nâng cao chất lượng của nó, còn nước mà mình thải ra thì mặc kệ cho chảy ra bên ngoài, không chút lưu tâm.
Khác biệt lớn nhất của hệ thống tuần hoàn máu trong cơ thể người với hệ thống nước dùng trong sinh hoạt của chúng ta chính là ở hai chữ “tuần hoàn”, toàn bộ khối lượng máu vận hành theo vòng tuần hoàn, đến tận cùng quay lại từ đầu, sử dụng lặp đi lặp lại liên tục, điều này có nghĩa là lượng máu đen do cơ thể đào thải ra và lượng máu đỏ cần cho cơ thể về nguồn gốc nó vốn là một. Máu từ động mạch chảy ra là máu sạch sau khi đã trải qua thanh lọc, còn máu ở tĩnh mạch là máu bẩn đã được dùng rồi. Máu đã dùng rồi cần phải được trải qua tạng gan, tạng thận thanh lọc loại bỏ chất độc, rồi còn phải qua phổi nạp oxy (O2) loại bỏ carbonic (CO2), khi đó mới trở thành máu sạch.
Khác biệt lớn nhất của hệ thống tuần hoàn máu trong cơ thể người với hệ thống dùng nước sinh hoạt của chúng ta chính là ở hai chữ “tuần hoàn”.
Khi trong máu người xuất hiện tình trạng số lượng các chất phế thải tăng cao, thường thường có hai khả năng, một là công năng các cơ quan trong cơ thể bị suy giảm, năng lực đào thải các độc tố không đủ, số phế thải còn để lại ngày một nhiều lên; hai là có thể công năng các cơ quan trong cơ thể nâng cao, làm cho các chất phế thải mà các cơ quan này thải ra cũng tăng cao theo, cũng giống như là trong nhà khi tiến hành quét dọn lớn, thì rác rưởi cũng sẽ nhiều hơn.
Việc này có phần giống với hệ thống nước trong gia đình, khi ống nước có cáu bẩn, do phần lớn các cáu bẩn đã bám chắc vào thành ống nước, chỉ có một số rất ít cáu bẩn lưu động trong nước, cho nên lúc này lấy nước dùng vẫn còn sạch, nhưng khi ta tẩy rửa ống nước, làm cho những cáu bẩn bám ở thành ống phải rời ra, lúc này mà lấy nước thì nước sẽ rất đục.
Cơ thể người cũng có tình trạng tương tự, khi cơ thể người đã nhiều năm mỏi mệt, thể lực không ngừng suy giảm, công năng các cơ quan trong cơ thể cũng không ngừng thoái hóa, lúc này có nhiều chất phế thải, cơ thể đáng lẽ phải thải ra mà không có năng lực thải ra được, đa phần chúng tích tụ, lắng đọng ở các nơi trong cơ thể, chỉ có bộ phận rất nhỏ lưu động trong mạch máu, kết quả xét nghiệm lúc này đa phần vẫn xem là bình thường. Khi có cơ hội nghỉ ngơi, năng lực khí huyết cơ thể tăng cao, công năng của các cơ quan trong cơ thể cũng nâng cao theo, lúc này những vật phế thải tích tụ lâu nay sẽ được đem đi thanh lý, qua máu đưa vào gan hoặc thận để thải ra ngoài. Lúc này những chất phế thải tất sẽ được chuyển vận đi trong máu, nếu ta tiến hành xét nghiệm máu tất sẽ thu được những con số không bình thường, đây cũng chính là chứng cứ mà y học hiện đại gọi là “dấu hiệu bệnh tật”.
Bởi vậy, khi số liệu xét nghiệm thân thể xuất hiện vấn đề, có thể xác định trạng thái thân thể của người này là không tốt, nhưng lại không thể nhận định thân thể anh ta đang phát triển theo chiều hướng tốt lên hay xấu đi. Có nghĩa là sự xuất hiện của loại dấu hiệu này, có thể là điều xấu, cũng có thể là điều tốt, không thể từ những con số xét nghiệm thu được ấy mà đưa ra phán đoán cuối cùng được.
Y học hiện đại bó tay trước các bệnh mạn tính, rất có khả năng trong phương hướng và logic tư duy có vấn đề.
Mục tiêu điều trị bệnh mạn tính trong y học hiện đại là làm sao đưa toàn bộ những con số trong kết quả xét nghiệm đều khôi phục trở lại “phạm vi bình thường” cho phép, với người bệnh có công năng các cơ quan trong cơ thể đang tăng cao dẫn đến con số kết quả các mục xét nghiệm xuất hiện vấn đề thì biện pháp điều trị này đối với họ mà nói, rất có khả năng làm gián đoạn xu thế chuyển biến tốt của thân thể, làm trở ngại việc nâng cao công năng các cơ quan cơ thể, và còn gây nên những thương tổn cho thân thể càng trực tiếp hơn, cụ thể hơn.
Từ hai vấn đề của việc xét nghiệm máu này, có thể rút ra một kết luận đơn giản là:
Ngày nay sở dĩ các loại bệnh mạn tính không có cách nào trị được tận gốc rễ, là bởi vì dựa trên những số liệu rút ra từ những phương pháp kiểm tra có vấn đề nói trên, mà đề ra những phương pháp điều trị, đó là một trong những nguyên nhân căn bản nhất.
Cơ thể người là một cơ thể sinh hóa vô cùng phức tạp, một tầng ý nghĩa khác của từ “sinh hóa” chính là cơ thể người là một công xưởng hóa học sống, biết tùy thời tùy điều kiện thích ứng với các loại nhân tố trong ngoài để tự động điều chỉnh trình tự hóa học của nó. Bởi thế, hiểu được cách giải mã các con số thu được sau khi làm các xét nghiệm, không những đòi hỏi phải hiểu được trạng thái tốt xấu của công năng các cơ quan trong cơ thể, mà còn cần phải hiểu được cơ thể lúc đó đang tiến hành những biện pháp ứng biến nào, khi cơ thể nằm trong trạng thái ứng biến khác nhau, những con số có được khi kiểm tra cần phải có cách đọc khác, cách lý giải khác.
Nói một cách đơn giản, cơ thể người thực tế là đã tự trang bị cho mình một trung tâm chế tạo nguyên liệu cho nguồn năng lượng và một nhà máy phát điện.
Những biện pháp kiểm tra con người đề ra từ xa xưa, khi năng lực khoa học kỹ thuật còn chưa phát triển, cần phải được xem xét lại toàn diện từ đầu, không thì e rằng y học hiện đại sẽ vĩnh viễn không bước ra khỏi cái vòng khó khăn bối rối hiện nay.