Điều đầu tiên tôi nhận thức được là Carmel tát tôi. Rồi cơn đau xộc tới. Đầu tôi có khi đã vỡ ra rồi. Đau đến thế cơ mà. Máu trào ra trong miệng, trên khắp lưỡi. Nó có vị như những đồng xu cũ và toàn thân tôi tê rần, chứng tỏ tôi vừa bay trong không trung rồi ngã xuống rất mạnh. Thế giới của tôi hiện giờ chỉ có mỗi đớn đau và ánh đèn mờ, vàng vọt. Những giọng nói quen thuộc. Carmel và Thomas.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” tôi hỏi. “Anna đâu?” Tôi chớp mắt vài cái, xua tan sương mù trước mắt. Ánh đèn bão hắt ra vàng vọt. Carmel đang quỳ bên cạnh tôi, mặt mày lấm lem bùn đất và mũi chảy máu. Thomas ở bên cạnh cô ấy. Trông cậu ấy choáng váng và lảo đảo, người đẫm mồ hôi nhưng không dính máu.
“Tớ không biết phải làm gì,” Carmel nói. “Cậu định với tay qua bên đó. Cậu không trả lời tớ. Tớ không nghĩ cậu nghe thấy.”
“Đúng là không nghe thấy,” tôi đáp và chống khuỷu tay ngồi dậy, thận trọng không để đầu bị rung quá nhiều. “Câu thần chú quá mạnh. Khói và tiếng trống... Thomas, cậu ổn chứ?” Cậu ấy gật đầu, có ý bảo ổn. “Tớ cố gắng với tay qua? Như thế đã gây ra vụ nổ?”
“Không,” Carmel đáp. “Tớ chộp lấy con dao và đốt máu của cậu trên đó, như Thomas đã dặn. Tớ không biết là sẽ thế... tớ không biết nó sẽ nổ như một khối C4. Tớ gần như không giữ nổi.”
“Tớ cũng không biết,” Thomas lẩm bẩm. “Tớ lẽ ra không nên bảo cậu làm thế.” Cậu ấy đưa tay chạm lên má Carmel và cô ấy để yên một lát trước khi gạt đi.
“Tớ tưởng cậu cố đi qua thế giới bên kia,” cô ấy nói. Thứ gì đó ấn vào lòng bàn tay tôi: con dao tế. Họ giúp tôi đứng lên. “Tớ không biết phải làm gì khác.”
“Cậu đã làm đúng,” Thomas nói với cô ấy. “Nếu cố làm vậy, cậu ấy chắc sẽ chết. Đó chỉ là một cửa sổ. Chứ không phải lối vào. Hay cổng ngõ.”
Tôi nhìn quanh khoảnh đất từng là ngôi nhà Victoria của Anna. Đất bên dưới vòng tròn thẫm hơn chỗ khác và có những gợn sóng được hình thành bởi gió, hệt như những đụn cát ở sa mạc. Nơi tôi đáp xuống cách chỗ đang ngồi chừng 3 mét.
“Có lối vào không?” Tôi hỏi lớn. “Có cổng ngõ không?”
Thomas giật mình nhìn tôi. Cậu ấy đang đi quanh những gì còn lại của vòng tròn bằng đôi chân run rẩy, nhặt lên những món đồ vung vãi khắp nơi: cái trống, cái dùi, con dao được chạm khắc.
“Cậu đang nói gì vậy?” họ hỏi.
Não tôi có cảm giác như trứng bác và lưng thì bầm dập như bị hà mã giẫm, nhưng tôi nhớ mọi chuyện đã xảy ra. Tôi nhớ những gì Anna nói và bộ dạng em thế nào.
“Tớ đang nói về một cổng ngõ,” tôi nói lại. “Đủ lớn để đi qua được. Tớ đang nói về việc mở cái cổng đó và đưa cô ấy về.” Tôi lắng nghe trong khi họ nói lào xào gì đó và bảo tôi là không thể. Họ nói những thứ như là, “Mục đích của nghi lễ này không phải thế.” Họ bảo tôi làm thế khác nào tự sát. Tôi nghĩ họ nói cũng phải. Chắc thế. Nhưng không thành vấn đề.
“Nghe tớ này,” tôi nói thận trọng, phủi đất ra khỏi quần và tra con dao tế vào vỏ. “Anna không thể ở đó được.”
“Cas,” Carmel bắt đầu. “Không thể nào. Thật điên rồ.”
“Các cậu đã nhìn thấy cô ấy, đúng không?” tôi hỏi và họ trao nhau ánh mắt tội lỗi.
“Cas, cậu đã biết trước có thể là như thế rồi mà. Cô ấy...” Carmel nuốt khan. “Cô ấy đã giết quá nhiều người.”
Khi tôi lườm cô ấy, Thomas chen vào giữa.
“Nhưng cô ấy đã cứu bọn mình,” cậu ấy nói và Carmel lầm bầm. “Tớ biết.”
“Hắn cũng ở đó. Gã pháp sư. Tên khốn đã giết cha tớ. Và tớ không thể để hắn tra tấn cô ấy mãi mãi.” Tôi nắm chặt chuôi dao đến mức các khớp tay kêu răng rắc. “Tớ sẽ đi qua cổng. Và tôi sẽ tống con dao này vào họng làm hắn phải tắt thở.”
Nghe tôi nói vậy, họ hít vào một cái. Tôi nhìn họ, bầm dập và tơi tả như một đôi giày cũ rách. Họ rất dũng cảm, dũng cảm hơn tôi vẫn nghĩ hay hy vọng.
“Nếu phải làm việc này một mình, tớ cũng hiểu được. Nhưng tớ sẽ cứu cô ấy ra.” Trên đường ra xe, tôi nghe họ bắt đầu cãi nhau. Tôi nghe thấy mấy từ ‘đánh bom cảm tử’ với cả ‘hành trình tìm câu trả lời chết chắc’, cả hai đều từ miệng Carmel. Thế rồi, tôi đi quá xa nên không nghe họ nói gì nữa.
Thomas và Carmel đúng khi bảo những câu trả lời chỉ tổ dẫn đến nhiều thắc mắc hơn. Sẽ luôn có nhiều điều phải tìm hiểu, phải học và phải làm hơn. Giờ tôi đã biết Anna đang ở Địa ngục. Tôi phải tìm cách cứu em. Ngồi bên bàn bếp, chọc dĩa vào món trứng ốp lết nấm mẹ làm, tôi có cảm giác như bị nhét vào một khẩu súng thần công. Có quá nhiều điều cần làm. Tôi đang làm cái quái gì khi cứ ngồi chọc chọc vào món trứng đáng ghét này?
“Con muốn ăn bánh mì nướng không?”
“Không muốn lắm.”
“Con sao thế?” Mẹ ngồi xuống trong chiếc áo choàng tắm với bộ dạng mệt mỏi. Đêm qua, tôi đã khiến tóc mẹ bạc thêm vài sợi khi mang cái đầu bầm dập về nhà. Mẹ thức trong khi tôi ngủ, cứ cách một tiếng rưỡi lại lay tôi dậy, để đảm bảo là tôi không bị chấn thương sọ não rồi chết. Đêm qua, mẹ không hỏi câu nào. Tôi nghĩ cảm giác nhẹ nhõm khi thấy tôi còn sống là đã đủ. Và có thể một phần là mẹ không muốn biết.
“Cái trống đã phát huy tác dụng,” tôi nói khẽ. “Con đã nhìn thấy Anna. Cô ấy ở dưới Địa ngục.”
Trong tích tắc, mắt mẹ sáng lên rồi dịu đi.
“Địa ngục?” mẹ hỏi. “Lửa và lưu huỳnh? Quỷ lùn đỏ đuôi nhọn cầm đinh ba khổng lồ?”
“Chuyện này với mẹ buồn cười lắm sao?”
“Đương nhiên là không,” mẹ đáp. “Chỉ là mẹ không bao giờ nghĩ là nó thực sự tồn tại.” Và mẹ cũng không biết nói gì.
“Con không thấy cái đuôi nhọn nào cả. Nhưng cô ấy đang ở Địa ngục. Hoặc một nơi nào đó tương tự thế. Con đoán là có phải Địa ngục thật hay không cũng không thành vấn đề.”
Mẹ thở dài. “Mẹ nghĩ sau từng ấy chuyện con bé làm thì nó phải đền tội thôi. Mẹ thấy thế không công bằng, nhưng... chúng ta chẳng thể làm gì được đâu, con yêu.”
Đền tội. Tôi lườm muốn cháy mắt.
“Theo như con biết,” tôi nói, “đó toàn là những chuyện khốn kiếp.”
“Cas.”
“Và con nhất định sẽ cứu cô ấy.”
Mẹ nhìn xuống đĩa. “Con biết việc đó là bất khả thi mà. Con biết là mình không thể.”
“Con nghĩ con làm được. Bạn con và con chỉ mới mở được cửa sổ giữa nơi đây và Địa ngục. Con dám cược là bọn con có thể mở được lối vào.”
Sau đó là im lặng ngột ngạt kéo dài. “Việc này là không thể. Chỉ thử thôi cũng có thể khiến con mất mạng.”
Tôi cố nhớ rằng đây là mẹ tôi. Nghĩa vụ của mẹ là nói cho tôi về những điều không thể nên tôi đành gật gật. Nhưng mẹ nhận ra và bắt đầu xù lông. Mẹ nói một hơi, dọa sẽ chuyển tôi khỏi Thunder Bay, mang tôi tránh xa khỏi Thomas và những trò phù thủy của cậu ấy. Mẹ thậm chí còn bảo sẽ lấy con dao tế và gửi nó cho Gideon.
“Con không nghe sao? Khi Gideon và mẹ bảo con điều gì đó, con có nghe không?” Môi mẹ mím chặt. “Mẹ ghét chuyện xảy ra với Anna. Không công bằng. Có thể là trường hợp bất công nhất mẹ từng nghe thấy. Nhưng con không được thử, Cas. Tuyệt đối không được.”
“Có đấy.” tôi gào lên. “Nhưng không chỉ có cô ấy. Cả hắn nữa. Tên khốn đó đã giết cha. Hắn cũng có ở đó. Nên con sẽ tìm hắn và sẽ giết hắn lần nữa. Con sẽ giết hắn một ngàn lần.” Mẹ bắt đầu khóc và tôi suýt chút nữa cũng khóc theo. “Mẹ đâu có nhìn thấy cô ấy.”
Mẹ phải hiểu. Tôi không thể ngồi yên tại bàn và cố ăn trứng khi biết em đang bị mắc kẹt ở đó. Có duy nhất một điều tôi nên làm, nhưng tôi không biết phải bắt đầu từ đâu.
Con yêu cô ấy, tôi suýt nói. Mẹ sẽ làm gì nếu đó là cha? Tôi suýt nói. Nhưng tôi kìm lại được. Mẹ gạt nước mắt tuôn xuống hai bên má và tôi biết mẹ đang nghĩ về cái giá phải trả, chuyện này sẽ tước đi của mẹ con tôi những gì. Tôi không thể nghĩ về điều đó nữa. Tôi rất rất tiếc, nhưng tôi không thể. Ngay cả nghĩ cho mẹ. Khi mà tôi cần phải hành động.
Tôi buông cái dĩa lên đĩa ăn cái cạch. Dẹp ăn uống. Dẹp cả học hành. Chỉ còn 4 ngày nữa là kết thúc năm học và hầu hết toàn là nghe phát biểu động viên. Tôi đã làm bài kiểm tra cuối cùng vào thứ Năm tuần trước và đạt điểm B+. Họ sẽ không đuổi học tôi đâu.
Có lẽ chó mực không nên ăn bánh bơ lạc. Cũng không nên uống sữa. Nhưng chắc chắn là chúng thích cả hai thứ đó. Con Stella gác đầu vào lòng tôi và nhấc gần như cả người lên những cái gối màu rượu chát của chiếc sofa tôi đang ngồi. Đôi mắt tròn xoe hết liếc mặt tôi lại đến ly sữa, nên tôi nghiêng cái ly sang một bên để cái lưỡi hồng tham lam của nó dễ bề làm việc. Uống xong, nó ợ một lời cảm ơn vào lòng bàn tay tôi.
“Không có gì,” tôi bảo và gãi gãi nó. Dù sao tôi cũng không muốn ăn. Tôi đến ngay cửa hàng sau bữa sáng mà tôi không ăn để gặp Morfran. Rõ ràng là ông ấy và Thomas đã thức cả đêm nói về nghi lễ bởi vì ông ấy trưng ra biểu cảm buồn bực và cảm thông sau cặp kính. Morfran nhanh chóng kéo tôi ngồi xuống ghế và mang đồ ăn vặt ra. Tại sao mọi người cứ ép tôi ăn thế?
“Đây, uống cái này đi,” Morfran không biết từ đâu xuất hiện và dí vào mặt tôi một cốc hỗn hợp thảo dược gì đó hơi khó ngửi và tôi né ra.
“Gì thế?”
“Thuốc hồi sức làm từ rễ cây bạch chỉ. Với một ít cây kế. Sau những gì gã pháp sư gây ra với gan của cháu mùa thu trước, cháu nên chăm chút cho nó.”
Tôi nhìn cái cốc hoài nghi. Nó nóng và có mùi như nấu với nước cống.
“Có an toàn không vậy?”
“Cháu không đang mang thai là được,” ông ấy khịt mũi. “Ông đã gọi cho Thomas. Nó đang trên đường về. Sáng nay, nó đi học vì tưởng cháu cũng thế. Vậy mà tự nhận là nhà ngoại cảm.”
Chúng tôi mỉm cười và nói đồng thanh, “Thỉnh thoảng mới có hiệu quả thôi,” bằng giọng của Thomas. Tôi ngập ngừng nếm hỗn hợp thảo dược. Vị còn tệ hơn cả mùi, đắng hơn và chẳng hiểu sao hơi mằn mặn.
“Ghê quá.”
“Sữa dùng để tráng dạ dày và bánh quy sẽ giúp cháu át được cái vị đó. Nhưng cháu cho con chó hết rồi, đồ ngốc.” Ông ấy vỗ mông con Stella và nó xuống khỏi ghế. “Nghe này nhóc,” Morfran nói và tôi dừng uống khi nghe giọng nói nghiêm nghị của ông ấy. “Thomas đã kể ông nghe điều cháu đang cố làm. Ông không nghĩ mình cần nhắc là cháu đang đi vào chỗ chết.”
Tôi nhìn xuống thứ chất lỏng màu xanh nâu. Tôi định nói một câu hài hước một chút như là thứ thuốc này sẽ giết cháu trước, nhưng tôi kìm lại.
“Nhưng,” ông ấy thở dài. “Ông cũng không định nói là cháu sẽ không có cơ hội. Cháu có năng lực, sức mạnh tỏa ra từ cháu theo cách mà ông chưa thấy bao giờ. Và nó không chỉ đến từ cái ba lô đó.” Ông ấy chỉ một ngón tay về phía cái ba lô bên cạnh tôi trên sofa rồi ngồi xuống trên thành chiếc ghế đối diện và vuốt râu. Dù ông ấy muốn nói gì thì cũng không dễ dàng. “Thomas sẽ ủng hộ cháu trong chuyện này,” ông ấy nói. “Ông có cố cũng không ngăn nó được.”
“Cháu sẽ không để chuyện gì xảy đến với cậu ấy, Morfran.”
“Đó là một lời hứa cháu không thể nói ra,” ông ấy nghiêm giọng nói. “Cháu nghĩ cháu sẽ chỉ phải chống lại những thế lực ở thế giới bên kia thôi sao? Cái gã tóc tết mờ ám muốn nuốt sống cháu ấy? Cháu sẽ cần may mắn.”
Tôi nhấp chỗ thảo dược. Ông ấy lại đang nói về trận cuồng phong đó. Những thứ Morfran cảm nhận được đang tiến về phía tôi, kéo, quật ngã tôi hay những điều ông ấy nói bằng cách hết sức mờ ám và vô dụng, tôi không quan tâm
“Nhưng ông sẽ không bảo cháu dừng lại,” tôi nói.
“Ông không biết liệu chuyện này có dừng lại được không. Ông nghĩ cháu sẽ phải làm tới cùng. Có thể cháu sẽ thoát ra được. Có thể cháu sẽ thoát ra được và trông giống như bãi chim nôn.” Ông ấy xoa xoa bộ râu, mơ màng. “Nghe này. Ông cũng không muốn cháu gặp chuyện. Nhưng nếu cháu ông bị thương hay tệ hơn nữa...” Ông ấy nhìn thẳng vào mắt tôi. “Cháu sẽ trở thành kẻ thù của ông. Cháu hiểu không?”
Mấy tháng qua, tôi đã xem Morfran cũng như ông mình. Trở thành kẻ thù của ông ấy là điều tôi không bao giờ muốn.
“Cháu hiểu.”
Ông ấy chộp lấy tôi, tay đưa ra như một con rắn và nắm lấy tay tôi. Trong cái khoảnh khắc một nguồn năng lượng làm máu tôi sôi lên dưới da, tôi để ý thấy chiếc nhẫn của ông ấy: một vòng tròn những đầu lâu chạm khắc. Như thế có nghĩa là tôi sẽ không chỉ trở thành kẻ thù của Morfran mà còn cả của tà thuật nữa.
“Đảm bảo là cháu hiểu đấy,” ông ấy nói và buông tay tôi ra. Cái thứ vừa mới chạy qua tôi làm trán tôi đẫm mồ hôi. Lòng bàn tay cũng thế.
Có tiếng leng keng ngoài cửa và Stella phóng ra ngoài đón Thomas, tiếng chân kêu lạch cạch. Cậu ấy trở về làm không khí bớt căng thẳng. Tôi và Morfran hít một hơi thật sâu. Tôi hy vọng lúc này khả năng đọc ý nghĩ người khác của Thomas không hoạt động và cậu ấy sẽ không để ý. Nếu không, cậu ấy sẽ hỏi vì sao trông chúng tôi lại ngượng ngập như vậy.
“Hôm nay không đi cùng Carmel à?” tôi hỏi.
“Cô ấy bị đau đầu nên ở nhà rồi,” cậu ấy đáp. “Cậu thấy sao rồi?”
“Như bị ném lên không trung gần 4 mét và đáp xuống đất đè lên những vết bỏng độ 2. Còn cậu?”
“Choáng váng và xìu như một cọng bún thiu. Với lại, tớ nghĩ có khi tớ quên mất một chữ trong bảng chữ cái rồi. Nếu tớ không xin phép về sớm thì cô Snyder cũng sẽ cho về thôi. Cô ấy bảo trông tớ xanh lắm. Nghĩ chắc tớ bị bệnh mono1.” Cậu ấy cười tươi. Tôi cười đáp lại và chúng tôi ngồi trong im lặng. Lạ lùng và đầy căng thẳng nhưng cũng khá thoải mái. Thật thoải mái khi được ngồi đây, kiềm chế và không để khoảnh khắc này trôi qua quá nhanh. Vì bất kỳ điều gì chúng tôi nói sau đây sẽ đẩy chúng tôi vào nguy hiểm. Tôi không nghĩ ai trong chúng tôi thực sự biết chuyện đó có thể dẫn tới đâu.
1 Mononucleosis: bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Bệnh này lây qua đường nước bọt nên còn được gọi là “bệnh của những nụ hôn”.
“Vậy là cậu sẽ cố làm chuyện này hả?” cậu ấy nói. Tôi ước giá như giọng cậu ấy không có vẻ quá do dự, quá hoài nghi như thế. Nhiệm vụ này có thể có kết cục bi đát nhưng không nhất thiết phải nghĩ vậy ngay từ đầu.
“Chắc vậy.”
Cậu ấy nhếch mép cười. “Cần giúp đỡ không?”
Thomas. Cậu ấy là người bạn thân nhất của tôi nhưng thỉnh thoảng, cậu ấy vẫn nói như thể mình chỉ là hàng đính kèm. Đương nhiên tôi muốn cậu ấy giúp. Còn hơn thế nữa. Tôi cần điều đó.
“Cậu không cần làm thế,” tôi nói
“Nhưng tớ sẽ giúp,” cậu ấy đáp. “Cậu biết bắt đầu từ đâu chưa?”
Tôi lùa tay lên tóc. “Không chắc nữa. Chỉ là có thôi thúc muốn hành động, như có một cái đồng hồ cứ tích tắc kêu ở đâu đó mà tớ nghe không rõ.”
Thomas so vai. “Có thể thế thật. Theo nghĩa ẩn dụ. Anna ở nơi đó càng lâu, thì cô ấy càng khó có thể đi đến một nơi khác. Có thể là cô ấy đã dính chặt vào nơi ấy rồi. Đoán thế thôi.”
Đoán. Nói thật, lúc này, tôi không cần những suy đoán về một viễn cảnh tồi tệ.
“Hãy cứ hy vọng đó không phải là một chiếc đồng hồ thực sự đi,” tôi nói. “Tớ nghĩ chắc là tại tớ đang sốt ruột. Cô ấy đã ở đó quá lâu rồi, Thomas. Một giây thôi cũng là quá lâu, nhất là sau những gì cô ấy đã làm vì bọn mình.”
Nghĩ về những gì em đã làm với những kẻ chạy trốn trong tầng hầm nhà mình - tất cả những thiếu niên đến nhầm chỗ và những kẻ lang thang mắc kẹt trong mạng nhện của em - hiện lên trên gương mặt cậu ấy. Người khác sẽ cho rằng Anna bị trừng phạt như thế là xứng đáng. Có thể có rất nhiều người nghĩ vậy. Nhưng không phải tôi. Anna bị kìm hãm bởi lời nguyền lúc em bị giết hại. Mọi nạn nhân của em đều chết do lời nguyền đó, chứ không phải do em. Tôi nghĩ thế. Tôi biết rõ chẳng ai trong số những người bị em giết có suy nghĩ giống mình.
“Bọn mình không thể vội được đâu, Cas,” Thomas nói và tôi đồng tình. Nhưng chúng tôi cũng không thể chần chừ.