Chúng tôi dọn đồ đạc của hai cô gái vào phòng Thomas và tôi, nhưng sau đó, không ai đi ngủ lại. Thomas và Carmel chỉ ngồi bên nhau trên giường của cậu ấy, ôm ấp và chẳng nói gì nhiều. Jestine nằm đắp chăn trên giường tôi, còn tôi ngồi trên chiếc ghế bên cửa sổ và nhìn ra hồ cho tới bình minh.
“Cú ném đó đúng là tuyệt cú mèo,” Jestine nói với tôi, có lẽ là cố làm lành và tôi ậm ừ vài câu vì chưa sẵn sàng nói chuyện với cô ta. Tôi nghĩ có khi cô ta đã đi ngủ nhưng thấy áy náy nên lại thôi khi trông thấy Carmel sợ hãi thế nào. Ngay khi trời đủ sáng, chúng tôi bắt đầu bình tĩnh lại.
“Đã thanh toán rồi,” Jestine nói và nhét bộ đồ ngủ vào ba lô. “Tôi nghĩ chúng ta chỉ cần để chìa khóa trên quầy rồi đi luôn.”
“Cô có chắc là chúng ta sẽ đến được chỗ Hội tối nay không?” Carmel hỏi, nhìn ra ngoài trời đầy sương và cây cối. Trời tối đen và không thấy gì. Dường như nó sẽ như thế mãi.
“Kế hoạch là thế,” Jestine đáp và chúng tôi khoác ba lô lên vai.
Chúng tôi đi xuống cầu thang, cố gây ít tiếng động hết sức có thể. Nhưng tôi nghĩ điều đó không cần thiết, khi mà lúc 3 giờ sáng, chúng tôi đã gây náo loạn cả rồi. Tôi tưởng tất cả đèn đóm sẽ bật lên sáng trưng, người chủ quán trọ sẽ đập cửa và lao vào, tay cầm gậy bóng chày. Có điều ở đây, họ không chơi bóng chày. Nên có thể họ sẽ cầm một cây gậy cricket, hoặc một cái gậy lớn, tôi không biết nữa.
Đến chân cầu thang, tôi chìa tay nhận 2 chùm chìa khóa. Tôi sẽ để chúng gần quầy thu ngân.
“Hy vọng là tối qua không vỡ cái gì.”
Giọng nói cất lên đường đột đến nỗi Thomas giật mình trượt chân ở mấy bậc thang cuối cùng, khiến Carmel và Jestine phải đỡ cậu ấy. Đó là chủ quán trọ, một người phụ nữ tóc hoa râm, hơi đậm người. Bà ta đứng sau quầy, nhìn chằm chằm chúng tôi trong khi lau khô mấy cái ly bằng một chiếc khăn trắng.
Tôi đến quầy và đưa chìa khóa. “Không ạ,” tôi nói. “Không vỡ gì cả. Cháu xin lỗi nếu đã phá hỏng giấc ngủ của cô. Bạn cháu gặp ác mộng và mọi người làm quá lên.”
“Làm quá,” bà ta nói và nhướng mày. Khi tôi đưa chùm chìa khóa, bà ta chụp lấy, nói đúng hơn là giằng khỏi tay tôi. Giọng bà ta trầm thấp. Bà ta nói giọng địa phương đặc sệt, lại còn ngậm tăm nên càng khó nghe hơn. “Tôi phải tính mấy cô cậu phí thêm một đêm nữa,” bà ta nói. “Vì từ giờ trở đi, quán trọ sẽ phải cố gắng hơn.”
“Cô gắng hơn?” tôi hỏi.
“Mỗi quán trọ Scotland đều cần một hồn ma,” bà ta nói, đặt một cái ly xuống và bắt đầu lau một cái khác. “Một câu chuyện để câu khách. Một vài tiếng bước chân lang thang trong hành lang trống vắng vào ban đêm.” Bà ta ngước nhìn tôi. “Chắc là từ giờ trở đi, tôi sẽ phải tìm cách tự làm lấy việc đó.”
“Cháu rất tiếc,” tôi nói, thật lòng. Tôi nghiến răng, rất muốn quay lại lườm Jestine, nhưng như thế cũng chẳng để làm gì. Cô ta sẽ chỉ chớp mắt vô tội, chẳng biết mình sai cái gì. Tôi không thích cái ý nghĩ đi theo cô ta khắp cái đất nước xa lạ này. Nhất là khi cô ta đủ thông minh để dụ tôi phá vỡ nguyên tắc của bản thân.
“Thế là thế nào?” Thomas hỏi khi chúng tôi ra bên ngoài. “Làm sao bà chủ quán trọ biết vậy?”
Không ai trả lời. Tôi không biết. Nơi này thật kỳ lạ. Người mà bạn chỉ thoáng gặp lại đều có liên quan tới pháp thuật, như thể tất cả đều là họ hàng xa với Merlin1. Bà chủ quán trọ là một người phụ nữ bình thường, nhưng nói chuyện với bà ta có cảm giác như nói với một Hobbit2. Bây giờ, cái lạnh cũng trở nên bất thường và những hàng cây đen thui kia cũng có vẻ hơi quá đen. Nhưng chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo Jestine. Cô ta dẫn đường xuống một con đường gồ ghề, chỗ chúng tôi cho đầy nước vào chai từ một vòi nước công cộng rồi vào một lối nhỏ rải sỏi xuyên qua rừng.
1 Một pháp sư trong truyền thuyết về vua Arthur.
2 Giống người lùn trong tiểu thuyết của J. R. R. Tolkien.
Khi mặt trời lên cao hơn và rốt cuộc có thể trông thấy được qua ngọn cây, mọi thứ dường như sáng sủa hơn. Đi bộ cũng không mệt lắm, chỉ qua vài con đường mòn bằng phẳng và vài ngọn đồi. Nhiều người đi qua chúng tôi trên đường quay về Hồ Loch và xa hơn. Tất cả đều trông vui vẻ, dãi dầu sương gió và bình thường trong trang phục ngoài trời của nhãn hàng REI với mũ lưỡi trai kaki. Chim chóc và những động vật có vú nhỏ chuyển động sột soạt trong những bụi rậm và trên những nhánh cây. Jestine chỉ cho chúng tôi vài con màu sắc nổi bật. Lúc chúng tôi dừng chân ăn trưa với trái cây mang theo và ngũ cốc nén, sắc mặt của Carmel đã trở về bình thường.
“Đi đường này mấy tiếng nữa, sẽ có một lối đi dẫn vào rừng.”
“Ý cô là gì?” tôi hỏi.
“Đi thêm nửa ngày nữa sẽ thấy đánh dấu,” Jestine đáp.
“Đánh dấu gì?”
Jestine nhún vai và cả ba đứa tôi đưa mắt nhìn nhau. Carmel hỏi liệu ý cô ta có phải là Hội không, nhưng tôi biết là không phải. Cô ta không biết dấu hiệu đó là gì.
“Cô nói cô từng đến đây rồi mà,” tôi nói và mắt cô ta mở to vô tội. “Cô nói cô biết đường.”
“Tôi chẳng có nói gì như vậy hết. Tôi đã từng đến Hội, nhưng tôi không biết chính xác đường đi và đương nhiên không phải là đi bộ.” Cô ta cắn một thanh ngũ cốc. Tiếng rồn rột nghe như xương gãy.
Tôi nhớ lại. Jestine không nói thế thật. Gideon nói cô ta biết đường. Nhưng có khi ông chỉ có ý bảo cô ta được nghe kể chứ không phải tự đi bao giờ.
“Làm sao cô đến đó được trong khi chẳng biết nó ở đâu? Chẳng phải cô được nuôi dạy ở đó sao?” tôi hỏi.
“Tôi được cha mẹ nuôi dạy,” cô ta nói, nhướn mày nhìn tôi. “Tôi đến đó mấy lần. Nhưng lần nào cũng bị bịt mắt.”
Thomas và tôi nhìn nhau, chỉ để xác nhận cô ta điên rồi.
“Đó là truyền thống,” Jestine nó khi thấy ánh mắt kia. “Không ai được phá vỡ, các cậu biết đấy.” Tôi không phải hỏi thế có nghĩa là gì.
“Cô gây chuyện ở quán trọ đấy, Jestine.”
“Thật sao? Bà ta chết rồi và con dao tế gửi bà ta đi.” Cô ta nhún vai. “Đơn giản thôi mà.”
“Không đơn giản đâu,” tôi nói. “Có thể linh hồn đó chưa bao giờ làm hại ai.”
“Thì sao? Bà ta không thuộc về nơi này. Bà ta đã chết. Và đừng có nhìn tôi như thể tôi bị tẩy não vậy. Chuẩn mực đạo đức của cậu không phải là chuẩn mực duy nhất trên thế giới này. Chỉ bởi nó là của cậu, không có nghĩa là nó đúng.”
“Nhưng cô không tự hỏi họ có thể được gửi đi đâu sao?” Thomas hỏi, cố gắng ôn hòa, vì tôi sắp giơ ngón giữa với Jestine rồi. Hoặc thè lưỡi.
“Con dao tế gửi họ đến nơi họ cần đến thôi,” cô ta đáp.
“Ai bảo cô thế? Hội ư?”
Jestine và tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Cô ta phải nhìn ra chỗ khác trước. Mắt tôi có bị khô cũng được.
“Đợi chút,” Carmel nói. “Có phải cô định nói rằng không ai biết chúng ta sẽ đi đâu?” Cô ấy nhìn quanh, khuôn mặt không biểu cảm của chúng tôi xác nhận điều đó. “Có phải chúng ta phải rời con đường quang để đi xuyên rừng rậm không có đánh dấu?”
“Có đánh dấu mà,” Jestine bình tĩnh nói.
“Là gì? Một lá cờ hay là sao? Trừ phi có một hàng cờ cắm dọc khu rừng, tôi không thấy yên tâm.” Cô ấy nhìn tôi. “Cậu đã nhìn ra ngoài cửa sổ sáng nay rồi đấy. Rừng cây này trải dài hàng dặm. Và bọn mình thậm chí không có lấy một chiếc la bàn. Người ta chết thế này đấy.”
Carmel nói đúng. Người ta chết vì lý do này. Thường xuyên hơn ta tưởng. Nhưng Gideon biết chúng tôi sẽ đến. Nếu chúng tôi không xuất hiện đúng lịch trình, ông sẽ cho người đi tìm. Vả lại, trong thâm tâm, tôi không tin rằng chúng tôi có thể bị lạc. Nhìn Jestine, tôi nghĩ cô ta cũng tin thế. Nhưng làm sao tôi có thể giải thích cho Carmel đây?
“Thomas, cậu từng tham gia hướng đạo sinh lần nào chưa?” tôi hỏi và cậu ấy lừ mắt với tôi. Đương nhiên là chưa. “Nghe này, nếu muốn, các cậu chỉ việc đi ngược lại con đường này về quán trọ.”
Thomas căng thẳng khi nghe lời đề nghị này nhưng Carmel chỉ khoanh tay trước ngực. “Tớ sẽ không đi đâu cả,” cô ấy ương ngạnh nói. “Tớ chỉ nghĩ mình phải nói ra rằng chuyện này rất ngu ngốc và bọn mình có thể sẽ mất mạng.”
“Hiểu,” tôi nói và Jestine mỉm cười. Nụ cười khiến tôi cảm thấy nhẹ người. Cô ta không để bụng. Bạn có thể bất đồng với Jestine mà không trở thành kẻ thù. Từ lúc quen Jestine, hầu như lúc nào tôi cũng muốn thắt cổ cô ta nhưng tôi thích thế.
“Chúng ta nên đi ngay,” cô ta nói. “Kẻo không tới nơi trước trời tối.”
Sau một tiếng và không biết bao nhiêu dặm đường, Jestine bắt đầu đi chậm lại. Thỉnh thoảng, cô ta dừng lại và nhìn quanh. Cô ta nghĩ chúng tôi đã đi đủ xa. Giờ thì Jestine lo sẽ không tìm thấy đánh dấu. Khi cô ta dừng lại tại một đỉnh đồi nhỏ, chúng tôi bỏ ba lô ra và ngồi xuống trong khi cô ta vẫn đang nhìn trân trân. Dù có những đôi giày tốt và một cơ thể khỏe mạnh, tất cả đều mệt nhoài. Carmel đang xoa xoa mặt sau đầu gối trong khi Thomas xoa vai. Cả hai đều hơi nhợt nhạt và có vẻ lạnh.
“Đây rồi,” Jestine nói, bằng cái giọng cho thấy cô ta vẫn biết nó sẽ ở đó. Cô ta quay lại với chúng tôi, ra vẻ thắng lợi, mắt lóe lên tinh quái. Dọc theo đường mòn, tôi trông thấy một sợi dây ruy băng đen cột quanh một gốc cây, cách mặt đất khoảng 5 mét.
“Chúng ta sẽ rời con đường mòn tại chỗ đó,” cô ta bảo. “Và bên kia là Hội. Gideon nói chỉ đi xuyên rừng chừng 2 giờ đồng hồ. Còn chỉ vài dặm nữa thôi.”
“Chúng ta đi được,” tôi nói với Thomas và Carmel. Họ đứng lên, nhìn sợi ruy băng và cố gạt đi lo lắng.
“Ít ra nền đất rừng cũng sẽ mềm hơn,” Thomas nói.
Jestine mỉm cười. “Đúng vậy. Đi nào.”