Buổi sáng mùa thu năm Ất Sửu(1), trời xanh chứa đầy mây trắng, dòng kênh Thày nhộn nhạo dồn nước ra biển, sóng nối nhau dập dềnh lên xuống. Một cánh buồm nâu no gió lôi con thuyền xé nước băng băng, đã thế, người lái đò cường tráng đầu thắt dải nhiễu màu tím. mình vận quần áo thâm hai tay nắm hai mái chèo lại giật từng nhát mạnh mẽ. Anh ta muốn bay nhanh hơn thời gian. Trong khoang thuyền, một vị nho sinh mắt sáng mày thanh, thân hình nhỏ nhắn, ngồi khoanh chân, trầm ngâm suy nghĩ. Đó là Trịnh Khiển Lâm, một nho sĩ ở ẩn trong rừng Mơ(2), phủ Tống Bình(3), mở trường dạy học. Ông là bậc hiền tài, có mối quan hệ đồng tâm đồng chí với Khúc Thừa Dụ - hào trưởng miền Hồng Châu(4). Con trai ông - Trịnh Khiển Sơn tài giỏi thao lược hơn cha, nhưng thích chu du đây đó, anh có mười năm đèn sách thì cũng có mười năm lên rừng xuống biển tìm hiểu hình thế núi ông, phong tục địa phương. Khi nắm chắc tình hình biến động, Trịnh Khiển Lâm quyết định đi Hồng Châu cùng Khúc Thừa Dụ mưu khởi sự. Ông muốn con cùng đi, thêm người việc làm càng nhanh. Nhưng, Khiển Sơn thưa:
(1) Năm 905.
(2) Gốm Mai Động, Bạch Mai, Hoàng Mai, Hồng Mai, Tương Mai.
(3) Tống Bình = An Nam Đô hộ phủ = La Thành = Đại La Thành là tên xưa của Hà Nội
(4) Thuộc Ninh Giang, Hải Dương
- Có cha rồi, thêm con cũng không ích mấy. Thời cơ ngàn năm chỉ có một, ra tay cần nội công ngoại kích mới nhanh gọn. Cha đi lo mặt ngoại kích, con ở nhà xếp đặt nội công. Phen này đại sự không thành là do con người tính vụng chứ không phải bởi trời không cho cơ hội.
Khiển Lâm đồng ý. Ông cùng Đoàn Hồng Ngọc - một môn sinh khỏe mạnh ngồi thuyền ra Hồng Châu.
Hồng Châu là miền đất trù phú nằm trong lưu vực sông Luộc và sông Thái Bình, rạch ngòi ngang dọc tràn trề sức sống, rừng cây nhiều muông thú điểm xuyết cho những cánh đồng lúa phì nhiêu.
Hào trưởng Khúc Thừa Dụ đang dùng bữa, thoáng thấy Trịnh Khiển Lâm đi vào cống, vội nhả miếng cơm xuống bát, bước rảo ra đón bạn, hớn hở lên tiếng:
- Chỉ mong Hộ Pháp mà Phật giáng lâm!
Trịnh Khiển Lâm chỉ tay vào trong nhà, chân bước miệng giục:
- Không có nhiều thời gian, cho thày trò đệ ăn cơm rồi bàn chuyện.
*
Từ ngày An Dương Vương xao lãng cảnh giác, gần thù xa bạn khiến đất nước Âu Lạc rơi vào tay bọn giặc bạo ngược phương Bắc đến nay đã một ngàn năm. Một ngàn năm đất nước bị bòn rút, nhân dân bị dày xéo, xương chất thành núi, máu chảy thành sông, nước mắt và mồ hôi lênh láng đồng nội... Nhưng, ý chí quật cường của con cháu Rồng Tiên không bao giờ nhụt. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra, đáng kể nhất là Trưng Nữ Vương (39-43), Lệ Hải Bà Vương (248), Lý Nam Đế (542-602), Mai Hắc Đế (713-722), Bố Cái Đại Vương (767-768). Cuối thế kỷ thứ IX, đầu thế kỷ thứ X, nhà Đường bước sang giai đoạn hấp hối, phương Bắc lâm vào thời kỳ đại loạn "Ngũ đại, thập quốc"(1), chúng dồn lực lượng thôn tính lẫn nhau. Gông cùm đô hộ Giao Châu lông lẻo. Đây là thời cơ vận hội cho các anh hùng hào kiệt xuất đầu lộ diện, phục quốc cứu dân. lập công danh ở đời.
(1) 5 triều đại: Hậu Đường, Hậu Lương. Hậu Tấn. Hậu Hán và Hậu Chu. 10 nước: Hậu Thục. Ngô, Nam Đường. Tiền Thục. Ngô Việt, Mân. Sở, Kinh Nam. Bắc Hán và Nam Hán.
*
Cơm nước xong, hai người bạn đồng tâm đồng chí đề cập vấn đề cấp bách nhất, nóng hổi nhất mà họ vẫn quan tâm. Trịnh Khiển Lâm trình bày cục diện:
- Trung Quốc bước vào thời kỳ đại loạn. Quốc gia to lớn ấy bị xé thành nhiều mảnh cát cứ. Mặt Bắc các tiểu quốc Tần, Hàn, Chu, Thục, Sở như lũ chó dữ nhốt chung chuồng không ngừng cắn xé nhau. Mặt Tây: nước Nam Chiếu từng đánh cho Tiết độ sứ Tăng Cổn thất điên bát đảo phải bỏ An Nam đô hộ phủ chạy trốn sang Ung Quản(1), nay đang thời kỳ cực thịnh. Mặt Nam: cương vực họ Lý bị dồn xuống nam, duy trì nhà nước Nam Đường ốm yếu, Đường Chiêu tông phái Độc Cô Tổn sang An Nam làm Tiết độ sứ thay Chu Toàn Dực chưa ngồi ấm chỗ lại bị phe phái đối lập trong triều đình hặc tội bị biếm chức, Tổn sợ bỏ chạy ra đảo Hải Nam, An Nam đô hộ phủ là con rắn không đầu. Chu Ồn - em trai cựu Tiết độ sứ Chu Toàn Dục lăm le cướp ngôi nhà Đường để lập nhà Hậu Lương, họ Lưu(2) cũng toan tính khoanh vùng Lưỡng Quảng(3) khôi phục vị thế Hậu Hán. Triều đình Nam Đường rối loạn, chẳng khác gì người ốm thoi thóp thở chờ chết. An Nam ta bỏ ngỏ! Đây là cơ hội phục quốc! - Ông bất chợt chuyển sang giọng hỏi: - Công việc trù liệu của đại huynh đến đâu rồi? Nét mặt Khúc Thừa Dụ vui hẳn lên, công trình vất vả ngược xuôi quả đã đến lúc dùng đến. Ông đáp:
(1) Thuộc Quảng Đông. Trung Quốc.
(2) Chỉ Lưu Cung.
(3) Quảng Đông. Quảng Tây.
- Ngay khi nhận được thư của hiền đệ, ngu huynh đã lo rèn gươm giáo, soạn cung tên và cho tráng đinh vào rừng luyện võ nghệ tập dàn binh bố trận.
Trịnh Khiến Lâm hỏi:
- Đại huynh đã liên hệ với hào trưởng các nơi chưa?
Khúc Thừa Dụ rót nước vừa đưa mời bạn vừa đáp:
- Nhiều hào trưởng hứa nếu Hồng Châu dựng cờ dấy nghĩa họ sẽ dẫn trai tráng đến hưởng ứng.
Trịnh Khiển Lâm hỏi tiếp:
- Trong tay đại huynh có bao nhiêu tráng sĩ?
Khúc Thừa Dụ:
- Có ba ngàn tráng đinh dùng được!
Trịnh Khiển Lâm hớn hở nhận định:
- Vậy là đủ dùng!
Khúc Thừa Dụ gặng hỏi:
- Đã nên khởi sự chưa?
Trịnh Khiển Lâm đặt cả hai bàn tay xuống bàn như đã tìm thấy điểm tựa vững chắc để có thể thực hiện được mọi hành vi:
- Khởi sự càng sớm càng tốt. Để vuột mất thời cơ phục quốc là có tội với các bậc tiền liệt.
Ngay đêm ấy, hai vị hào kiệt chụm đầu bày mưu tính kế. Sáng hôm sau, sai Đoàn Hồng Ngọc về Tống Bình, thông báo cho Trịnh Khiển Sơn biết cần sắp xếp kế hoạch phối hợp hành động với lực lượng đang có.
*
Trịnh Khiển Sơn xuống lò võ Mai Động. Nguyễn Tam Thanh - hậu duệ của tướng quân Nguyễn Tam Trinh ra đón khách.
Trịnh Khiển Sơn ngắm hình dáng hùng tráng, bước đi uyển chuyển của Trưởng môn võ phái Mai Động, phấn khởi lên tiếng:
- Thày chúng ta liệu định thực tài tình. Nếu không có lời thày khuyên, huynh cứ cặm cụi bên bút nghiên, thì sao có được phong độ long phi hổ bộ(1) này.
(1) Rồng bay hổ bước.
Nguyễn Tam Thanh đặt bàn tay lên tấm ngực rộng của mình, biểu lộ sự đồng tình với lời đánh giá đúng đắn ấy. đồng thời vui vẻ bộc lộ sự tri ân chân thành:
- Tâm huyết của thày dồn cả cho chúng ta!
Quả là thày hô trò ứng, thày giỏi ắt có trò hay! Bình sinh Trịnh Khiển Lâm chỉ ấp ủ tư tưởng phục quốc, chỉ nung nấu một khát vọng phục quốc. Ông thu nạp học trò cũng chỉ nhằm đào tạo nên những nhân tài có khả năng phục quốc. Ông kén chọn những môn đồ coi trọng nghĩa cử, xem nhẹ danh lợi để gửi gấm chí hướng, Nguyễn Tam Thanh là một trong số môn đồ đặc biệt ấy của ông. Nhận thấy Tam Thanh có năng khiếu về võ, ông đem binh pháp Tôn Tử truyền dạy cho anh. Khi Tam Thanh đã tiếp thu được những điều cốt lõi của binh pháp, Trịnh Khiển Lâm gọi riêng anh lên bảo:
- Ngài thuỷ tổ hiền đồ thành danh từ nghiệp võ, thày muốn hiền đồ nối chí hướng tiền nhân, có dụng công hẳn có phen đắc dụng.
Nguyễn Tam Thanh vâng lời thày và thực hiện được những điều ước vọng của thày. Không những anh tinh thông võ nghệ mà còn có hàng trăm dũng sĩ đang là đệ tử võ phái Mai Động. Anh nói với Trịnh Khiển Sơn:
- Cuộc đời thày dồn cho môn đồ, cho công cuộc phục quốc. Tam Thanh phụ lòng mong muốn của thày thì không còn là Trưởng môn võ phái Mai Động nữa.
Trịnh Khiển Sơn hồ hởi nhận định:
- Nghe tiếng con hổ gầm là biết nó đang muốn bộc lộ.
Nguyễn Tam Thanh khảng khái hỏi:
- Hẳn thày muốn dùng đến nghề mọn của lò võ Mai Động này?
Trịnh Khiển Sơn bước theo Nguyễn Tam Thanh vào nhà, sau khi yên vị chủ khách, anh lên tiếng:
- Thời cơ phục quốc đã tới! Từ ngày Độc Cô Tổn bị biếm chức, An Nam đô hộ phủ như rắn không đầu, bên nước giặc hỗn loạn, chúng đang tìm cách tiêu diệt nhau nên không thể quan tâm tới Giao Châu. Bốn ngàn quân chủ lực Đường do tướng Lý Bính chỉ huy đều đồn trú trong thành Tống Bình đang hoang mang vì không thể trông cậy sự giúp đỡ của chính quốc. Hơn hai ngàn ngụy quân do ngụy tướng Đoàn Thao cầm đầu không có tinh thần chiến đấu, đã có tới hơn trăm lính bỏ trốn. Nếu ta chiếm được Tống Bình thì coi như đã hoàn thành sự nghiệp phục quốc.
Nguyễn Tam Thanh vỗ mạnh hai bàn tay.
- Nghe hiền đệ nói mà ngu huynh như thấy cảnh hồi sinh huy hoàng của đất nước - Anh chắp hai tay đặt lên bàn, nhìn chằm chằm Trịnh Khiển Sơn như muốn thúc khối óc mẫn tiệp ấy bật ra mưu hay kế lạ: - Nhưng, ao sâu cá lớn, trong tay không đăng đó, không mành lưới… Vài trăm người chúng ta có thể làm gì?
Trịnh Khiển Sơn đáp:
- Vài trăm người Tống Bình đồng lòng dốc sức kết hợp với năm ngàn tráng sĩ Hồng Châu do đầu lĩnh Khúc Thừa Dụ chỉ huy đủ làm nên đại sự.
Nguyễn Tam Thanh:
- Vậy là thày đã có trù liệu từ trước! Hiền đệ hãy cho ngu huynh biết: Thành Đại La tường cao hào sâu, ta tấn công bằng cách nào?
Trịnh Khiển Sơn đáp:
- Dùng nội công ngoại kích là thượng sách.
Nguyễn Tam Thanh vỗ bàn:
- Vậy thì ngu huynh biết việc mình phải làm rồi. Phái võ Mai Động xin nhận nhiệm vụ mở cổng thành Cửa Đông!
Trịnh Khiển Sơn yêu cầu:
- Đại huynh hãy nói rõ cách khai thông cổng thành?
Nguyễn Tam Thanh giải thích:
- Đột nhập vào Cửa Đông không khó. Hàng ngày, có hàng chục người vùng rừng mơ này, gánh mơ vào bán cho dân Hà Khẩu(1) và vợ con lính trong thành. Ngu huynh chọn mười dũng sĩ cảm tử làm nhiệm vụ tiền nhập, mỗi lần cho hai người giả làm dân bán mơ trà trộn vào đó rồi ở lại. Vợ con lính hoặc lính có nhiều người là dân vùng rừng mơ nên việc ăn ở có thể giữ kín.
(1) Hàng Buồm.
Trịnh Khiển Sơn gật đầu đánh giá:
- Hay! Đại huynh trù liệu như thế có tài thánh mới phát hiện nổi. Đệ sẽ bảo anh em bán cỏ ở Hàng Cỏ(1) áp dụng phương pháp tiềm nhập của huynh.
(1) Ga xe lửa Hà Nội - vốn là chợ bán cỏ ngựa.
Nguyễn Tam Thanh bất chợt chuyển đề tài:
- Được giết kẻ thù trả mối hận chứa chất hàng ngàn năm thực hả dạ. Nhờ hiền đệ thưa với thày cho ngu huynh chỉ huy quân tiên phong.
Trịnh Khiển Sơn biết Tam Thanh tính nóng, nếu mặc cho anh ta hành động theo tình cảm bột phát có thể dẫn đến tình huống khôn lường làm phương hại tới đại cục, nên lựa lời:
- Tất nhiên chẳng ai dùng dao bàu chém sẻ. Ngu đệ xin liệu giúp đại huynh...
Nguyễn Tam Thanh chờ nghe nhưng thấy Khiển Sơn không nói tiếp ông giục bằng cách nói khích:
- Hiền đệ nổi tiếng trong đám học trò là người có bộ óc mẫn tiệp, cớ sao bữa nay suy tính lâu thế?
Trịnh Khiển Sơn xoa xoa tay chậm rãi trình bày phương án đánh giặc.
- Muốn chu toàn đại cục thì không thể hồ đồ nóng vội, nhất là đối với những công chuyện có liên quan tới sự thành bại. Ngu đệ nghĩ, bọn lính giặc thường ngủ trong túi, nếu ra tay bất ngờ thì có thể bắt giặc như nhặt cua trong giỏ.
Nguyễn Tam Thanh biết đó là gợi ý quý giá, ông đáp:
- Ngu huynh sẽ dùng mẹo mở cổng thành êm thấm.
Trịnh Khiển Sơn chưa hết băn khoăn:
- Vẫn chưa đủ! Lý Bính là viên hổ tướng sức địch muôn người, hắn có thể cản trở bước tiến của quân ta để quân của hắn có thời gian vùng dậy tổ chức chống cự.
Nguyễn Tam Thanh đã nắm vững cục diện, ông vạch kế hoạch với niềm tin tất thắng:
- Hiền đệ thử nghe ngu huynh luận việc: Ghế Tiết độ sứ không có người ngồi, Lý Bính dẫu là hổ tướng nhưng một cột chẳng dựng nổi nhà, lại nhìn tình thế hỗn loạn bên chính quốc, dù tính cương cường lòng cũng sinh nản, quân lính không bị đốc thúc ráo riết càng chểnh mảng việc canh phòng; lại thêm, mấy chục năm qua Giao Châu không xảy biến động đáng kể khiến địch càng chủ quan. Trong tay Lý Bính có bốn ngàn quân người Đường, một ngàn quân đóng ở Đông Bộ Đầu, một ngàn quân chia nhau bảo vệ cửa Nam và cửa Tây, hai ngàn quân do Lý Bính thống suất giữ cửa Đông. Nếu dàn trận theo kế kìm hãm Đông Bộ Đầu, bao vây cửa Nam, khống chế cửa Tây đột nhập qua cửa Đông thì việc tiêu diệt bọn Lý Bính không còn là chuyện khó.
Trịnh Khiển Sơn đặt vấn đề:
- Đại huynh chưa tính đến hơn hai ngàn ngụy quân dưới quyền ngụy tướng Đoàn Thao.
Nguyễn Tam Thanh phẩy tay tỏ ý đã có giải pháp hữu hiệu:
- Đoàn Thao là rể làng Mai Động. Ông Trần Vấn Kiện - bố vợ Thao là người có tâm huyết với sự nghiệp phục quốc. Ngày khởi sự ngu huynh sẽ nhờ ông Vấn Kiện gọi hắn ra ăn giỗ rồi giữ lại. Quân không tướng như hổ không đầu, ngụy quân không có lệnh của tướng chỉ huy ắt chẳng kéo ra đánh hôi giúp bọn Đường.
Trịnh Khiển Sơn đồng ý:
- Đại huynh tính việc kín kẽ. Chúng ta cứ theo kế này mà tiến hành.
*
Đoàn Hồng Ngọc ra Hồng Châu báo cáo kế hoạch phối họp hành động với Khúc Thừa Dụ và Trịnh Khiển Lâm.
Khúc Thừa Dụ đếm ngón tay rồi nói:
- Trịnh điệt ấn định khởi sự giờ Hợi ngày Nhâm Thân, như vậy chỉ còn ba ngày nữa. Có gấp quá không?
Trịnh Khiển Lâm đáp:
- Khiển Sơn liệu việc chu đáo, cháu ấn định như vậy hẳn đã tính toán kỹ càng. Đêm dài lắm mộng, thời cơ là tiền định không thể bỏ lỡ.
Đoàn Hồng Ngọc thưa:
- Tiểu chủ muốn quân chia làm hai cánh, đêm đi ngày nghỉ, tới Tống Bình, cánh ẩn trong rừng mơ Mai Động tấn công cửa Đông, một cánh chia làm hai, một bộ phận ẩn trong rừng bàng Ngọc Khánh uy hiếp cửa Tây; một bộ phận náu dưới rừng dừa Thịnh Hào tấn công cửa Nam.
Khúc Thừa Dụ hỏi:
- Mạn Đông Bộ Đầu(1) thì sao?
(1) Dốc Hàng Than
Đoàn Hồng Ngọc thưa:
- Năm trăm nam nữ tráng đinh phường vạn chài Cơ -Xá(2), thợ vôi đá Giang Tân(3), dân nông tang Nghi Tàm... làm nhiệm vụ nghi binh khống chế.
(2) Phường Phúc Xá
(3) Phường Thạch Khối
Thủ lĩnh Khúc Thừa Dụ chấp nhận kế hoạch tiến binh. Ông giao nhiệm vụ:
- Khúc Thừa Hạo và Đoàn Hồng Ngọc chỉ huy cánh quân hướng Nam, ta và Trịnh hiền đệ dẫn cánh quân hướng Đông. Hôm nay chuẩn bị, giữa giờ Dậu(1)ngày mai khởi hành, đầu giờ Mão(2) ngày kia phải có mặt ở địa điểm tập kết.
(1) Khoảng 6 giờ chiều
(2) Khoảng 5 giở sáng.
Mấy giờ sau, trang trại Hồng Châu nô nức như mở hội. Có dịp xả thân diệt giặc phục quốc ai nấy đều hăm hở.
*
Nguyễn Tam Thanh đến nhà Trần Vấn Kiện, đem việc muốn "dụ hổ rời hang" bàn với chủ nhà.
Trần Vấn Kiện chỉ là một phú ông chốn thôn quê vùng ngoài đô thành Đại La, nhưng lấy khát vọng phục quốc mà so sánh thì khắp Tống Bình này ít người mang tâm trạng da diết nổi trội hơn cụ. Cụ biết mình tài hèn không thể kham nổi việc lớn, nhưng quyết không chịu thua kém ai trong lo toan việc nghĩa. Khi rõ nguyên uỷ công chuyện Nguyễn Tam Thanh đề xuất, Trần Vấn Kiện hớn hở hưởng ứng:
- Vậy thì lão già này không phải là kẻ vô ích rồi - Cụ bất ngờ đấm ngực nói lớn - Công cuộc phục quốc mà thành thì Kiện này có thể yên tâm nhắm mắt. Nhà lão có năm con bò, bảy con lợn, ba vựa thóc xin hiến nghĩa quân hết.
Nguyễn Tam Thanh ngờ chủ nhà hiểu sai dụng ý của mình nên nói lại:
- Anh em chúng con muốn bớt nỗi lo về hai ngàn lính dưới quyền tướng quân Đoàn Thao nên chỉ dám phiền cụ làm giỗ tạo cớ gọi Đoàn Thao ra ngoài này rồi giữ ở nhà chứ không có ý gì khác.
Ông lão vuốt râu cười khà khà, cụ lên tiếng thế hiện sự vui vẻ thoải mái chứ không hàm ý chê trách:
- Trưởng võ môn ngỡ lão nghễnh ngãng chăng? Việc làm cỗ, gọi con rể ra đây, lão chu tất. Ngoài số gạo thịt lão hiến nghĩa quân làm lương ăn, lão sẽ nói với các bạn của lão ở Vĩnh Tuy, Ông Mạc, Tả Nhất(1) Khang Thọ(2)... về nghĩa cử họ chẳng chịu thua kém người.
(1) Cuối phố Huế- Hà Nội.
(2) Ô Cầu Dền - Hà Nội.
Nguyễn Tam Thanh tỏ ý ngần ngại:
- Tiểu sinh e...
Trần Vấn Kiện xua tay ngắt lời:
- Lão hiểu Trưởng võ môn e điều gì rồi. Mã tầm mã... Trưởng võ môn ngờ rằng lão giao du với hạng chó mèo sao? Hiền điệt đã tin ta một việc, cớ gì không tin nốt việc này? Vả lại, chuyện dụ ngụy tướng Đoàn Thao hệ trọng hơn kia mà. Thôi, đã tin thì cứ tin hết lòng, lão có cách khu xử để không lỡ đại sự.
Nguyễn Tam Thanh là người cẩn trọng nên dù ông lão trượng nghĩa có những lời hợp lý trước khi cáo từ ra về, anh vẫn nhắc thêm:
- Vận mệnh đất nước, sinh mệnh hàng ngàn nghĩa binh đặt ở chỗ ông con mình hành sự có chu đáo kín kẽ không.
Trần Vấn Kiện hiểu điều đó.
*
Ngày Tân Mùi, Đoàn Thao về Mai Động ăn giỗ. Nhân lúc con rể còn ngồi uống nước chờ tàn hương, cụ làm như vui miệng buông lửng một câu:
- Ngắm anh hùng tráng thày lại nghĩ đến Trưởng môn võ phái Mai Động!
Đoàn Thao không thấy bố vợ đề cập rõ nội dung, liền hỏi:
- Thày nói vậy là có ý gì?
Ông già nhớ lời Tam Thanh dặn nên vẫn buông câu lơ lửng:
- Ý gì đâu! Thày thấy anh phong thái hơn người, chợt nhớ ra trưởng môn võ phái Mai Động. Anh ta không có phong thái hùng tráng, đĩnh đạc như anh... nhưng nói về ngón vật thì chưa ai thắng nổi, nhất là kiếm thuật...
Đoàn Thao bị lời nói lửng khích khí, con gà tức nhau tiếng gáy, Thao cũng không ở ngoài tâm lý hiếu thắng ấy.
- Con muốn làm quen với tráng sĩ ấy. Hôm nay, nhân dịp nhà có giỗ, thày mời anh ta đến ăn cỗ để con làm quen được không?
Ông lão đa mưu muốn thực hiện kế hoạch giữ khéo con rể, nhưng e không giữ nổi nên muốn có võ sư Nguyễn Tam Thanh ở bên hỗ trợ, giữ bằng mồm không xong thì giữ bằng tay, dù sao cũng không thể để lỡ đại sự. Cụ sai người đi mời khách. Nguyễn Tam Thanh chỉ chờ có thế nên nhận lời ngay.
Đoàn Thao thấy Nguyễn Tam Thanh tướng mạo quắc thước, bước đi vững chắc mà uyển chuyển đã có ý hâm mộ, tuy là tướng nhưng là rể làng nên chủ động đứng dậy lên tiếng chào trước.
Nguyễn Tam Thanh đáp lễ nói:
- Nghe danh tướng quân như sóng cồn, tướng quân là giai tế làng này cũng lâu thế mà bây giờ mới dược bái kiến, thực có lỗi.
Đoàn Thao từ tốn đáp:
- Thày tôi mến phục huynh đài võ nghệ hơn đời, chỉ ngắm nhìn phong thái cũng đủ thấy cụ đánh giá xác đáng.
Nguyễn Tam Thanh đỡ lời;
- Cha thường khen con hay, cụ là bậc tiền bối độ lượng nên có ý thiên vị kẻ đồng hương này!
Trong lúc khách nói chuyện, cụ chủ nhà gọi người bưng cỗ lên. Chủ nhà có dụng ý nên tiếp rượu cho Thao thật đẫy chén, cho Thanh vơi vơi lấy lệ, bề ngoài làm như chiếu cố chàng rể nhiều hơn. Chén thù chén tạc, tiếng nói cười ran ran không dứt.
Đoàn Thao nhìn ánh nắng thấy thời gian đã đổ về chiều liền đứng dậy.
- Con xin phép về trại.
Chủ nhà chưa kịp phản ứng, Nguyễn Tam Thanh đã giơ tay ngăn lại.
- Vãn sinh với tướng quân, tuy ngoài là quan với dân nhưng trong có tình xóm giềng lân bang. Trai làng với giai tế vừa gặp, ý chưa có dịp đối, tình chẳng kịp giao, sao nên vội về.
Đoàn Thao miễn cưỡng ngồi xuống. Chủ nhà ra tay tiếp rượu.
Đoàn Thao uống rượu như uống nước lã, bản lĩnh hơn người là càng có nhiều chất men kích thích trí phán đoán càng thông minh nhanh nhạy hơn. Anh ta nhấp chưa hết ngụm rượu đã đặt chén xuống bàn đứng dậy hướng về phía bố vợ, nói:
- Đưa thuyền vào sông phải biết luồng nước nông sâu, mạnh yếu. Thày cho rằng con rể thày vô tâm vô tình đến mức không biết hết ngày giỗ kỵ ở nhà ta? Bữa giỗ tiên thường(1) đã làm thịnh soạn lại thêm thày chuốc rượu không biết mỏi tay, đủ biết thày có dụng ý gì.
(1) Ngày giỗ chia làm hai phần: Chiều hôm trước cúng Tiên thường. hôm sau mới giỗ Chính kỵ.
Ông lão chủ nhà biết không thể dùng mãi cách trì hoãn níu giữ, đành đưa mắt ra ý cho Nguyễn Tam Thanh biết rồi nói thẳng:
- Anh là người nhà này, thày không thể giấu anh. Thày bộc lộ việc bí mật để anh liệu khu xử.
Đoàn Thao ngồi xuống ghế thản nhiên đáp:
- Vì tình cha con, mong thày dạy bảo thật tình!
Trần Vấn Kiện khẳng khái giãi bày:
- Nghĩa quân Hồng Châu do Khúc hào trưởng và Trịnh tiên sinh chỉ huy đã phất cờ dấy nghĩa dựng lại cơ đồ của con cháu Rồng Tiên, hiện đang tề tựu trong các cánh rừng gần thành Đại La. Giờ Hợi hôm nay khởi sự. Thày không muốn thành đổ vạ lây tới chồng của con gái cưng của thày, nhất là không muốn 2000 tướng sĩ dưới quyền con chống lại cuộc chiến phục quốc này nên buộc phải dùng hạ sách "điệu hổ ly sơn".
Bất chợt, Đoàn Thao vỗ bàn đánh rầm làm nảy cả bát đũa, đứng phắt dậy, vằn mắt nói:
- Các người coi Thao này là hạng người nào? Thao không phải là con cháu Tiên Rồng chăng? Thao chưa từng bị bọn quan văn võ nhà Đường đè nén, khinh miệt chăng? Thao là kẻ bỏ đi sao?
Đoàn Thao đang tỏ thái độ phẫn nộ hằm hố thì có khách từ cổng bước vào sân. Đó là Khúc Thừa Dụ và Trịnh Khiển Lâm - thày đồ mở trường dạy chữ thánh hiển ở làng bên mà Thao từng biết mặt. Thao thấy người cùng đi với ông đồ có tướng mạo nhân từ mà vẫn toát ra vẻ uy nghi lẫm liệt liền chắp tay làm lễ tương kiến:
- Mạt tướng là ngụy tướng Đoàn Thao!
Hai vị khách đáp lễ, hài lòng về cách xưng hô có dụng ý của Thao. Họ rắc men ủ rượu.
- Sông có nguồn, cây có gốc. Tướng quân không chê bai kẻ già đa sự này, thực hiếm có.
Cụ chủ nhà gọi người nhà lên dọn mâm cỗ đang ăn dở, soạn cỗ mới, chắp tay nói với vị khách tôn quý:
- Nhờ trời đất chuyển vần mà lão có dịp hạnh ngộ với các bậc tài trí của đất nước. Xin chớ chê nhà hẹp rượu kém nồng.
Sau khi chủ khách qua tuần rượu đầu, Khúc Thừa Dụ lên tiếng, giọng ông trầm hùng biểu thị khí lượng hon đời:
- Xin được nghe cao kiến!
Trịnh Khiển Lâm nhìn Đoàn Thao nói:
- Ta từng nghe ông là người trượng nghĩa, cớ gì mà khuất thân thờ giặc?
Đoàn Thao khảng khái đáp:
- Nước Âu Lạc bị ngoại bang đô hộ hàng ngàn năm, con dân như lạc vào hầm tối, ai cũng lần mò tìm lối sống, vùng vẫy trong dòng lũ xoáy ai chẳng mong níu được vật gì để thoát thân, lươn ở lỗ cái thế buộc phải tròn.
Trần Vấn Kiện đỡ lời đồng thời cũng có ý thắt con rể:
- Tinh thế bắt buộc, thật khó tránh, nhưng tình thế trước mắt đổi mới, anh tính sao?
Đoàn Thao khảng khái lên tiếng:
- Việc phục quốc không thể tính toán mất còn, thiệt hơn. Nếu các bậc hào kiệt tin dùng, mạt tướng nguyện hết sức bình sinh.
Trịnh Khiển Lâm thầm nghĩ: Việc quân sự có khi cần mạo hiểm. Hàn Tín mạo hiểm mà có trận Bối Thuỷ lừng danh, công tử Anh Tề mạo hiểm mà lui được trăm vạn quân Sở lang sói. Ông hồ hởi tiếp nhận sự cộng tác:
- Có tướng quân giúp sức, việc đoạt thành ắt dễ như trở bàn tay - Ông nói tiếp về kế "nội công ngoại kích" rồi hỏi - Tướng quân có kiến giải gì?
Đoàn Thao đáp:
- Lính gác cửa thành Tường Phù(1) thuộc quyền chỉ huy của mạt tướng. Viên trưởng cơ chỉ huy toán lính canh tính khí thất thường. Để đề phòng bất trắc, tối nay mạt tướng gọi hắn về quân doanh, cử viên phó ra thay.
(1) Khoảng Cửa Đông bây giờ.
Trịnh Khiển Lâm khích lệ:
- Tướng quân xử sự chu đáo thế, hẳn ít rủi ro!
Đoàn Thao phấn khởi nói tiếp:
- Hai ngàn quân dưới quyền mạt tướng chỉ lẫn vài chục tên gian manh, lũ này sẽ bị bắt khi khởi sự, còn lại bao nhiêu đều là lực lượng hỗ công của nghĩa quân - Ông ngẫm nghĩ giây lát nói tiếp - Mạt tướng có thiển ý muốn giãi bày - Lính Đường có thói quen ngủ trong túi, quân cung thủ ta dàn ở mặt tiền, bật hồng sáng trưng khắp nơi rồi lên tiếng uy hiếp, bọn giặc muốn toàn mạng chỉ còn cách nằm im trong túi.
Khúc Thừa Dụ cả cười, nhận xét:
- Các bậc trí giả liệu việc giống nhau - Ông nhìn Trịnh Khiển Lâm khi nói tiếp - Trịnh tiên sinh cũng đề ra kế hoạch tấn công đúng như cách tướng quân vừa đề xuất. Tính toán đúng, đại sự không thành mới là điều lạ.
Đoàn Thao thành thật:
- Quân giặc ở nhàn sinh trễ nải, lười biếng, nhưng tướng giặc lại khác, hắn được bảo vệ bằng mũ trụ giáp sắt, sức khoẻ vô địch, võ nghệ cao cường, mạt tướng không phải là đối thủ. Nếu tên nỏ không sát thương được hắn thì đó là mối lo.
Trịnh Khiển Lâm có cớ gài người kiểm soát hành vi của viên tướng vừa ứng nghĩa nên vỗ vai Nguyễn Tam Thanh cười nói:
- Đường có mãnh tướng Lý Bính, Giao Châu ta có Nguyễn Tam Thanh võ nghệ hơn đời. Nguyễn tráng sĩ sẽ sát cánh cùng tướng quân khống chế tên giặc mạnh.
Đoàn Thao đứng dậy, nói:
- Vậy mạt tướng và Nguyễn tráng sĩ không nên nấn ná hơn nữa. Cho phép cáo biệt để sớm vào thành sắp đặt công việc.
*
Sau khi sai tâm phúc bắt giữ bọn gian manh, Đoàn Thao kêu gọi binh lính:
- Thời cơ phục quốc đang tới, nghĩa quân do Khúc hào trưởng và Trịnh tiên sinh thống lĩnh đã sẵn sàng bắt tướng đoạt thành. Anh em nào theo nghĩa quân hãy cởi bỏ áo lính, cởi trần cầm vũ khí cùng ta khởi nghĩa, ai muốn tránh việc can qua cứ ở yên trong trại.
Đề cập đến công việc phục quốc mà thờ ơ thì có là chuyện lạ, tất cả ngụy binh cởi phắt áo ném xuống đất, cầm vũ khí sẵn sàng chờ lệnh.
Xếp đặt hợp lý, hành động đúng phép, thành công không nằm ngoài dự tính. Khúc Thừa Dụ dàn quân cung thủ trước khắp trại ngang trại dọc của giặc, cho bật hồng. Cả trăm bó đuốc tẩm nhựa thông bén lửa cháy rừng rực, mọi chỗ sáng trưng. Một nghĩa quân có giọng nói như chuông rung trống thúc cầm loa lên tiếng:
- Năm ngàn quân cung thủ đang sẵn sàng, nằm im trong túi thì sống, kẻ nào nho nhoe lập tức bị bắn chết ngay.
Lý Bính từ trong nhà cầm đại đao bước ra. Nguyễn Tam Thanh cầm ngang gậy sắt nói lớn:
- Quân bị hãm, tướng không quân, chớ làm điều miễn cưỡng.
Lý Bính bất ngờ rơi vào thế bị bao vây, tuy là viên dũng tướng cũng không khỏi hoang mang. Từ ngày Độc Cô Tổn bỏ ghế Thứ sử chạy thoát lấy thân, bộ máy đô hộ của nhà Đường ở An Nam không có thủ lĩnh, bọn văn quan võ tướng trong An Nam đô hộ phú phần lớn là hạng tầm thường, không có tham vọng cưỡi hổ, lại sợ chuốc họa búa rìu từ triều đình giáng xuống, nên chỉ lấy “yên thân” làm trọng, ngay Lý Bính là tướng chỉ huy cũng thụ động ngồi chờ sự sắp đặt của chính quốc, nhưng càng chờ càng bặt vô âm tín. Bây giờ thì chẳng khác gì sét đánh chẳng kịp bưng tai. Quân đối phương đông không kể xiết, cung, lao, nỏ lăm lăm, cây gậy sắt trong tay kẻ đứng lù lù trước mặt nặng tới vài trăm cân, có đánh cũng khó thắng mà dẫu cho có thắng thì nhất hổ bất địch quần hổ nhất là thấy Đoàn Thao cầm đầu đội quân cởi trần đứng lẫn trong hàng ngũ quân nổi loạn, biết là một vốc đất không thể ngăn được đê bị vỡ, hắn ném đại đao xuống đất vòng tay lên tiếng:
- Xin giữ toàn mạng cho quân sĩ!
Khúc Thừa Dụ lệnh cho nghĩa quân thu vũ khí của quân giặc cho vào kho khoá lại. Vừa lúc ấy, phía cửa Nam bừng sáng, tiếp đó là tiếng hò reo. Ông gọi Nguyễn Tam Thanh, Đoàn Thao đến bảo:
- Hai tướng mỗi người dẫn năm trăm quân xuống hỗ trợ cho hai cánh quân đang tấn công cửa Nam và cửa Tây.
Trịnh Khiển Lâm nhắc:
- Phải chiếm ngay đại sảnh Tiết độ sứ.
Khúc Thừa Dụ dẫn ba trăm quân tiến vào thành nội không gặp sự chống cự nào, các viên chức văn võ đều đầu hàng.
Nguyền Tam Thanh phi ngựa về báo tin:
- Quân ta đã làm chủ cửa Nam và cửa Tây, 200 giặc bị giết, còn lại đều đầu hàng, thu được năm trăm ngựa chiến.
Lý Bính nói với Trịnh Khiển Lâm:
- Mọi việc đã vào thế tàn cục, gắng gỏi cũng chỉ vô ích, chẳng nên thắp hương gọi ma quỷ tới. Mạt tướng tình nguyện đi chiêu dụ cánh quân trấn giữ Đông Bộ Đầu.
Trịnh Khiển Lâm đồng ý:
- Đổ máu thêm chỉ tạo thêm hiềm khích giữa hai dân tộc. Việc làm nhân ái của tướng quân cảm động đến thần linh, ta sao có thể từ chối.
Nguyễn Tam Thanh lo có sự man trá muốn cùng đi để tùy cơ ứng biến nên đề nghị:
- Ngu đồ muốn theo giúp Lý tướng quân!
Trịnh Khiển Lâm xua tay, đã tin thì tin cho trọn. Nếu Lý Bính nảy manh tâm thì hắn cũng không thể giơ tay đỡ trời. Tướng giặc muốn hắn và quân đội tồn tại thì buộc phải thực tâm quy hàng. Ông xởi lởi trong ứng xử nhưng lại trói buộc theo tình thế:
- Để cứu hàng ngàn sinh linh ở Đông Bộ Đầu, Lý tướng quân yêu cầu gì thì đáp ứng theo yêu cầu ấy.
Lý Bính chắp tay vái lời nói độ lượng:
- Trưởng lão có lòng tin, mạt tướng xin được một người một ngựa ra đó. Mạt tướng quyết không phụ tấm lòng tín nghĩa của ngài.
Trịnh Khiển Lâm đáp:
- Được vậy thì may cho quân sĩ cả hai bên!
Lý Bính cưỡi ngựa ra Đông Bộ Đầu.
Đông Bộ Đầu bị bao vây từ ba phía: Các thợ thủ công Thụy Chương, Yên Phụ, Thạch Khối dấn xuống: dân trồng rau, đánh cá chăn tầm ở Kim Liên, Đông Tác, Tả Nhất, Phong Vân, Thanh Nhàn ép lên, hàng trăm thuyền chở trai tráng Gia Lâm. Thượng Cát. Ô Cách, Thanh An dồn sang. Quân lính giữ trại bị uy hiếp bằng cung nỏ và bằng cả tiếng hò reo; biết trong thành có biến, nhưng không có lệnh của tướng chỉ huy Lý Bính nên đành tổ chức cố thủ.
Lý Bính phi ngựa tới gần Đông Bộ Đầu thì bị quân bao vây giữ lại, có người đòi giết. Bính lúng túng giải thích, vừa kịp Nguyễn Tam Thanh phóng ngựa đến. Thanh đứng trên yên ngựa chụm tay làm loa nói với nghĩa dân:
- Trịnh tiên sinh cho phép Lý tướng quân vào Đông Bộ Đầu thông báo lệnh đầu hàng cho số quân trong đó. Vì đại cục, anh em đừng ngăn trở Lý tướng quân.
Lý Bính vào trại nói với chỉ huy trại và binh lính:
- Thành Đại La đã bị người Giao Châu chiếm, trong đó đã hạ vũ khí. Một trại Đông Bộ Đầu không thể đứng vững. Bên nước nhà đang có sự thay đổi lớn, triều đình nhà Đường hèn yếu không khống chế nổi cường thần Chu Toàn Trung, họ còn mải tranh đoạt giang sơn của nhau thì làm sao có viện binh sang cứu chúng ta. Tình thế này buộc chúng ta phải giữ lấy mạng sống chờ ngày về với vợ con.
Chỉ huy trại đáp:
- Chúng tôi tùy sự định đoạt của tướng quân!
Tất cả binh lính đồng thanh hưởng ứng. Lý Bính lệnh cho quân sĩ mang vũ khí xếp ra giữa sân, người không xếp hàng năm, mở cổng trại ra hàng nghĩa quân.
Trong vòng mười ngày Khúc tiên chủ đã làm chủ toàn cõi Giao Châu. Ông ra tuyên cáo:
- Từ nay nước Nam là của người Nam!
Trịnh Khiển Lâm bàn với Khúc tiên chủ:
- Triều đình Nam Đường bận lo đối phó với loạn "Thập Quốc Ngũ Đại", lại phải đề phòng cường thần Chu Toàn Trung đang gây lực lượng, rình thời cơ cướp cơ nghiệp của hậu duệ họ Lý. việc Nam Đường phái quân sang chiếm lại An Nam là chưa thể xảy ra, nhưng cũng cần mơn trớn, ru ngủ con cọp già ấy để ta không phải bận tâm nhiều về mạn đó.
Khúc tiên chủ chấp nhận chủ trương "nhún mình".
- Hiền đệ quả là trí túc đa mưu. Mới ốm dậy không thể bước dài, đành dùng thuật "giả dại qua ải" để giữ an bình. Chúng ta sẽ cử phái bộ mang cống vật sang báo hỉ và xin tiết việt.
*
Đường Chiêu Tông nhận được tấu sớ của An Nam trưởng lão Khúc Thừa Dụ đọc đi đọc lại mấy lần mới nắm được nội dung tấu sớ. Ông ngồi chết lặng trước long án. Không khí như đặc quánh lại, vẻ vàng son nơi cung đình cũng nhạt nhòa, ảm đạm. Nhà vua nhìn viên Thái giám hầu cận than thở:
- Sự nghiệp mở mang bờ cõi trải qua hàng ngàn năm bị tiêu tan từ triều đại của trẫm ư?
Quan Thái giám tâu:
- Bệ hạ nên vấn kế các đại thần.
Chiêu Tông chuẩn y, cho triệu tập triều thần lên thương nghị.
Các quan lục tục vào triều bái. Từ Tể tướng đến Thượng thư các bộ, từ Thị lang khư mật viện đến Đại thần quân cơ nghe nhà vua thông báo tình hình thất thủ Giao Châu đều đứng lặng như trời trồng.
Ốc chẳng mang nổi thân ốc sao có thể lo hộ cho thân cọc, bá quan văn võ nhìn nhau. Nhà Nam Đường đi vào buổi xế chiều, sức cùng lực kiệt muốn tồn tại còn khó như lên trời, không thể bàn tới chuyện đưa lực lượng đi xa. Đường Chiêu Tông không mong có được kỳ mưu đội đá vá trời nhưng ít nhất cũng phải có đối sách phù hợp tình thế, nhưng tại sao các đại thần vẫn im lặng. Nhà vua nén tiếng thở dài, cất tiếng khích lệ:
- Chư khanh! Ăn lộc ba năm mà không gắng sức một lần là cớ sao?
Đại thần quân cơ bước khỏi ban, khấu đầu tâu:
- Tinh hình biên giới phía Bắc nguy ngập, phía Tây thường xuyên bị quân Nam Chiếu quấy rối, không thể đưa quân đi xa. Theo ý ngu thần thì Nam Đường ta chỉ có thể nắm giữ cái có thể nắm giữ.
Đường Chiêu Tông hiểu ý, đúng là chỉ có thể áp dụng phương án "tha để bắt", hãy giữ Giao Châu trong tầm ảnh hưởng sau này tuỳ cơ ứng biến.
Đại thần quân cơ lại tâu:
- Ngu thần dám mong bệ hạ nhân dịp này rút số quân ở Giao Châu về để tăng cường lực lượng giữ nước.
Chiêu Tông chuẩn tấu, sai Đại thần quân cơ mang sắc phong, tiết việt sang Giao Châu tấn phong cho Khúc Thừa Dụ chức Đồng bình chương sự và đốc xuất quân sĩ Đường về nước.
*
Khúc Thừa Dụ ở ngôi một năm thì mất.
Trịnh Khiển Lâm ôm thi thể Khúc tiên chủ, không khóc mà nói những lời rỉ máu:
- Anh em ta lỗi đạo đi chưa hết đoạn đường chông gai, đành phó mặc cho lớp con cháu chu toàn lo liệu tiếp.
Mấy ngày sau Trịnh Khiển Lâm cũng tự dưng mà chết. Đôi bạn già, chẳng khác gì Chung Tử Kì và Bá Nha, một người đã chết thì người kia không còn lí do tồn tại. Trịnh Khiển Lâm chết, Nguyễn Tam Thanh cáo quan trở về lò võ Mai Động, Đoàn Hồng Ngọc lẳng lặng bỏ đi. Họ đều như thày, sẵn sàng gánh trên vai sức nặng nghĩa vụ, nhưng không màng công danh.
Khúc Thừa Hạo nối tiếp ngôi vị của cha.
*
Trịnh Thanh Sơn từ trong quán rượu dưới gốc đa đầu làng ngất ngưởng bước ra, tay ôm gà chọi, chân nam đá chân chiêu, miệng lẩm bẩm:
- Thế mà say, thế mà tớ cũng say!
Thanh Sơn đang lảm nhảm thì Khúc Thừa Mỹ bất chợt đi tới. Thừa Mỹ vỗ vỗ lưng con gà chọi trong tay thằng say hỏi:
- Anh xám sắt này ở nòi nào ra?
Trịnh Thanh Sơn nhấp nháy cặp mắt đầm sắc rượu tay vuốt ve đuôi gà vênh mặt theo thói ta đây kẻ cả:
- Hắc đại tướng quân là anh cả của tông Đổng Tác(1)
(1) Vùng phường Trung Phụng, quận Đông Đa, Hà Nội.
Khúc Thừa Mỹ gật đầu:
- Ờ mình nghe nói tông gà Đông Tác ớ Tống Bình đứng đầu thiên hạ.
Thanh Sơn nâng con gà trên một tay lắc lư đầu đánh giá:
- Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai,
Khoản ngắn, đùi dài chẳng kém ai,
Dũng mãnh tung mình xông vào trận,
Đè cần đá móc, xứng chủ đài
Khúc Thừa Mỹ cười khẩy, nhận xét với giọng khinh bạc:
- Một con gà quèn chỉ một nhánh gừng một chén rượu là đủ toi đời mà cứ làm như chúa thiên hạ!
Nghe kiểu nói hách dịch, Thanh Sơn chớp chớp mắt ngó trân trối, khi nhận ra đứng trước mình là cháu đích tôn đương kim Tiết độ sứ. Quả là cơ hội trời cho, con đường hoan lộ thênh thang thoát khỏi cảnh sống bệ rạc chó má có thể bắt đầu từ dưới gốc đa đầu làng này chăng? Hắn đặt vội con gà xuống đất chắp tay vái lia lịa.
- Đắc tội, đắc tội lớn, dân đen quá chén chẳng làm chủ được mắt mình, xin Khúc công tử đại xá. Nhưng... - Hắn ôm gà vuốt ve với vẻ trìu mến nói tiếp - Chọi gà là thú ăn chơi có từ thời Vệ Linh Công nuôi hạc.
Khúc Thừa Mỹ ngạc nhiên hỏi:
- Có chuyện ấy sao?
Trịnh Thanh Sơn dịch lại gần, hắn thích gà chọi nên sưu tầm nhiều giai thoại về gà chọi, không những thế hắn còn bịa đủ vành đủ kiểu để tâng môn chơi gà chọi thành thú chơi phong lưu, chỉ nhằm loè trộ thiên hạ. Hắn lắc lư người như con nhà thổ chài khách, nhưng lại dùng giọng uyên bác để mờm chàng công tử khờ khạo:
- Bẩm công tử! Vệ Linh công phong cho vật nuôi của mình là Hạc hầu, Hạc tướng, Hạc đại phu - Gã thao thao bất tuyệt - Vua Huyền Thiên đế còn tôn xưng đám gà chọi của mình tước vị hùng hậu hơn: Tía nguyên soái, Xám đại tướng quân và giao cho quan lang trung nhị phẩm chuyên chăn nuôi gà...
Khúc Thừa Mỹ ngù ngờ về các ngón chơi lưu manh nghe câu chuyện có thật có giả một tấc tới trời của gã bẻm mép gian hùng, cũng cảm thấy có sự khích lệ, nên tỏ vẻ háo hức trước cảnh sống trần gian quyến rũ. Mỹ trầm trồ:
- Thì ra trò chơi cung đinh cũng lắm công phu nhỉ - Mỹ ngừng giây lát rồi đột ngột đề xuất - Cậu có vui lòng làm tuỳ tòng của ta không?
Trịnh Thanh Sơn mừng muốn nhảy lên, nhưng lại gãi gáy ra điều e ngại:
- Con được phụng sự công tứ thì đúng là phúc đức đời trước để lại cho con... - Hắn ngập ngừng, nói tiếp - Khốn nỗi, con xuất thân từ chỗ ăn chơi ti tiện, con sợ cụ Tiết độ sứ và...
Khúc Thừa Mỹ, phẩy tay ngắt lời:
- Ta nhận tùy tòng có gì là sai mà ông cha ta ngăn cản. Vả lại, dù sang hèn chi chi chúng ta cũng đều xuất thân từ đồng ruộng Hồng Châu này kia mà. Đừng ngại, mọi việc đã có ta đây đứng mũi chịu sào.
Trịnh Thanh Sơn biết Khúc Thừa Mỹ là công tử nòi nhà giàu được cưng chiều mọi nhẽ nên yên tâm thực hiện thủ đoạn tiến thân kiểu gian manh của mình, hắn sụp lạy nói:
- Con quyết báo đáp công ơn của công tử, dù chết cũng không từ.
Từ đó, ngày ngày Trịnh Thanh Sơn ôm gà chọi như cái đuôi nhũng nhẵng sau Khúc Thừa Mỹ. Hắn chiều theo mọi ý muốn của chủ, chủ muốn chơi trên sông, hắn chèo thuyền, chủ muốn xem chọi gà, hắn dẫn đến xới, chủ khó ở, hắn lồng đi hò gọi thày thuốc làm như chủ ốm thập tử nhất sinh, hắn còn dẫn chủ ra bãi sông bỡn cợt các cô gái hái dâu... Hắn muốn nhanh chóng tiếp cận chốn quan trường nên gợi ý:
- Thày trò ta lâu ngày không được gặp cụ và ông.
Khúc Thừa Mỹ xua tay bảo:
- Cha ta có nghiêm lệnh không có tin gọi thì không được ra Tống Bình.
Sơn biết không thể ép. Hắn bấm bụng đợi thời. Chỉ sợ không bền lòng chứ thiếu gì cơ hội.
Quả nhiên, gã gian manh tính đúng.
Một hôm, hai thày trò đang đùa nhả cô gái giặt lụa trên mom sông thì một gia nhân hớt hải chạy ra tìm, mếu máo báo tin dữ:
- Đức ông Tiết độ sứ đã quy tiên!
Trịnh Thanh Sơn chớp thời cơ:
- Thày trò ta phải đi Tống Bình chịu tang!
Khúc Thừa Mỹ lên Tống Bình chịu tang ông nội dẫn theo gã cơ hội.
Vào Tống Bình mới mấy ngày Thanh Sơn đã biết nhiều đường rẽ lối tắt chốn phồn hoa, nhưng đang tuần Tốt khốc(1) nên không dám rủ Thừa Mỹ đi nhởn chơi quá trớn.
(1) Một trăm ngày chịu tang gia chủ biểu lộ bi ai thương khóc, hết một trăm ngày này mới thôi khóc.
Khúc Thừa Hạo cử Khúc Thừa Mỹ đứng đầu phái đoàn sang Phiên Ngung báo tang và xin tiết việt. Khúc Thừa Mỹ là kẻ ngu đần không thể kham nổi việc đi sứ, nhưng thông lệ xưa nay muốn tỏ lòng kính tín, nhu thuận... các quốc chủ phải sai con mình đi làm nhiệm vụ thông hiếu. Khúc trung chúa hiểu điều đó nên cử nho sinh Văn Niết Bắc - một người thạo ứng xử giỏi đối đáp làm phó sứ.
Trịnh Thanh Sơn nhận thấy đây là cơ hội trổ tài bẻm mép, lách khỏi địa vị thấp hèn nên nói với Khúc Thừa Mỹ xin cho mình đi theo phái bộ. Khúc Thừa Mỹ đồng ý, dẫn Thanh Sơn vào dinh gặp cha.
Khúc Thừa Hạo là người trực tính, đàng hoàng, ghét thói nịnh bợ, thấy hành vi khúm núm ti tiện của Thanh Sơn đã ghét, liền sẵng giọng hỏi:
- Anh là hạng người nào?
Trịnh Thanh Sơn chắp tay cúi đầu thưa:
- Dân hèn là thuộc hạ của đại công tử!
Khúc Thừa Hạo phẩy tay.
- Đi sứ là việc trọng đại, không cần đến lũ đầy tớ.
Trịnh Thanh Sơn tạ lỗi cáo lui, còn lại Khúc Thừa Mỹ, Khúc Thừa Hạo khiển trách:
- Ta ngạc nhiên vì con giao du với hạng người đó!
Khúc Thừa Mỹ chống chế:
- Hắn nhanh nhẹn, tinh ý, rất được việc, lại là người cùng làng.
Khúc Thừa Hạo nghiêm mặt bảo:
- Cùng làng nhưng khác giống, loại đó chỉ nên dùng làm đầy tớ trong nhà bếp, bên chuồng ngựa, sao con dám tiến cử nó cho cha dùng vào đại sự.
Khúc Thừa Mỹ về tư dinh, an ủi tên cơ hội:
- Đừng nản! Có chí thì nên, cứ gắng đợi.
Phái bộ Giao Châu sang Phiên Ngung. Lúc này Chu Ôn đã lật đổ nhà Nam Đường lập nước Hậu Lương. Ông ta biết mình tay ngắn không thể vươn xa nên buộc phải nhận Khúc Thừa Hạo làm Tiết độ sứ. Nhưng, để kiềm chế họ Khúc, đồng thời cũng là thu phục họ Lưu, Chu Ôn lại phong cho Lưu Ẩn làm Tinh hải quân Tiết độ An Nam đô hộ. Lưu Ẩn không phải là kẻ đặc sắc, em hắn - Lưu Cung mới là người nuôi tham vọng lớn. Chu Ôn đã làm cái việc chắp cánh cho hổ, hắn tự đào hố dưới chân nhưng cũng gây mầm mống cuộc chiến mới ở Giao Châu.
Khúc trung chúa biết mối hiểm hoạ từ phương Bắc vẫn rập rình nên vấn kế các quan văn võ:
- Muốn nước cường dân thịnh phải làm gì?
Tham chính Quách Thế An lên tiếng:
- Một người tính không thể bằng mươi người tính. Nước nhà vừa gượng dậy cần có nhiều người tài giỏi cùng góp trí chung sức gánh vác. Minh chủ nên thông báo chiêu hiền nạp sĩ.
Khúc trung chúa khen hay, cho thực hiện ngay.
Khúc Thừa Mỹ về tư dinh, Trịnh Thanh Sơn đón tiếp vồ vập như con xa cha lâu ngày. Thừa Mỹ vui lòng, bảo:
- Nhất định có phen ta cất nhắc ngươi!
Trịnh Thanh Sơn xun xoe:
- Gia nô quyết xả thân vì sự nghiệp của chủ nhân. Vì chủ nhân, gia nô không tiếc cả tính mạng mình.
Chàng trẻ tuổi nông cạn, cười an ủi hắn:
- Ta vẫn biết lòng thủy chung, tận tụy của ngươi mà.
*
Trịnh Thanh Sơn biết khó tiếp cận một người lịch duyệt, sáng suốt như Khúc Thừa Hạo và lường thấy, ngày một ngày hai Khúc Thừa Mỹ sẽ kế ngôi chủ Giao Châu nên trước mặt Khúc trung chúa hắn một lòng giữ phận làm đầy tớ gọi dạ bảo vâng, chỉ dồn tâm sức lấy lòng vị quốc chủ tương lai. Thừa Mỹ vốn là người rộng rãi, không câu nệ tiểu tiết, thích cuộc vui mới lạ, nhất là rất cả tin. Tính cách ấy là điều kiện tốt cho thói gian manh, phóng đãng của Sơn lợi dụng và phát triển - có dịp thi thố sở trường của kẻ lọc lừa cơ hội. Hắn mở đầu kế hoạch tiến thân:
- Từ miền thôn quê vào đây gia nô thấy mình như vừa dưới đáy giếng chui lên. Quả là nơi phồn hoa đô hội, nhiều vẻ hay, lắm cái mới.
Tính chuộng lạ, ham hiểu biết của Khúc Thừa Mỹ bị kích thích, chàng ta háo hức hỏi:
- Có thể kể ra không?
Trịnh Thanh Sơn úp mở.
- Bẩm công tử, nhiều không kể xiết, có thứ chỉ tai nghe mắt nhìn mới thấy hết vẻ thú vị.
Khúc Thừa Mỹ lừ mắt bảo:
- Vật nào mà chẳng có tên?
Trịnh Thanh Sơn vẫn dùng cách nói nước đôi:
- Nói tên sự việc không khó nhưng kể ra được nét tinh hoa đặc sắc của sự việc thì còn gì là thú vị bất ngờ. Không lên núi sao biết núi cao, không xuống sông sao biết sông nông sâu.
Khúc Thừa Mỹ bị cách nói lỡm lờ của gã cơ hội mê hoặc. Ông chủ phẩy tay bảo đày tớ:
- Ngày mai, ta cùng ngươi đi du ngoạn một chuyến.
Hôm sau, trước khi xuất hành. Trịnh Thanh Sơn hỏi:
- Mùi đời gồm thích mất, vui tai, ngon miệng... công tử chọn thứ nào?
Khúc Thừa Mỹ xua tay tỏ vẻ không cần kén chọn:
- Gần trước xa sau!
Trinh Thanh Sơn dùng thủ đoạn tăng dần sự kích thích:
- Thày trò ta ra cầu Đông nghe hát!
Cầu Đông xây bằng đá bắc qua sông Tô Lịch nối thành trong Đại La(1) với Giang Khẩu(2) nơi những người đất Mân(3) đất Việt Đông(4) di cư sang, người Ái Châu(5) Hoan Châu(6) chở cá mắm vào... Người qua lại tấp nập, việc buôn bán nhộn nhịp.
(1) Trụ sở của Đô hộ phủ, khoảng khu vực Bộ Quốc Phòng. Thành ngoài, cũng là để bao quanh nội thành Hà Nội: Dọc theo hữu ngạn sông Hồng (bao quanh Hồ Tây), Yên Thái, Cầu Giấy, Chợ Dừa. Kim Liên, Trần Khát Chân, Ô Đông Mác.
(2) Hàng Buồm.
(3) Phúc Kiến - Trung Quốc
(4) Quảng Đông - Trung Quốc
(5) Thanh Hoá.
(6) Nghệ - Tĩnh.
Phía ngoài chợ cửa Đông (Giang Khẩu), một đám đông vây quanh gánh hát, tiếng đàn trống xênh phách tưng bừng. Trịnh Thanh Sơn lách người qua đám đông đưa chủ vào vòng trong. Đàn bàu, đàn tranh, đàn thất huyền hoà tấu khúc Giáng Hoàng Long du dương thánh thót.
Trịnh Thanh Sơn đưa mắt hỏi ý chủ. Khúc Thừa Mỹ gật đầu với vẻ bằng lòng.
Khúc nhạc thần tiên dứt. Nhiều người móc bạc vụn ra thưởng. Khúc Thừa Mỹ bảo Trịnh Thanh Sơn lấy hẳn một đĩnh bạc thưởng cho đám tài tử. Chủ gánh hát đáp lễ bằng cách cho cô đào số một ra hát hầu bài Trang Chu mộng điệp. Cô ca sĩ không đẹp nhưng giọng ca ấm êm, mượt mà như nhung.
Khúc Thừa Mỹ vỗ vai gã đầy tớ biết ăn chơi bảo:
Không ra đường không biết trời cao đất dày! Ngươi quả là có mắt tinh đời.
Hôm sau, Trịnh Thanh Sơn dẫn Khúc Thừa Mỹ ra cửa Tây Dương(1) xem gánh xiếc rong diễn trò leo cột, đi trên dây. Quan sát thấy chủ tỏ vẻ không thích thú lắm, gã đầy tớ ma lanh mời chủ đi thưởng thức món chuối tiêu chín trứng cuốc chấm cốm làng Vòng. Vị béo ngậy, bùi ngọt man mát, mùi thơm thoang thoảng của hương lúa mới kết hợp với chất ngọt chát của chuối khiến Khúc Thừa Mỹ thích thú.
(1) Cầu Giấy.
- Hồng Châu ta cũng có thứ này, nhưng mùi vị không đậm đà thanh cảnh bằng.
Nhân tiện, Trịnh Thanh Sơn:
- Tống Bình có nhiều của ngon vật lạ. Chẳng hạn, bánh cuốn Thanh Đàm chấm nước mắm cà cuống, bún ốc Chu Tước, thịt chó nấu nhựa mận Nhật Tân...
Khúc Thừa Mỹ ngắt lời:
- Ở Tống Bình chưa lâu mà ngươi đã thông thạo vậy sao?
Trịnh Thanh Sơn cho đó là lời trách cứ liền lẻo miệng biến báo:
- Khi dâng thức ăn lên nhà vua, ngự thiện phải nếm trước - Hắn lắc lư người nói tiếp - Công tử không thích cái thú ẩm thực, ngày mai gia nô mời công tử đến một chỗ giải trí đặc sắc.
Khúc Thừa Mỹ háo hức hỏi:
- Cái gì đặc sắc?
Trịnh Thanh Sơn úp mở:
- Phạm Lãi tới Trữ La!
Khúc Thừa Mỹ không biết điển tích ấy nên lừ mắt bảo:
- Dạo này mi hay nói ỡm ờ, muốn trêu tức ta chăng?
Trịnh Thanh Sơn cười nịnh:
- Gia nô có ăn gan hùm cũng không dám hỗn với công tử. Gia nô xin thưa công tử, chuyện thế này, Phạm Lãi phụng chỉ Việt Vương Câu Tiễn đi khắp thiên hạ tìm mỹ nhân, ông ta đi mãi đi mãi, tới bến Trữ La mới gặp được Tây Thi, một tuyệt thế giai nhân... Một mỹ nhân đẩy đổ thành luỹ kiên cố của nước Ngô cường thịnh.
Khúc Thừa Mỹ vốn có tính hiếu sắc, nói đến mỹ nhân là tâm can rung động nên hớn hở ngắt lời:
- Ngươi đã đi đúng vào bụng ta!
Trịnh Thanh Sơn chọn ngày đẹp trời, mời chủ theo cửa Tường Phù ra bến Thái Cực(1) xuống du thuyền neo bên bờ sông Tô Lịch. Đợi chủ nhà ngồi yên vị trong khoang thuyền, hắn cởi dây neo, dùng sào đẩy mạnh thuyền ra giữa dòng, kéo buồm, cầm lái. Cánh buồm ăn gió lôi con thuyền trôi băng băng.
(1) Khoảng phố Hàng Đào - Hà Nội ngày nay.
- Nghe gió lướt bên tai, nước vỗ mạn thuyền và ngắm cây cối xanh mượt mà bên bờ sông, Khúc Thừa Mỹ cảm thấy tâm hồn phơi phới, nỗi lòng xao động láng láng. Trong cõi đời quả có nhiều nguồn vui, một ngọn cỏ, một áng mây cũng có thể trở thành vật có hồn biết vuốt ve, mơn trớn lòng người. Thanh Sơn thấy vẻ mặt mãn nguyện của chủ cũng hí hửng ngầm. Lễ vật hậu hẳn thần thánh phù hộ nhiều.
- Thuyền tới cửa vào hồ Dâm Đàm, Trịnh Thanh Sơn kéo dây lèo, lái thuyền vào hồ. Không gian bao la rộng mở, mặt nước mênh mang, sóng nước cuồn cuộn, sướng đục chàng màng trên mặt nước, mây trắng đậu vẩn vơ trên nẻo bờ xa, thuyền rẽ sóng lao băng băng, văng vẳng đâu đó giọng hò giặt lụa.
Khúc Thừa Mỹ đưa mắt lướt qua phong cảnh xung quanh, miệng giục:
- Hãy đến đó !
Lời giục đi không có địa chỉ, nhưng Trịnh Thanh Sơn biết nên tới đâu thì vừa ý chủ. Hắn đưa thuyền vào bờ - nơi các cô gái đang thoăn thoắt giặt lụa. Thuyền hạ buồm, trôi nhẹ vào gần bờ rồi xoay ngang. Sơn cắm sào giữ con thuyền lững lờ trên mặt nước cách bờ chừng vài thước. Các cô gái giặt lụa ngẩng đầu nhìn lên nhưng không ngớt tay vò xát.
Trịnh Thanh Sơn cất tiếng hát ghẹo, giọng hắn khá tốt
Ngồi thuyền vãng cảnh Dâm Đàm
Cảnh tươi người đẹp biết làm sao đây
Gặp nhau anh hỏi lời này
Rồng mây vân hội có ngày nên chăng?
Một cô gái ngừng tay vò lụa, ngẩng đầu lên nhìn, vừa tiếp tục vò lụa vừa cất tiếng:
Chàng hỏi thì thiếp xin thưa
Gió mây chất chưởng, nắng mưa thất thường
Tơ đâu mà nhện vấn vương
Khách du dừng bước ngang đường ích chi
Trịnh Thanh Sơn biết là gặp cô gái đáo để, hắn buông lời đường mật:
-Nàng có giọng hát trời phú. Tiếc rằng điệu hát đối không lột tả hết nét du dương mượt mà của chất giọng.
Cô gái giặt lụa rất yêu ca hát và muốn tiếp thu làn điệu mới, háo hức hỏi:
- Đại huynh biết nhiều ca từ không?
Trịnh Thanh Sơn biết thứ gì cũng nửa chừng nửa đoạn, biết để loè những người không biết, hắn nói khoác:
- Ngu huynh được một nhạc sư giỏi dạy âm luật và thanh điệu, tuy vẫn còn kém cỏi nhưng cũng không đến nỗi uổng công thày chỉ bảo - Hắn chuyển sang giọng trầm trồ ái mộ: - Ngu huynh chưa từng thấy chất giọng nào êm ấm lay động lòng người như giọng nàng.
Tính tự ái của cô gái giặt lụa yêu ca hát dược mơn trớn. Cô gái dệt lụa hỏi:
- Đại huynh có thể cho muội biết điệu nào hay nhất không.
Trịnh Thanh Sơn thả sức nói khoác:
- Biển nhạc mênh mông, mỗi điệu mỗi vẻ hay Khúc Trang Chu mộng điệp mơ màng thanh thoát, khúc Bạch Lạc Thiên “mẫu biệt tử” bi thương quyến luyến, khúc Vi Sinh ngọc tiên xốn xang réo rắt, khúc Thán thời thế ai oán sầu bi, khúc... Chà, các ca khúc ấy được chất giọng của nàng thể hiện thì tuy chưa dám nói trần đời có một nhưng cũng đủ ăn đứt nhiều giọng ca hay.
Cô gái giặt lụa ngừng tay vò xát, cô đứng thẳng người, vén mấy sợi tóc vương trên trán, chăm chú nhìn hai vị khách ăn vận kiểu thư sinh lãng tử ngồi trên du thuyền.
Khúc Thừa Mỹ sốt ruột về cách đối đáp dông dài, nhưng biết gã gia nô lái chuyện tới tinh huống nào nên làm thinh.
Tính cảnh giác bị lời khen ru ngủ và nhu cầu được bộc lộ tài năng trở thành động lực thúc đẩy hành vi bồng bột. Cô gái giặt lụa háo hức hỏi.
- Đại huynh dạy muội khúc Trang Chu mộng điệp, được không?
Trịnh Thanh Sơn kích thích thêm lòng ham muốn vươn tới điều mới của cô gái trẻ:
- Đó là mấy ca khúc do một ca công người Đường chạy loạn sang nước ta dạy thày ngu huynh. Những ca khúc du dương trác tuyệt này chỉ trình bày trong cung đình hoặc dịp lễ hội ở các nhà quyền quí - Hắn ngừng lời, chuyển tình huống - Ngu huynh ca khúc dạo đầu, muội nghe thử.
Hắn ngừng nói để tích hơi rồi cất tiếng hát. Điệu khúc thanh thoát trầm bổng, chất giọng ấm áp... Quả khó tìm được giọng ca thể hiện hay hơn.
Cô gái giặt lụa cầu khẩn:
- Đại huynh dạy muội đi!
Trịnh Thanh Sơn đắn đo chùng chình, làm ra vẻ miễn cưỡng, quay về phía Khúc Thừa Mỹ hỏi lấy lệ, vì hắn thừa biết anh chàng hám gái ấy đang sốt ruột có người đẹp:
- Đại công tử cho phép!
Khúc Thừa Mỹ phụ hoạ:
- Ừ, ngươi chỉ bảo cho cô nương ấy đi! Nhân dịp ta học lỏm đôi câu.
Trịnh Thanh Sơn dụ con thỏ vào lồng:
- Nàng xuống đây để đại công tử cùng học!
Lòng đam mê nghệ thuật, tính đa cảm khiến cô gái giặt lụa không suy tính xuôi ngược, ả xăng xái tìm cách bước xuống thuyền, nhưng thuyền xa bờ mà chỗ nước ấy sâu không lội tới. Á với với tay, nhìn Thanh Sơn giục:
- Đại huynh cho thuyền vào gần nữa!
Đợi phát triển tới tình huống cần thiết ấy, Sơn mới đứng dậy nhổ sào đẩy con thuyền vào sát bờ. Cô gái giặt lụa lên thuyền. Sơn đặt cây sào lên sạp mà không cắm giữ thuyền, hắn chỉ chỗ cho cô gái ngồi gần Khúc Thừa Mỹ rồi dạy hát ngay, hắn tạo ra cảnh gấp gáp khẩn trương khiến cô gái giặt lụa không có thời gian cân nhắc.
Kẻ dạy nhiệt tình, người học say sưa khiến quên cả không gian và thời gian. Từng làn gió đông nam thổi nhẹ, con thuyền lừ lừ trôi xa bờ. Cô gái giặt lụa mải mê tiếp thu và thể hiện ca khúc không biết hai gã đàn ông lập kế đưa mình ra giữa hồ nước mênh mông.
Thằng ma cô ra hiệu, miệng nói tay khua rồi xoay người đằng trước ra đằng sau.
Khúc Thừa Mỹ biết thời cơ hái hoa đã có, hắn ôm chầm cô gái giặt lụa, buông lời gạ gẫm lả lơi. Lòng đam mê nghệ thuật tuy có họ hàng gần với tính lẳng lơ, nhưng cô gái giặt lụa không phải hạng dễ dãi để người ta muốn sao được vậy. Hành vi sỗ sàng của gã đàn ông là một sự coi thường, cô phản ứng quyết liệt và lớn tiếng kêu cứu.
Một con thuyền câu lướt tới. Nhìn thấy người quen cô vẫy tay gọi to:
- Cứu muội mau lên! Chúng nó định...
Anh chài hiểu ra chuyện nhảy phắt sang du thuyền. Trịnh Thanh Sơn chưa kịp phản ứng bảo vệ chủ thì Khúc Thừa Mỹ đã bị ném xuống nước. Anh chài rút ở thắt lưng ra cái vạt - loại bơi chèo nhỏ dùng cho thuyền cáu đợi Mỹ vào gần thì quật, đồng thời trừng mắt doạ Sơn.
Trịnh Thanh Sơn không phải loại dễ hù doạ, thấy cái gì có lợi, hắn dám chết để bảo vệ nó. Gã trừng mắt dọa lại:
- Xúc phạm Khúc đại công tử, mày có mấy đầu?
Anh chài chợt biết trước mình là ai, thì ra bọn này cậy thế làm càn. Dựa vào thế người khác là hạng hèn nhát không đáng đếm xỉa. Anh đá Sơn lộn nhào xuống nước có ý cảnh cáo:
- Con phượng hoàng mổ bậy cũng bị đập chết, nhưng họ Khúc có công đức cứu dân nên ta tha cho cái mạng dê chó của chúng mày.
Nói đoạn, anh dìu cô gái giặt lụa sang thuyền mình rồi hai tay hai vạt bơi thuyền đi thẳng.
Trịnh Thanh Sơn dìu Khúc Thừa Mỹ lại gần du thuyền, đỡ lên rồi lên theo.
Gã xúi chủ sai người dò la tung tích bọn hành hung:
- Đoá hoa tươi thơm công tử đã có thể hái được chỉ vì thằng đê tiện ấy mà tuột khỏi tay. Phải trừng trị tên nhiễu sự.
Khúc Thừa Mỹ xua tay:
- Đã sai thì không thể làm càn!
Hai thày trò dong thuyền về thành, lúc cúc bước vào tư dinh. Khúc trung chúa thấy hai người ướt lũng thũng, trớn mắt ra ý hỏi.
Khúc Thừa Mỹ biến báo:
- Thưa cha, con ngồi du thuyền ra hồ Dâm Đàm ngoạn cảnh, bất ngờ gặp giông lớn lật úp thuyền, con ngoi ngóp giữa gió to sóng lớn chưa biết xoay sở ra sao để thoát hiểm. May nhờ Trịnh Thanh Sơn coi thường sự sống chết nhường cho con mảnh ván trôi nên mới được bình an vô sự.
Khúc trung chúa gật đầu, nhìn Trịnh Thanh Sơn với vẻ hài lòng. Lúc cùng trong cảnh nguy nan mà biết quên mình cứu người là một hành vi đạo đức cao cả, hạng tầm thường không thể làm được. Ta nhìn nhầm gã thiếu niên kia, thật là hồ đồ. Trung chúa nhìn tên cơ hội gian manh bảo:
- Ta cử ngươi làm Tổng quản tùy tòng công tử!
Trịnh Thanh Sơn chắp tay kính cẩn tạ ơn. Từ một gã gia nô chịu sự sai khiến của người khác trở thành một Tổng quản tuỳ tùng ra lệnh cho nhiều kẻ dưới.
*
Dương Đình Nghệ ở ấp Ràng(1) là một hào trưởng trượng nghĩa nổi tiếng khắp Ái Châu, những người thân cận ông đều là bậc hào kiệt: con rể là Ngô Quyền, con trai Dương Tam Kha, nha tướng Kiều Công Tiễn... họ giúp ông điều khiển ba ngàn gia binh. Đình Nghệ chủ trương khoanh vùng, tách khỏi sự quản lý của chính quyền Đại La(2).
(1) Xã Dương Xá, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa .
(2) Hà Nội.
Đinh Công Trứ (cha đẻ Đinh Bộ Lĩnh), Nguyễn Thược (cha đẻ Nguyễn Bặc) là bậc hào mục được kính trọng ở Đại Hữu(3) kết bạn với khách giang hồ Trịnh Khiển Sơn biết tình trạng cát cứ không có lợi cho quốc gia liền cùng nhau vào Ái Châu gặp Dương Đình Nghệ.
(3) Xã Gia Phương, huyện Gia Viền, Ninh Bình.
Dương Đình Nghệ thấy khách tới người nào cũng chững chạc, đàng hoàng liền ân cần đón vào nhà, ngồi trên chiếc trường kỷ bằng gụ màu mun. Ông mời trầu nước rồi lên tiếng:
- Các quý hữu tới tệ xá hẳn có điều muốn dạy bảo Nghệ này!
Đinh Công Trứ nói:
- Nhà lớn liêu xiêu, hàng ngàn năm bị sóng vùi gió dập. Khúc trang chủ không thể một tay đỡ trời. Giặc dữ phương Bắc vẫn nhòm ngó mà anh hùng hào kiệt lại không chung sức chống đỡ thì đó không phải là cái phúc của ngôi nhà Hồng Lạc.
Dương Đình Nghệ hoan hỉ đánh giá:
- Được nghe lời vàng ngọc, lòng Nghệ như được vén lớp mây mù - Ông ngoảnh nhìn Nguyễn Thược hỏi:
- Túc hạ có cao kiến gì?
Nguyễn Thược vốn là người bộc trực, thẳng tính nên đáp:
- Việc hợp đạo lý mà không làm thì không phải là đại trượng phu.
Dương Đình Nghệ lại hướng về phía Trịnh Khiển Sơn hỏi:
- Còn tiên sinh?
Trịnh Khiển Sơn điềm nhiên trả lời:
- Lời nói hay nhất ông Trứ đã dùng rồi, tiểu sinh chỉ còn biết bái phục thôi.
Dương Đình Nghệ gặng hỏi:
- Ta muốn nghe cao kiến của tiên sinh?
Trịnh Khiển Sơn đáp:
- Nhanh và chậm khác nhau, động và tĩnh khác nhau. Nhanh chậm, động tĩnh là động lực lợi hại của đại cục. Ghen ghét tráng sĩ, trọng dụng bậc trí giả là điều khiến Ngũ Tử Tư quật mộ Sở Bình Vương và Tề Hoàn Công được dùng Quản Di Ngô. Ngài lên Tống Bình giúp Khúc trung chúa giữ vững nền tự chủ cần thiết như đưa củi vào lò, tát nước lên ruộng, tiểu sinh dẫu hèn mọn cũng xin được cầm roi ngựa theo hầu ngài.
Ngô Quyền lên tiếng:
- Xin phép nhạc phụ cho con giãi bày: Danh nghĩa không chính đáng thì lời nói không thuận. Muốn danh chính ngôn thuận, trên không phụ lòng trời, dưới đáp ứng được nguyện vọng của chúng dân thì nhạc phụ nên giúp Khúc trung chúa giữ gìn đất nước.
Dương Đình Nghệ nghe lời, ông cùng ba ông khách ngồi thuyền ra Đại La gặp Khúc trung chúa.
Khúc Thừa Hạo thấy Dương Đình Nghệ hưởng ứng cuộc chiêu hiền nạp sĩ mừng lắm, nói:
- Danh tiếng Dương hào trưởng đã vang đến đây từ lâu, Hạo này ngưỡng mộ và hằng trông mong. Miền phên dậu Ái Châu, Hoan Châu chưa có ai quản lĩnh. Dương hào trưởng hãy vì non nước Giao Chỉ mà gánh vác chức thứ sử vùng đó.
Dương Đình Nghệ là người trượng nghĩa, ông giới thiệu khéo người bạn mới:
- Tiểu dân ở miền sơn cước, không biết trời cao đất rộng, chẳng hiểu lẽ thịnh suy thành bại, may nhờ ông Trứ mở mang trí não mà tỉnh ngộ.
Khúc trung chúa hớn hớ khen:
- Thật đáng trân trọng! Nước nhà đang phen nguy kịch như thuyền trong cơn mưa bão cần nhiều cánh tay chèo chống. Ta muốn Ông Trứ nhận chức đô uý!
Đinh Công Trứ thành thật giãi bày:
- Quả là kẻ hèn này không thạo việc điều quân khiển tướng, cũng không giỏi bàn luận cơ mưu ở nơi màn trướng, phụ lòng trông mong của minh chủ. Thực hổ thẹn vô cùng.
Trịnh Khiển Sơn bàn:
- Xem ngựa thấy nó gầy nên khó biết là ngựa hay hoặc dở, xem kẻ sĩ thấy họ nghèo hèn nên khó biết họ tài hoặc vụng. Ngựa Ký có thể chạy vạn dặm, nhưng bắt nó kéo cày thì một bước nó cũng không nhấc nổi chân.
Dương Đình Nghệ hiểu sâu xa lời nghị luận của Khiển Sơn, ông chắp hai tay lên đầu gối thưa:
- Bẩm minh chúa! Đúng như lời nhận định của Trịnh tiên sinh. Ông Trứ không có tài như Quản Trọng nhưng không hổ thẹn với Bão Thúc Nha. Một chân không thể đi xa muôn dặm, một mắt không thể bao quát bốn phương trời. Một mình Nghệ này trông coi cả hai châu rộng lớn thì khó có thể tránh khỏi nhiều sai sót, như vậy Nghệ đã phụ sự uỷ thác của chủ. Nếu minh chúa giao cho ông Trứ quản lĩnh chức Thứ sử Hoan Châu thì chắc chắn miền đó sẽ thịnh vượng. Bọn thần bảo vệ miền phên dậu quyết không phụ lòng tin cậy của minh chúa.
Khúc trung chúa là người từng trải, quan sát phong độ nghe ngôn luận có thể có một đánh giá đối tượng. Ông tỏ ý bằng lòng.
- Nghe những lời nói của bậc quân tử như đi trên con đường quang đãng - Khúc trung chúa nhìn Dương Đình Nghệ vẫn nói tiếp - Ta nghe lời ông. Hai ông là nanh vuốt của Đại La đấy - Khúc trung chúa nhìn Nguyễn Thước, Trịnh Khiển Sơn hỏi tiếp - Hai tiên sinh có cao kiến gì?
Nguyễn Thước đáp:
- Thuyền lắp thêm chèo, thuyền ắt bơi nhanh!
Trịnh Khiển Sơn lên tiếng:
- Con hổ gầm là vang động núi rừng, con đại bàng tung cánh là che rợp cả một vùng trời. Ấy là nhờ núi rừng nhiều cây, bầu trời cao rộng. Ông Nghệ, Ông Trứ là hai nhà thao lược. Hẳn không phụ sự tin cậy của chúa thượng.
Khúc trung chúa là người sâu sắc, quan sát phong độ, nghe ngôn luận có thể có một đánh giá về con người, ông bằng lòng giao chức Thứ sử Hoan Châu cho Đinh Công Trứ, thứ sử Ái Châu cho Dương Đình Nghệ phong Nguyễn Thước làm nha tướng và giữ Trịnh Khiển Sơn bên mình để cùng nghị sự việc nước.
Khúc trung chúa sai quan hầu dẫn mọi người sang khách xá. Ngay tối ấy ông mời riêng Trịnh Khiển Sơn đến nói chuyện. Ông thành thật đặt vấn đề:
- Nước nhà đang như người ốm mới khỏi bệnh, mọi việc đều cần. Túc hạ có thể làm gì?
Trịnh Khiển Sơn là người khiêm tốn nhưng ông cũng biết khiêm tốn ở tình huống khẩn cấp là tự trói chân bịt miệng mình, tình thế đất nước lúc này là cần thể hiện ngay. Ông nhận thấy rào đón vòng vo không thích hợp nên bộc lộ luôn ý tưởng tiến thủ:
- Sức tôi không vật được cọp, nhưng sai khiến ba quân không nằm ớ đôi tay bẻ nanh cọp. Người vận sức kẻ dùng mưu, mạnh yếu tuy khác nhau song đều là nguồn gốc của thế mạnh!
Khúc trung chúa dịch lại gần Trịnh Khiển Sơn, ân cần lên tiếng:
- Túc hạ chưa có lời thao lược nhưng quán xuyến cả thao lược. Túc hạ có lời gì hay dạy ta?
Trịnh Khiển Sơn thưa:
- Lúc khẩn cấp mà nói lời viển vông thì ích gì cho hành sự. Nhờ vũ dũng có thể lấy được đầu tướng giặc, nhưng nhờ kế sách hay dân mới yên, bờ cõi mới bền.
Khúc trung chúa dịch lại gần Trịnh Khiển Sơn, như hai người đang kề vai nhau nói chuyện.
- Như An Nam ta ngày nay, kế vạn toàn là gì?
Trịnh Khiển Sơn trình bày chính sách cai trị:
- Dù phương Bắc đang đại loạn nhưng hiểm hoạ từ hướng đó tràn sang Nam vẫn tiềm tàng. Nếu do dự, chần chừ, suy tính lợi hại thiệt hơn thì có ngày trở tay không kịp. Giữ nước phải dựa vào dân. Muốn dân mạnh phải khiến dân an cư lạc nghiệp, không bị chính sách nghiệt ngã làm tàn tạ. Theo vãn sinh, kế sách ngày nay nên làm là chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính, cử những người tài năng, chính trực đứng đầu, xoá bỏ hẳn lối cai trị hà khắc, độc đoán của bọn đô hộ, khoan sức dân, bỏ tệ cống nạp, khuyến khích nghề nông tang gom lòng người về một mối, chỉnh đốn vũ bị, bớt hoang phí để dồn công của cho đại nghiệp.
Khúc trung chúa hoan nghênh, ông muốn thực hiện phép cai trị dựa vào cơ sở giáp, xã. Từng chiếc nan cứng thì mới có thể ken đan nên chiếc nia cứng, ông giao cho Trịnh Khiển Sơn lên phương án chia lãnh thổ thành lộ, phủ, châu, giáp và xã, kê khai dân số, lập sổ hộ tịch, bỏ thuế lực dịch, giảm nhẹ sự gánh vác cho dân, tiến hành đánh thuế bình quân, xây dựng lực lượng võ trang. Phương châm cai trị đất nước của Khúc trung chúa là: "Khoan, giản, an, lạc" (Khoan dung, giản di, yên ổn, vui vẻ).
*
Trịnh Khiển Sơn làm việc bên Khúc trung chúa nên gần gũi Khúc Thừa Mỹ - con Khúc Thừa Hạo. Qua tiếp xúc ông biết Mỹ là kẻ nông cạn, ham chọi gà chọi dế hơn học đạo lý thánh hiền. Và tiên đoán Thừa Mỹ không đủ tài năng, đức độ giữ vững cơ đồ của cha ông. Hôm Dương Đình Nghệ lên đường về Ái Châu, Trịnh Khiển Sơn ra tiễn, ông chắp tay vái hành lễ, nói:
- Lời nói thẳng khó nghe, lời xiểm nịnh càng khó nghe. Ngài có muốn nghe lời nói gan ruột không?
Dương Đình Nghệ ngạc nhiên vì thấy Trịnh Khiến Sơn đặt vấn đề có vẻ như liên quan đến công việc trọng đại. Ông chống tay lên hông, đáp:
- Đất nước đang như con thuyền vượt gió bão cần nhiều cánh tay khoẻ mạnh chèo chống. Bỉ chức mới được minh chủ giao cho trọng nhậm ở một vùng hiểm địa, rất cần những lời nói hay, những kế sách lạ.
Trịnh Khiển Sơn thong thả giãi bày:
- Giao Châu mới dựng quyền tự chủ, nếu không biết giữ gìn thì có tội với các bậc tiên liệt. Cột cái yếu, ngôi nhà không vững. Khúc trung chúa là vị minh chúa nhưng không phải là bậc quân chủ hùng tài, sự nghiệp chấn hưng khó có đột biến, tuy vậy vẫn có thể giữ được nước. Hiềm nỗi người kế tục là kẻ tự phụ háo thắng, vãn sinh e tới giai đoạn loạn phương Bắc tạm yên thì An Nam ta khó tránh khỏi nạn can qua. Ái Châu là đất nghĩa khí, thượng võ có thế tạo nên bức đê ngăn sóng. Dám mong ngài không cho lời vãn sinh là nhảm nhí. Vào đó các ngài nên chú trọng xây dựng quân bị.
Dương thứ sử nắm chặt hai tay Khiển Sơn tỏ lòng trân trọng rồi lên đường.
Từ đó, Trịnh Khiển Sơn ở bên Khúc trung chúa giữ chức Thông chính sứ. Ông muốn giúp Khúc trung chúa đưa đất nước lên con đường cường thịnh, nhưng An Nam mới giành quyền tự chủ vẫn ở thể người đang ốm dùng thuốc phải từ từ, không thể bốc ngay thang công phạt mạnh, không những thế Khúc chủ không thoát khỏi lề thói manh mún của một điền chủ khoanh mình trong luỹ tre làng, bởi vậy, ông ôm ấp kế sách lạ, chủ trương táo bạo mà không thể áp dụng. Ông thấy Khúc chủ quá tin mối bang giao với nhà Hậu Lương nên quan tâm tới nội trị hơn lo đối phó với ngoại xâm. Ông đề cập:
- Ngài tường tận lẽ: vương giả dĩ dân vi thiên, dân giả dĩ thực vi thiên(1). Nhưng đạo tồn tại trong đời là phải biết lo xa, biết tự bảo vệ. Muốn dân chúng sống yên vui mãi mãi thì phải bảo vệ non sông, muốn bảo vệ non sông phải làm cho dân no đủ. Trung chúa ngồi giữ giang sơn mà không chú trọng võ bị thì có khác gì dùng vợt múc nước, dựng tường mây chắn gió và đãi đằng dân chúng một bữa say tuý luý rồi bỏ mặc họ chết đói.
(1) Dân là trời của vua, miếng ăn là trời của dân.
Khúc trung chúa nghe lời, cử người lo việc tuyển quân rèn vũ khí.
Trịnh Khiển Sơn gần gũi Khúc Thừa Mỹ, muốn giúp đỡ rèn tâm luyện chí vị chúa tể tương lai. Nhưng, giang sơn dị cải, bản tính nan di(2).
(2) Núi sông dễ cải tạo, tính người khó thay đổi.
Có một giai thoại kể rằng: Cụ Khúc Thừa Dụ rất coi trọng chí hướng của con và cháu nên tổ chức buổi lễ “thí nhí”(3) thật trang trọng. Hồi Hạo đầy tuổi tôi, cụ bày ấn triện, cung tên, bút mực, cày bừa để phát hiện chí hướng của con, Hạo vơ ngay ấn triện và kéo bút mực vào lòng mình. Cụ mừng, tự nghĩ: “Con ta sẽ là người có ích cho đời”. Khi Hạo có Mỹ, cụ Dụ cũng tổ chức lễ “thí nhí” để nghiệm chí hướng của cháu đích tôn. Trông thấy bốn món văn, vũ, độc, canh... Mỹ cau có đẩy đi hết. Cụ Dụ thất vọng, thầm nhủ: “Thằng bé trở thành kẻ vô tích sự”. Nhưng không cam tâm phó mặc cháu cho định mệnh sai khiến. Vì thế, ngày Mỹ bước vào tuổi đồng ấu, cụ Dụ mời ông đồ giỏi nhất vùng về nhà làm gia sư “khai tâm” cho cháu. Khốn nỗi, như cách bộc lộ trong lễ “thí nhí”, chú bé Mỹ ham chơi hơn ham học; mặc dù chữ nghĩa thày rót vào tai, in vào óc Mỹ không đến nỗi nước đổ lá khoai, nhưng tiếp thu bao nhiêu vẫn bấy nhiêu không phát huy cũng không sàng lọc.
(3) Thí nhi: Thử trẻ lúc đầy tuổi tôi để đoán chí hướng sau này.
Mỹ từ cậu ấm con nhà điền chủ giàu có, được mẹ chiều như chiều vong, mỗi khi Mỹ mắc lỗi, bị ông hoặc bố trách phạt, bà mẹ Mỹ đứng ra che chắn nên Mỹ càng tự tung tự tác. Một tính cách không biết tự chủ bỗng nhiên trở thành đại công tử quyền quý kề cận lại là Trịnh Thanh Sơn- một gã cơ hội gian manh rất giỏi biến báo nên tính phóng túng càng có môi trường phát triển, ngày ngày chỉ tìm thú vui bằng chọi gà, chọi dế. Mọi cuộc chơi đều do Sơn đầu têu, nhưng khi bị Khúc trung chúa khiển trách thì Khúc Thừa Mỹ đều tự nhận lỗi do mình muốn thâm nhập tìm hiểu dân tình, cũng do Sơn mớm cách biện bác cho chủ.
Trịnh Khiển Sơn gặp Mỹ khuyên:
- Làm vua có số, làm tướng có tài. Mai sau công tử ngồi ở ngôi chí tôn. Nếu không rèn giũa tài năng, đức độ thì sao có thể gánh vác việc lớn.
Khúc Thừa Mỹ xua xua tay:
- Tiên sinh nói đúng lắm. Nhưng, cờ tới tay ai người ấy phất, rồi tiên sinh biết ta phất cũng nên trò.
Trịnh Khiển Sơn nén tiếng thở dài, từ đó không đả động đến vấn đề ấy. Tảng đá bảo thủ quá nặng, lay động làm gì cho phí công sức. Ông không vui vì Khúc trung chúa không phải là người có tài hùng lược nên không biết nghe kế lạ, không dám mạnh tay thực hiện những cải cách táo bạo. Tài giỏi mà không gặp chủ không gặp thời thì cũng chỉ là kẻ áo vải tầm thường, ông muốn bỏ đi nhưng nấn ná mãi. Thế mà cũng được mười năm vua tôi hoà mục, dân chúng yên vui.
*
Năm 917, Lưu Ẩn chết, Lưu Cung cát cứ Quảng Đông, một phần Quảng Tây và Phúc Kiến, thành lập nhà nước Nam Hán, đóng đô ở Phiên Ngung(1). công khai chống lại chủ cũ. Hậu Lương và Nam Hán gầm ghè tranh giành làm chủ An Nam, Nam Hán đang thời phát triển có ưu thế hơn Hậu Lương. Sức ép trực tiếp vào An Nam là Nam Hán. Khúc trung chủ sai Khúc Thừa Mỹ làm giao hảo sứ, sang thông hiếu với Nam Hán. Hậu Lương biết, giận lắm, nhưng không thể làm gì.
(1) Thành phố Quảng Châu.
Khúc trung chủ ốm chết. Khúc Thừa Mỹ kế vị, phong ngay cho Trịnh Thanh Sơn làm Lang trung tổng quản. Việc làm đó khiến cho các bậc trung thần không phục và làm cho Trịnh Khiển Sơn lo nghĩ.
Trước khi qua đời, Trung chủ mời Trịnh Khiển Sơn lên giao phó việc tôn phù tân chúa. Khiển Sơn nhận mệnh vua mà như bị bắt vào tù. Hán Chiêu Liệt hoàng đế uỷ thác con côi cho thừa tướng Gia Cát Lượng, Lưu Thiện là đứa trẻ non dại nhưng một lòng tôn kính và nghe theo lời Khổng Minh nên Khổng Minh có thể tận lực bình sinh phò ấu chúa. Còn ông, sứ mệnh phò tân chúa thật nặng nề, nhưng Khúc Thừa Mỹ là kẻ non dại, đam mê tửu sắc lại bị tên gian thần Trịnh Thanh Sơn dắt dẫn sa đà vào các cuộc chơi trác táng. Ngày xưa Quản Trọng giúp Tề Hoàn Công cũng bị bọn gian thần Thu Điêu, Khai Phương... gièm pha hãm hại nhưng Tề Hoàn Công là bậc minh quân nên Quản Trọng có thể tận lực bình sinh phò chúa giúp dân. Còn ông, có thể làm gì? Mỹ có thể kính phục ông nhưng sẽ không nghe theo mưu kế, nhất là những lời can gián của ông. Vậy là Khúc trung chúa đã biến ông thành gã bù nhìn coi dưa. Dẫu vậy, ông vẫn không nề hà đưa ra những lời can gián, ông phê phán thú chơi chọi gà, chọi dế không phù hợp với địa vị của bậc quốc chủ.
Khúc Thừa Mỹ bỏ ngoài tai lời của bậc quốc sư. Nhưng sốt sắng tiếp nhận mánh lới lưu manh vụn vặt do tên chủ sới gà chọi Trịnh Thanh Sơn mách nước.
- Tựu trung thì Nam Hán và Hậu Lương cũng chỉ là hai chú gà chọi được tung vào sới. Hẳn chúa công biết kế “Bạng truật tương tranh, ngư ông đắc lợi”. Nam Hán và Hậu Lương gằm ghè nhau và cùng muốn dùng An Nam làm chỗ dựa. Hãy hích cho hai con hổ già ấy đấu nhau, ta đứng trên núi cao mà quan sát một con chết một con ngất ngư.
Khúc Thừa Mỹ nghe lời. Ông ta dùng mánh khóe của tay chơi chọi gà chọi dế để trị nước và thiết lập bang giao. Trước đây Mỹ đã thông hiếu với Nam Hán, nay lại sai sứ sang thông hiếu với Hậu Lương.
Trịnh Khiển Sơn can:
- Lương hay Hán cũng đều nhòm ngó đất An Nam ta. Tình thế bây giờ rối ren, tin tức thất thiệt, khó đoán xu thế phát triển của trào lưu Ngũ Quý(1). Làm như thế là trêu tức Nam Hán. Không gì bằng chẳng biểu lộ gì cả để không kẻ nào có cớ gây sự với ta.
(1) Năm nước tranh bá đồ vương ở Trung Quốc, Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu.
Khúc Thừa Mỹ không nghe, ông ta tỏ ra đắc ý:
- Kẻ tầm thường sao hiểu nổi mưu sâu của quả nhân. Chẳng sớm thì chày quả nhân ung dung ngồi xem hai con hổ ấy cắn xé nhau.
Trịnh Khiến Sơn buồn bã thưa:
- Chúa công chưa hích, chúng cũng đã cắn xé nhau rồi. Nam Hán sẽ chẳng bỏ qua chuyện này đâu.
Mỹ không nghe tự xem cái mẹo "khích khí" của ông bầu gà chọi là diệu kế. Ông ta phái đoàn sứ giả sang thông hiếu với Hậu Lương. Nhà Hậu Lương muốn lợi dụng An Nam để kiềm chế Nam Hán nên cấp tiết việt cho Mỹ.
Lưu Cung nghe tin vỗ long án nói như quát:
- Ta thề lôi bằng được thằng phản phúc ấy giam trong chuồng ngựa.
Tân chúa Khúc Thừa Mỹ trị nước thiên về bạo lực, hễ nghe đâu không yên là phái quân đi đàn áp. Trịnh Khiển Sơn khuyên:
- Việc giữ nước yên dân phải dựa vào kế tự lực tự cường, tay phải đánh tay trái chỉ khiến thân thể mang bệnh, lửa cháy nhỏ không dập đúng cách sẽ bùng lên những đám cháy lớn. Theo thiển nghĩ của thần thì việc tân chúa tăng cường lực lượng quân phòng vệ là cần thiết, muốn vậy phải thực hiện chính sách vỗ về, giảm phu dịch, áp dụng phương châm cai trị của tiên chúa "khoan dung, giản dị, yên ổn, vui vẻ".
Trịnh Thanh Sơn gièm:
- tham chính Trịnh Khiển Sơn không hiểu cái lẽ mỗi thời mỗi khác, vua mới chính sách mới. Ngày nay bọn ngang ngược lợi dụng chính sách khoan dung của liên chúa nổi lên làm bậy như nấm mùa xuân mà vẫn "khoan dung, giản dị, yên ổn, vui vẻ" thì thực là nực cười chẳng khác dùng roi tre doạ voi.
Khúc tân chúa ưa dùng thủ đoạn để điều khiển tướng sĩ, áp dụng chính sách nô lệ để sai khiến dân chúng nên giận Trịnh Khiển Sơn hay bàn ngang những công việc mình làm, nhất là phê phán gay gắt những lần ông ta cử quân đi tảo phạt các vụ lộn xộn ở vùng nông thôn, liền phái con người giỏi giang, giàu tâm huyết xuống Thiên Trường đốc thúc việc thu mua muối, cá khô.
Trịnh Khiển Sơn tự nhủ:
- Chúa công hỏi mưu kế của bậc trí giả nhưng lại dùng thủ đoạn của kẻ chọi gà đối với công cuộc bang giao, thậm chí đối với cả thần tử thân cận của mình. Vậy thì Sơn có ở Tống Bình cầm bằng cũng vô ích.
*
Cũng thời gian ấy, Lưu Cung cất quân tiêu diệt nhà Hậu Lương, chính thức xưng đế. Lưu Cung triệu tập quần thần, hỏi:
- Nam Hán ta mới lập nước, Phía Bắc, Triệu Khuông Dẫn đang mạnh lên; phía Nam, thằng Mỹ đang là mật đắng trong lòng trẫm, chư khanh thấy nên có kế sách nào để bảo tồn cơ nghiệp.
Thái uý Tào Nhương tâu:
- Mặt bắc tường dầy, mặt nam phên mỏng. Muốn nước nhà mạnh phải biến phương Nam thành hậu phương cung đốn nhân lực, vật lực.
Ngự sử Quản Ngôn Mộ bác ngay:
- Chim mới ra ràng mà đã toan cất cánh bay xa, đó là kế gây mối lo lâu dài.
Đại tướng quân Lương Khắc Chính biết nhà vua có tâm trạng gì, liền thưa:
- Tạo lực dựng thế là kế giữ nước bền vững trường tồn. Bọn hào kiệt An Nam như lũ chó xô vào tranh một mẩu xương rồi tha ra một xó mà gặm. Đây chính là cơ hội dụng công nhỏ mà thành công lớn. Chiếm được An Nam, nước Nam Hán ta mở rộng, há sợ kẻ nào!
Lưu Cung vừa ý, phong Lương Khắc Chính làm Chinh nam tướng quân, Cung căn dặn:
- Mối hận bị thằng Mỹ phản trẫm vẫn chưa nguôi, ngươi chiếm được An Nam, lại giải mối hận cho trẫm thì công không nhỏ. Ra quân lần này tướng quân áp dạng chiến thuật tốc chiến ắt thành công dễ dàng.
Lương Khắc Chính chỉ huy thủy đội xuất phát từ Khâm Châu, qua cửa Nam Triệu, vào sông Bạch Đằng, vượt Vạn Kiếp, sang sông Đuống, rẽ qua sông Nhị Hà, tiến thẳng tới Đại La chỉ gặp vài trận đánh kiểu kiến cắn voi.
Khúc tân chúa đang ung dung nằm khểnh hưởng thụ kế "ngồi xem hai con hổ đánh nhau" lại không có tin tức tình báo cần thiết về tình hình các nước lân bang nên hoàn toàn bất ngờ khi có tin báo "Quân Nam Hán tiến vào Tống Bình theo đường thuỷ" Tân chúa phái hai đạo quân đi chặn giặc đều bị thất bại. Mỹ cùng quần thần không biết đối phó thế nào. Khúc tân chúa vỗ đùi than:
- Giận thay là ta không biết nghe lời khuyên của người tài giỏi. Hãy phái người cưỡi ngựa xuống nhanh Thiên Trường mời Thông chính sứ Trịnh Khiển Sơn về.
Quân sư chưa kịp về, quân Nam Hán đã đổ bộ lên bến Triều Đông(1). Khúc tân chúa tập hợp được hơn một ngàn quân tổ chức phòng thủ cửa Đông. Quân Nam Hán dùng máy ném đá, thang công thành, chiếm được cửa Tường Phù. Tân chúa rút lui ra phía cửa Nam.
(1) Đông Bộ Đầu - dốc Hàng Than
Tướng giặc Lương Khắc Chính hạ lệnh:
- Ai bắt sống được chúa An Nam thưởng ngàn vàng và phong làm thượng tướng.
Tân chúa chạy ra tới cầu Mọc(2) thì ngã ngựa, chân bị trẹo không sao ngồi dậy được, muốn nhờ người dìu lên ngựa nhưng nhìn quanh chẳng thấy ai mà quân Nam Hán đuổi gấp, may sao vừa lúc đó một người gò lưng phi ngựa tới. Nhận ra Trịnh Thanh Sơn, tân chúa mừng rỡ reo to:
(2) Cầu Ngã Tư Sở
- Thoát rồi! Thanh Sơn cứu ta với!
Trịnh Thanh Sơn là kẻ cơ hội đốn mạt, hắn chỉ cam chịu thiệt thòi chút ít khi nhìn thấy sẽ thu lợi lớn. Cứu kẻ rớt xuống sông khi mình có thể sơ sảy chìm theo thì không gì ngu dại bằng. Lúc nguy cấp cọc chẳng lo nổi thân cọc nói gì mang thêm ốc, Sơn che mặt phóng ngựa chạy qua.
Tân chúa hoàn toàn thất vọng, tin bọn gian manh thì bị bọn gian manh phản thùng. Ông đang cố lết tới gần ngựa thì quân Nam Hán ập đến.
Một tên gian tế chỉ tân chúa nói:
- Hắn là Khúc tân chúa.
Quân Nam Hán bắt Thừa Mỹ đưa về nộp chủ tướng.
*
Trịnh Khiển Sơn được tin quân Nam Hán kéo sang, khi đang ngồi tính số sản phẩm biển mua được. Ông gập sách, đặt bút đưa mắt ra xa, buột miệng nhận xét:
- Đê chưa kịp cơi, nước lũ đã tràn tới!
Ông không thay quần áo, bước ra ngoài nhảy lên ngựa phi nước đại về Đại La ngay. Tới doanh trại quân trấn thủ Thanh Đàm(1) thì gặp tướng trấn thủ Dương Thái Huyên đang chỉnh đốn đội hình quân đội. Thông chính sứ xuống ngựa, chưa kịp hỏi Dương Thái Huyên đã lên tiếng:
(1) Thanh Trì
- Giặc Hán đến bất ngờ quá! Có tin báo chúng đã bắt được Khúc tân chúa. Mạt tướng đang điểm quân nhưng chưa biết hành động thế nào.
Trịnh Khiển Sơn:
- Nếu tân chúa đã bị bắt thì e không kịp làm gì nữa. Tướng quân phái người đi dò la tình hình rồi mới có thể quyết định hành động theo phương sách nào.
Dương Thái Huyên nghe lời.
Nửa đêm, thám báo về báo tin: Quân Hán chiếm toàn bộ thành Đại La, các cửa ô đều có lính Hán canh gác. Mỹ sắp bị giải đi Phiên Ngung.
Dương Thái Huyên nhìn Trịnh Khiển Sơn với nhiều hàm ý. Bất chợt ông dậm chân nói:
- Mất quốc chủ là mối nhục lớn. Mạt tướng cùng quân bản bộ nguyện liều chết xông ra Tống Bình cứu Chúa. Trịnh Khiển Sơn xua tay đáp:
- Ta có lòng nhưng sức không đủ, nếu cố cưỡng làm chỉ thêm hỏng việc. Không kịp làm gì nữa rồi! Tình thế bây giờ mà mạo hiểm thì chẳng khác đưa thịt vào miệng cọp. Kế cứu vãn lúc này là: tướng quân cho anh em phân tán vào rừng, đầm lầy... xung quanh thành Đại La, đợi tôi vào Ái Châu gọi quân Dương Đình Nghệ, Đinh Công Trứ ra phối hợp tấn công lấy lại Đại La.
Dương Thái Huyên đáp:
- Hạ quân xin nghe theo sự sắp đặt của đại nhân.
Trịnh Khiển Sơn cáo biệt, đi ngay.
*
Khúc tân chúa bị giải sang Phiên Ngung.
Vua Nam Hán phán:
- Xích con chó phản chủ ấy trong chuồng ngựa!
Tham chính Lý Tiến tâu:
- Thần trộm nghĩ chiếm dễ giữ khó, cần tăng cường cho An Nam.
Vua Nam Hán phán:
- Khanh có cùng mối lo như trẫm, vậy trẫm phong cho khanh làm Tiết độ sứ An Nam, cùng đại tướng quân Lương Khắc Chính giữ gìn nơi phên dậu ấy - Lưu Cung rời ngai vàng, bước xuống sân rồng, đứng trước Lý Tiến, ân cần dặn dò:
- Đại cục hỗn loạn ai biết khu xử việc bang giao kẻ ấy tồn tại. Lũ lớn từ phương Bắc đang tràn xuống, cần dựng đê chặn nước mà phương Nam chưa hẳn ổn định, chẳng khác gì mùa đông đắp chăn hẹp kín đầu ắt hở chân. Đây là việc sống còn! Dân Giao Chỉ hay làm loạn, chỉ có thể ràng buộc không thể cưỡng chế, để tránh gây thêm việc, đối với Giao Châu nên dùng chính sách vỗ về làm phương tiện trị an. Trẫm mong hai khanh sớm ổn định bên đó để có thể trả bớt quân về bảo vệ Phiên Ngung.
Lý Tiến tuân mệnh sang Đại La bàn với Lương Khắc Chính:
- Vua ta mới lập nước, nguy cơ Hậu Đường, Hậu Lương trỗi dậy chưa rút. Ở phương Bắc, thế lực Triệu Khuông Dẫn đang lên như diều gặp gió. Muốn chống mặt Bắc phải yên mặt Nam. Hoàng đế chỉ dụ: đối với dân Giao Chỉ trấn áp là hạ sách, vỗ về mới là thượng sách.
Lương Khắc Chính ủng hộ chủ trương của Lý Tiến dùng lại các thổ quan người Giao Châu, vẫn cho Dương Đình Nghệ làm thứ sử Nghệ An, Đinh Công Trứ quản lĩnh Hoan Châu. Những nơi không khuất phục, Tiến phái quân đi bình định, nhưng quân ít tướng thưa không thể phân quân chốt giữ các địa phương, ai chống thì giết ai hàng thì nhận, chỉ giao cho một tiểu tướng trông coi các đồn trại lẻ có chừng vài trăm quân người bản địa, còn tất cả quân Nam Hán đều rút hết về bảo vệ thành Đại La.