ĐỐI THOẠI GIỮA MẬT GIÁO VÀ HIỂN GIÁO
1VẤN ĐỀ ĂN CHAY
Pháp sư Tế Quần: Ở Phật giáo Tiểu thừa, do có liên quan đến vấn đề ăn thịt mà trong giới luật (Thập thông luật) được phép ăn thịt, gọi là tam tịnh nhục, tức ba trường hợp được ăn thịt. Nhưng trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa như Kinh Phạm Võng, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Niết Bàn đều xác định rõ ràng là cấm ăn thịt các loài chúng sinh, cho rằng ăn thịt tức là dứt bỏ hạt giống từ bi. Phật giáo xứ khác chiếu theo kinh điển Đại thừa mà có truyền thống ăn chay từ thời đó đến giờ, đồng thời nó đã trở thành nét đặc sắc của Phật giáo xứ khác. Phật giáo Tây Tạng cũng thuộc dòng Phật giáo Đại thừa, nhưng tôi thấy tăng nhân xứ Tạng phần lớn đều không cấm ăn thịt. Còn một số người tu học Mật tông, hầu như cũng cho đó là điều đương nhiên. Không hiểu Kham bố giải thích vấn đề này như thế nào?
Kham bố Sách Đạt Cát:1 Lương Vũ Đế căn cứ vào các Kinh Niết Bàn, Kinh Lăng Già… mà phát tâm từ bi rồi viết ra bài Dứt bỏ rượu thịt - Đoạn tửu nhục văn gồm bốn chương, chủ trương tăng ni phải một lòng dứt bỏ đồ tanh mà ăn đồ chay, từ đó trở về sau, ăn chay trở thành chế độ mà người xuất gia xứ khác phải đồng loạt tuân thủ. Không chỉ người xuất gia mới giữ giới ăn chay mà hầu hết cư sĩ tu tại gia cũng đều theo nhau bắt chước, họ có thể hoặc chọn ăn chay suốt đời, hoặc chỉ chọn ăn chay cữ thịt trong một thời gian chỉ định nào đó. Rõ ràng truyền thống tốt đẹp này rất đáng được Phật giáo Tây Tạng và các giáo phái khác tán thưởng và tùy hỷ noi theo. Dù tín đồ Phật giáo xứ khác trước thời Lương Vũ Đế chưa chắc đã lấy ăn chay làm quy tắc bắt buộc mọi người phải tuân thủ chấp hành, nhưng bất kể thế nào thì kiên trì ăn chay trong tu tập của mỗi cá nhân tu hành Phật giáo Đại thừa đều đáng được ca ngợi, xưng tụng.
1 Kham bố 堪布: Dịch âm từ “mKanpo” của tiếng Tạng, chỉ người trụ trì, hay viện chủ của tự viện trong hệ thống giáo quyền Phật giáo Tây Tạng.
Nói đến giáo nghĩa của Phật giáo Tây Tạng đối với thái độ ăn chay, trước tiên cũng cần thanh minh đôi điều: Phật giáo Tây Tạng từ xa xưa chưa từng ca ngợi, tán dương thói quen ăn thịt, đôi khi còn nghiêm cấm tứ chúng đệ tử không được vì lòng ham muốn của cái bụng và cái miệng mà giết thú vật để ăn thịt. Kể từ sau khi Phật giáo truyền nhập vào đất nước chúng tôi, phần lớn dân chúng Tây Tạng đều lấy tam tịnh nhục1 làm gốc cho việc ăn thịt. Vả lại, trong số những cao tăng đại đức xứ Tạng cũng không thiếu những vị đề xướng việc ăn chay, như Kiều Mỹ Nhân Ba Thiết, Như Lai Nha, Hoa Trí Nhân Ba Thiết, Khâm Tắc Ích Tây Đa Kiệt, Bạch Mã Đốn, v.v. Thành tựu to lớn của họ đều hướng đến việc đề xướng ăn chay, đồng thời nghiêm khắc khiển trách hàng loạt những tội nghiệt sát sinh và tập tục cúng dường thịt cá tanh tao. Trong số những người ăn chay, phần lớn thân thể của họ vẫn khỏe mạnh bội phần. Người khai sáng Phật giáo Tây Tạng là Đại sư Liên Hoa Sinh trong sách Tam căn bản Bảo đăng luận bàn về thực phẩm Tây Tạng có nói: “Ăn thịt nên trừ bỏ tùy theo trường hợp… Sa di và tỳ kheo không được ăn các loại thịt trong những trường hợp sau: những sinh vật đang mang thai mà chết, bị giết hại, chưa trưởng thành mà chết, bị thiêu sống, bị dìm nước mà chết, bị lăn trên núi xuống mà chết, các loại thịt của hiến tế, thịt của loài động vật móng tròn và kể cả các con vật có máu huyết cũng cấm chỉ. Muốn biết ý nghĩa sâu xa đầy đủ cần đọc thêm những sách liên quan đến luận điển Tam tạng”. Một đời của Long Khâm Tâm Trích người thầy của Tôn giả Trí Bi Quang từng nói: “Thịt mà đời này chúng ta đang ăn giống như Tôn giả Ga Đạt Á Na khi hóa duyên quán sát cho rằng đều là thịt của cha mẹ đời trước. Nếu một người ngay thẳng, có lương tâm, đối với thịt của cha mẹ mà người tể phu đã giết hại thì làm sao có thể nhẫn tâm ăn cho được? Nếu bình tâm suy nghĩ lại, đối với mọi chúng sinh cũng như cha mẹ đáng thương của mình, thì sẽ phải phát sinh tâm đại từ bi mãnh liệt. Thế nhưng có một số Mật chú sĩ nào đó lại phóng tâm bừa bãi, uống rượu ăn thịt, thì những kẻ đó chẳng khác gì là lang sói hay ó diều vậy”.
1 Tam tịnh nhục 三淨肉, trong Thập thông luật quyển 7 giải thích tam tịnh nhục như sau: Đó là ba thứ thịt của con vật bị chết mà người ăn không nghe thấy tiếng kêu khi con vật bị giết, không nhìn thấy giết, không nghi con vật bị giết lấy thịt cho mình ăn, và trong giới luật của Phật giáo Tiểu thừa cho phép được quyền ăn ba thứ thịt ấy.
Có thể thấy nói ăn thịt của Phật giáo Tây Tạng không cùng với quan điểm truyền thừa là lời nói vô căn cứ. Chỉ có điều vì Tây Tạng ở trên vùng đất thuộc cao nguyên Thanh Tạng, là vùng đất rộng lớn được gọi là nóc nhà của thế giới, do tình hình giao thông khó khăn, hẻo lánh khiến cho hơn cả ngàn năm hầu như phải cách ly với thế giới bên ngoài.
Lại thêm điều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt, những nhân tố có ảnh hưởng mạnh như vùng đất quá cao so với mặt nước biển, nhiệt độ quá thấp, tình trạng thiếu dưỡng khí, giá rét khốc liệt, băng tuyết quanh năm… khiến cho sản phẩm nông nghiệp dùng cho cuộc sống ở vùng đất này vừa ít lại vừa thiếu, số lượng có thể nói là quá khiêm tốn. Do sự ràng buộc của nhiều nhân tố bất lợi ấy, người dân Tây Tạng lấy hạt và bột đại mạch làm lương thực chủ yếu cho cuộc sống hằng ngày, trong tình hình không có rau đậu, lúa gạo, nên phần lớn người dân Tây Tạng mới bắt đầu dùng thịt một cách hạn chế. Điều kiện tự nhiên khiến họ không còn cách lựa chọn nào khác trong vấn đề ăn uống.
Nhưng có một điểm hy vọng khiến mọi người chú ý, đó là đối với việc phân tích bất cứ một vấn đề gì cũng không thể đơn giản hóa vấn đề ấy được, đặc biệt là vấn đề ấy vốn có nhiều rối rắm, và khi chúng đan xen lẫn nhau, thì càng không thể lấy ý riêng mà khái quát chung theo kiến giải chủ quan, khẳng định một cách cẩu thả. Nói ra một lời phán đoán thì dễ, nhưng lời phán đoán ấy có thể thích hợp trong nhiều phạm vi thì nên tránh bàn luận, đối với vấn đề ăn chay, ăn mặn cũng nên phân tích như vậy. Một sự thực rõ ràng và cơ bản trên toàn thế giới, ngoại trừ Phật giáo xứ khác, là đại đa số tín đồ Phật giáo các nước và vùng lãnh thổ như Bhutan, Srilanka, Thái Lan, Nepal, Nhật Bản… cơ bản đều có ăn chay ăn mặn xen nhau, hoàn toàn không yêu cầu nhất định phải ăn chay. Thói quen ăn chay của Phật tử xứ khác đương nhiên đáng được ca ngợi và là một truyền thống tùy hỷ tốt đẹp, một thói quen tốt đẹp. Nhưng chúng ta tuyệt đối không thể vì tín đồ Phật giáo của địa phương này ăn thịt mà gạt họ ra khỏi đạo Phật và đi đến phỉ báng bảo những gì họ tôn thờ đều không phải là Phật pháp. Nhân duyên cụ thể của mỗi xứ sở, mỗi cá nhân đều không thể bàn qua bằng một đôi lời, huống nữa đối với những người tu hành Phật giáo Tây Tạng mà nói, vô số những hành vi của họ đều có những mật ý sâu sắc từ chính bản thân họ, trước khi mình chưa đạt đến cảnh giới tu chứng của họ, tốt nhất là đừng vọng ngôn suy đoán, khinh suất khẳng định.
Nhiều người tu hành Mật tông trước khi ăn thịt đều lấy tâm đại từ bi nhiếp thụ những gì họ làm, họ lấy việc tụng niệm chú ngữ để hồi hướng, siêu độ chúng sinh bằng phương thức đặc biệt của mình. Có những vị đại thành tựu ăn thịt, nếu ta lấy tâm địa của người bình thường thì không thể suy đoán ra được, ví như Na Nhược Ba thường khi ăn cá, như Hòa thượng Tế Công người Hán thường ăn thịt chó. Là một kẻ phàm phu như chúng ta đứng trước những hành vi như vậy, tốt nhất là không nên buông lời bình giá, vì đối với một người đã chứng ngộ thì cách thức hành vi là gì đều có thể trở thành hình thức Phật sự hư ảo phù hoa.
Nhưng trong trường hợp chung chung thì cũng có một số ít người tu học Mật tông cho chuyện ăn thịt là việc đương nhiên, là đạo lý muôn đời, điều đó cho thấy về căn bản họ không hiểu giáo nghĩa của Mật tông, cũng như không thể lý giải phương tiện thị hiện mật ý của các vị cao tăng đại đức. Đặc biệt là những năm gần đây, theo đà mở rộng qua lại giữa xứ Tạng với bên ngoài, giao thông càng ngày càng tiện lợi khiến cho các loại rau quả, lương thực, thực phẩm càng thêm phong phú. Vì vậy, rất nhiều vị tu hành Mật pháp đã chọn cách ăn chay, điều này khiến nhiều người vô cùng hứng thú và vui thích.
Chư Phật Bồ tát vốn đã nói nhiều về tội lỗi của việc ăn thịt trong các kinh luận như Kinh Đại Tượng lực, Đại Vân, Niết Bàn, Chỉ Man, Thiện Tý thỉnh vấn và các bộ Luận Trung Quán, cũng như Mật tông của pháp môn Đại thừa, đương nhiên không thể nhìn mà không thấy, giả mù giả điếc hoặc cố ý tìm cớ biện bác cho mình. Chỉ mong muốn mọi người cần có thái độ toàn diện để xem xét vấn đề ấy, ví như trong Kinh Phạm Võng xếp ăn thịt vào một trong số bốn mươi tám tội ô uế đáng khinh, song đó thực chất không phải là một tội nặng; cho nên đối với vấn đề này cũng cần phải cẩn thận quyết đoán. Do đó, những ai có hứng thú, có thể đi sâu vào kinh tạng để học hỏi, tham khảo.
Có thuyết nói “người ăn chay không thể tu theo phép điểm đả thông khí mạch” là lời nói vô căn cứ. Trong Mật pháp, chủ yếu là Thời luân Kim cương tục bộ chú trọng nhấn mạnh đến phép tu tập khí mạch minh điểm1, nhưng trong Thời luân Kim cương Đại sớ - Vô Cấu Quang sớ thì hiện tượng ăn thịt bị đặc biệt ngăn cấm; nhiều bài giảng giải bàn luận về phép tu Đại viên mãn của Ninh Mã Ba cũng nói đến việc ngăn cấm ăn thịt. Ngoài ra, theo những gì tôi biết trong luận điển của các giáo phái khác thì chưa thấy thuyết này. Lối dùng phép tu tập khí mạch minh điểm để tìm cớ, tìm lý do bào chữa cho mình thì tôi nhận thấy là trong Mật tông không có bất cứ một chứng lý nào và cũng không phù hợp với giáo nghĩa của Mật pháp.
1 Chỉ phép tu đặc hữu của Mật giáo, chủ trương điều hòa khí mạch trong thân để tịnh hóa thân, tiêu trừ tật bệnh, phiền não.
Ở Viện Ngũ Minh Phật học, trước gần cả vạn tứ chúng đệ tử đang nghe pháp, Pháp vương Như Ý Bảo Phổ Mỹ Bành Thố đã nói rõ hàng loạt tội lỗi của việc ăn thịt. Được Pháp vương kêu gọi và cảm hóa, lúc bấy giờ số đệ tử phát nguyện ăn chay lên đến hàng trăm người. Sau khi Pháp vương giảng giải rõ ràng, lúc học viện mở lại pháp hội, bữa cơm của tăng chúng đã bắt đầu dùng cơm chay là chính. Bản thân tôi cũng hoàn toàn ca ngợi thói quen ăn chay là rất tốt, đồng thời đã nhiều lần giảng giải cho mọi người về thói quen này. Phật giáo Tây Tạng có nhiều điều không giống với các giáo phái khác là rất đáng quý và có truyền thống đáng giá, nhưng trong đó rõ ràng không bao gồm vấn đề ăn thịt. Ăn thịt đối với dân Tây Tạng mà nói chỉ là do tập quán ẩm thực dưới ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, điều cần phải chú ý của những đệ tử người Hán đến Tây Tạng cầu pháp chính là cốt tủy chân chính của Mật pháp Vô thượng, chứ không phải là thói quen và truyền thống ăn uống của xứ Tạng. Tốt nhất người tu hành xứ khác nên duy trì tập quán ăn chay vốn có của mình như khi đang ở trên đất Hán, đặc biệt là trong tình hình thế giới đầy sát khí như hiện nay, chúng ta nên là những người tiên phong và là sứ giả đáng tin cậy của lòng từ bi và trí tuệ.
Cùng là khu vực lưu truyền và quảng bá Phật pháp Đại thừa, cách đối xử với việc ăn chay và ăn thịt, quan điểm, cách thức hoàn toàn không giống nhau, nhưng điều đó không làm trở ngại giữa các địa phương với nhau, giữa các tông phái với nhau, cần được bổ khuyết hỗ trợ cho nhau, viên dung vô ngại. Có một điều quan hệ này là các vị có thể kham khảo thêm các tác phẩm Bi thảm thế giới, Phóng sinh công đức văn, trong những tác phẩm ấy tôi đã nói rõ những vấn đề này, ở đây không cần phải nói lại nữa.