Pháp sư Tế Quần: Đức Phật trải qua một thời gian dài tu hành đạo Bồ tát mới có được trí tuệ viên mãn và cuối cùng thành tựu Phật quả. Nếu bảo tức thân thành Phật như điều Mật tông nói thì sự thành tựu của Đức Phật là đạt quả vị Phật, phải chăng nói như thế này có đúng không: Chỉ cần thông qua sức mạnh của quán tưởng là có thể thay thế ba đại a tăng kỳ kiếp1 trong việc tu đạo Bồ tát?
1 A tăng kỳ kiếp 阿僧祇劫: Vô số kiếp.
Kham bố Sách Đạt Cát: Trong các kinh điển của Hiển tông có ghi chép chuyện Đức Phật phải trải qua ba đại a tằng kỳ kiếp tu hành, sau đó mới thành Phật, nếu nói theo quan điểm phổ biến của Hiển tông thì Bồ tát có căn cơ cùn nhụt phải trải qua ba mươi ba a tằng kỳ kiếp sau mới thành Phật, tức là tư lương đạo, gia hạnh đạo mỗi thứ phải trải qua ba đại kiếp, mỗi một địa trong thập địa1 cũng phải trải qua ba đại kiếp; người có căn cơ trung bình phải trải qua bảy đại a tăng kỳ kiếp sau mới thành Phật, tức là tư lương đạo, gia hạnh đạo mỗi thứ phải trải qua hai đại kiếp, kiến đạo trải qua một đại kiếp, tu đạo trải qua hai đại kiếp; người có căn cơ nhanh nhẹn thì trải qua ba đại a tằng kỳ kiếp sau mới thành Phật. Chính như vị A xà lê nổi tiếng Ba Tuyết của Ấn Độ trong tác phẩm Trung Quán Bảo Đăng Luận từng nói: “Người có căn cơ nhanh nhẹn trải qua ba đại kiếp thì Phật quả hiện tiền, người có căn cơ trung bình trải qua bảy đại kiếp, người có căn cơ cùn nhụt trải qua ba mươi ba đại kiếp”.
1 Thập địa 十地: Theo tầng thứ chứng ngộ của Bồ tát mà chia làm mười loại cảnh giới. Đó là Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa.
Nói về người có căn cơ nhanh nhẹn phải trải qua ba đại kiếp, trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận có nói: “Ba đại kiếp viên mãn, việc tu hành đạt kết quả”. Về điều này, trong Bát Nhã Bát Thiên Tụng Quảng Thích giải thích rằng: “Đại kiếp thứ nhất bắt đầu từ giữa tư lương đạo đến nhất địa thì viên mãn; đại kiếp thứ hai từ giữa nhị địa đến thất địa thì viên mãn; đại kiếp thứ ba từ giữa bất động địa đến Phật địa thì viên mãn”. Còn Bồ Tát Địa Luận thì nói: “Tư lương gia hạnh một đại kiếp, từ nhất địa đến thất địa một đại kiếp, ba địa thanh tịnh một đại kiếp”. Ý nghĩa của những bộ luận ấy là nói giống như tính chung cả đám ruộng gồm bờ ruộng và phần bên trong của đám ruộng, cách nói nhất địa tức là đã bao gồm cả tư lương đạo, gia hạnh đạo tính trọn trong một đại kiếp, điều này có ý nghĩa tương tự như trong Du Già Sư Địa Luận.
Những điều trình bày trên đây là nhằm nói cho tình trạng chung chung, kỳ thực, bất kể là Hiển tông hay Mật tông, ngoài việc thừa nhận thuyết ba đại a tăng kỳ kiếp thành Phật ra, đều ngấm ngầm hoặc công khai cùng thừa nhận, ca ngợi thuyết tức thân thành Phật, chỉ có điều còn tản mạn trong các bộ kinh luận lớn, hay vì Đức Phật đã tập trung tuyên bố rõ ràng trước những chúng sinh có cơ duyên, và còn cụ thể chỉ ra hàng loạt những pháp môn phương tiện tức thân thành Phật khác. Trong Mật tông, hành giả dựa vào sự gia trì truyền thừa của các vị thượng sư khác nhau, và có nhiều loại, nhiều dạng pháp môn phương tiện quán tưởng, lại cụ thể phù hợp với căn cơ của một số hành giả Mật tông, nghĩa là gồm nhiều cơ duyên hòa hợp, cho nên việc tức thân thành Phật không còn là chuyện hoang đường nữa. Vả lại, theo những nguyên tắc mà Hiển Mật công nhận, thì gọi là mấy đại kiếp là căn cứ vào căn cơ của người tu hành mà đặt định, đối với người có căn cơ nhanh nhẹn thì thời gian thành Phật là ba đại kiếp, và cũng còn dựa vào thời gian dài ngắn của hai đạo tư lương đã tích lũy phúc đức trí tuệ của bản thân của người ấy để đặt vấn đề. Như vậy, chúng ta không thể phủ nhận rằng đối với một số chúng sinh có căn cơ nào đó, nếu trong một thời gian ngắn người đó tập hợp được tư lương của vô số kiếp thì đương nhiên có thể tức thân thành Phật, nhân thành Phật nên tư lương cần phải có đã được viên mãn rồi. Nhưng Phật pháp Hiển Mật không thể không thừa nhận người có đầy đủ tâm lực, trong mỗi sát na đều có thể viên mãn vô số tư lương, do đó hoàn toàn không cần giống như người bình thường phải siêng năng tích lũy ba đại kiếp tư lương. Nếu nói “trong đầu chóp của sợi lông cực nhỏ xuất hiện quốc độ trang nghiêm ba đời, vô số thế giới trong mười phương đều ở nơi những đầu sợi lông, ta đều đi vào trong cõi thanh tịnh trang nghiêm ấy”; “Ta có thể đi vào thời vị lai, hết tất cả mọi kiếp là một niệm, tất cả mọi kiếp trong ba thời là chỉ trong một niệm ta đều thâm nhập. Ta ở trong một niệm thấy được ba thời, thấy được tất cả người, sư tử…”, đó là sự biểu đạt sâu sắc của cảnh giới Hoa Nghiêm, nói theo khái niệm của Đại thừa là “một là tất cả, tất cả là một” thì đó là một sự thực rõ ràng và dễ thấy nhất. Có những người tu hành Tiểu thừa căn bản họ không thể hiểu được cảnh giới này. Tương tự như vậy, cũng có cách nói chỉ trong chốc lát mà có thể tích lũy tư lương của vô số kiếp, thì không ít người trong số những người hiểu biết về Phật pháp Hiển Mật tỏ rõ sự hoài nghi trước vấn đề này, đó cũng là điều không có gì lạ cả.
Tôn giả Toàn tri Vô Cấu Quang từng nói: “Người có tâm lực mạnh mẽ mỗi sát na có thể viên mãn vô lượng tư lương, cho nên cách nói người liên tục tu học tích lũy được vốn liếng nhanh chóng, một đời có thể giải thoát được là điều hợp lý. Cũng tức là nói, sau khi được quán đỉnh, người tu hành thực hiện đầy đủ hai bước theo thứ tự, tức là đã nhập vào tiểu tư lương đạo, sau đó, nếu dựa vào đại tinh tấn và đại phương tiện siêng năng tu tập, thì hành giả có thể đạt được Kiến đạo. Sau khi đạt được Kiến đạo thì không có sinh tử nữa, tức là hành giả có thể đã tu đạo rốt ráo, đạt được Bồ đề quả. Và sau khi đạt được Kiến đạo, nếu muốn cầu tu thì bảy ngày có thể thành tựu Bồ đề”. Cách giải thích này hoàn toàn không phải chỉ có Mật tông độc chiếm, mà Hiển tông cũng đề cao thuyết bảy ngày thành Phật. Trong Bát Nhã Lưỡng Vạn Tụng nói: “Đạt được các pháp hiện thấy của Đại Bồ tát pháp nhãn thanh tịnh, nếu muốn cầu đạt chính quả thì bảy ngày cũng có thể viên mãn Phật quả Vô thượng Bồ đề”. Còn trong phẩm Đề Bà Đạt Đa - Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì nói trực tiếp rằng Long Nữ tám tuổi, nhân việc đem dâng châu báu lên Đức Phật mà chỉ trong sát na đã thành Phật. Nàng không chỉ viên mãn đủ các tướng hảo tức thì mà liền sau đó biến thành nam nhân đi về thế giới vô nhiễm ở phương Nam, ngồi lên bảo tòa nói pháp cho chúng sinh. Nếu tất cả chúng sinh đều phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp mới có thể chứng ngộ đạo Bồ đề, thế thì làm sao Long nữ lại thị hiện được như vậy? Huống nữa, sự tức thân thành tựu trong một đời ấy biết đâu lại là sự chứng ngộ một lần của sau nhiều đời nhiều kiếp tích lũy.
Mật tông là pháp môn dựa vào nhiều phương tiện thâm diệu để đạt được Kiến đạo, nếu đã đạt được Kiến đạo thì bảy ngày có thể thành Phật; còn như trước khi Kiến đạo, giữa Hiển tông và Mật tông thực sự có rất nhiều sai khác về mặt tinh tấn và phương tiện. Nhưng sau khi Kiến đạo, Bồ tát có căn cơ nhanh nhẹn tu học Hiển tông và người trì minh theo hướng Mật tông về thời gian chứng quả trước sau hoàn toàn không có sự khác biệt. Nếu có thể tĩnh tâm suy nghĩ, trong cuộc sống hiện thực, những ví dụ về phương diện này cũng có thể được mọi người hiểu rõ đưa ra những giải thích về điều gọi là tức thân thành Phật.
Vả lại, đứng ở góc độ cứu cánh mà xét thì điều chúng ta nói thành Phật hoàn toàn không phải là chỉ một vị “Phật” thành tựu ở ngoài chúng ta, mà là chỉ Phật tính tự tính vốn có được tự thân chúng ta nhận biết thêm một lần nữa mà thôi. Giải thoát không phải là từ bờ bên này qua được bờ bên kia, ý nghĩa đích thực của nó là nói chúng ta phải tẩy sạch những dơ bẩn che lấp bên trong tâm tính vốn trong sạch sáng sủa của chúng ta, tuyệt đối không phải là chỉ những gì con người mong cầu giải thoát đều phải ra sức nhờ vào sự “chèo chống” từ bên ngoài, sau đó xuôi theo một thứ mà không phải từ nội lực của chính mình.