Pháp sư Tế Quần: Trong giới luật của hàng Thanh văn, cho dâm dục là chướng ngại của đạo pháp. Trong các giới luật của tỳ kheo, cho giới dâm dục là đứng đầu của bốn giới cơ bản. Trong giới luật của Đại thừa, Kinh Phạm Võng thì cho giới dâm dục là tội ác số một trong mười tội chính; tuy Du Già Bồ Tát Giới không xếp giới dâm dục là trọng tội, nhưng trong số bốn mươi ba tội nhẹ khác cũng chỉ cho Bồ tát tu tại gia mới được phép, còn những tỳ kheo tu học theo đạo giải thoát thì không được tập nhiễm. Bởi vì dâm dục rất dễ khiến cho con người nảy sinh sự bắt chước. Chúng sinh từ trước đến nay đều lấy vô minh làm cha, tham ái làm mẹ, khiến cho sự luân chuyển sinh tử của họ không bao giờ ngừng dứt. Trong đạo tràng của Mật tông, thường tôn phụng tượng hai người nam nữ sánh đôi. Theo như người ta nói trong Du Già Vô Thượng của Mật tông cũng có pháp môn đôi nam nữ song tu. Phương thức tu hành này hầu như có sự đối lập nghiêm trọng với Phật giáo nguyên thủy và đạo pháp giải thoát của Thanh văn. Không biết lối tu hành như vậy có hay không có căn cứ trong các kinh Phật? Tu tập theo pháp môn ấy phải chăng có giới hạn về tư cách? Tư tưởng chỉ đạo của phép tu ấy là gì? Cuối cùng cảnh giới cần chứng ngộ là gì?
Kham bố Sách Đạt Cát: Nếu chỉ căn cứ theo văn bản và hiện tượng mà xét, bất kể Đại thừa hay Tiểu thừa, Mật giáo hay Hiển giáo thì trên nhiều phương diện hầu như đều có chỗ mâu thuẫn, xung đột lẫn nhau. Nhưng nếu lấy thực tế để luận bàn thì tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn nào cũng đều là Phật pháp. Chỉ cần xem người tu hành có khả năng hay không có khả năng, có phát nguyện hay không phát nguyện quán chiếu viên dung chúng mà thôi, đồng thời trong thực tế văn tư tu cần thu nhiếp quán thông chúng. Ví như giới luật, nói chung có thể chia làm ba loại, đó là Biệt giải thoát giới1, Đại thừa Bồ tát giới2 và Tam muội da giới3. Đã là tín đồ Phật giáo thì đều thừa nhận kinh Phật đã đề ra những quan điểm chính xác, minh bạch, tức là trong sự kế tục của mỗi cá nhân đều có thể tồn tại ba loại giới luật. Còn ba loại giới luật ấy trong sự kế tục của mỗi cá nhân đều có thể có cách thức tồn tại riêng, theo lời nghị luận của Tôn giả Vô Cấu Quang thì chúng có thể có cách cùng tồn tại cả một bản thể và một phản thể khác, vì không thể xả bỏ nguyên nhân của bản thể, cả ba đều không có bất cứ chỗ tương phản nào. Lấy Thập bất thiện nghiệp (Mười nghiệp bất thiện) mà luận thì Biệt giải thoát giới sẽ phán định người vào tội tự tính, nhưng những tăng sĩ đã thụ giới thì bất kỳ ai cũng đều không thể phá bỏ hay phạm phải; còn đối với một người tu hành theo phái Đại thừa chỉ cần không tơ hào ích kỷ tư lợi, một lòng một dạ vì tâm tính của người khác thì trong giới luật, đối với trường hợp, điều kiện đặc biệt, những gì mà thân khẩu có thể thực hiện bảy thứ nghiệp bất thiện cũng xem là được phép tương ứng.
1 Biệt giải thoát giới: 別解脫戒 hay còn gọi là Biệt giải thoát luật nghi, là một trong ba loại giới. Giới pháp này dựa trên phép thọ giới, từ thụ Ngũ giới cho đến Cụ túc giới, nhằm giúp cho các nghiệp ác của thân, khẩu lần lượt được giải thoát.
2 Đại thừa Bồ tát giới: 大乘菩薩戒 hay còn gọi là Đại thừa giới, Bồ tát giới, chỉ các giới luật mà các tăng sĩ tu đạo Bồ tát phải thụ trì, đó là 10 giới trọng cấm và 48 giới khinh khác được nói trong Kinh Phạm Võng.
3 Tam muội da giới: 三昧耶戒 là giới được thụ trước khi được truyền thụ phép quán đỉnh trong Mật tông. Tam muội da nghĩa là không trái ngược.
Nói đến giới luật dâm dục, kỳ thực trong tất cả chi phái của Mật tông trước nay chưa từng cho phép bất cứ một cá nhân tu hành nào ở trong trường hợp chưa đạt đến bản chất của tham dục mà thực hiện theo lối tu gọi là song thân pháp. Nhưng cũng giống như cái lẽ của mười nghiệp bất thiện nêu trên, nếu một người tu hành đã đạt đến cảnh giới tu chứng thượng thừa, thì lúc đó ông ta có thể dùng phương pháp thích hợp tiếp nhận phép tu song thân. Không chỉ trong Mật thừa mới được phép làm như vậy, mà trong Thanh văn thừa cũng có cùng một cách giải thích tương đồng. Nếu một người tu hành đã dứt trừ phiền não tự thân, ông ta cũng có thể dựa vào phương pháp thích hợp tạm thời “phá giới”. Trong Luật tạng có ghi lại một công án như thế này:
Có một vị A la hán tên là Sắc Già Tang Mục, bà vốn là một phụ nữ bình thường, nhưng bằng sự tu tập, bà đắc quả A la hán. Khi hiển hiện là một tỳ kheo ni đắc quả, bà chưa từng nảy sinh ý cùng thực hiện tà dâm với Oán Vương, nhưng vì bà đã sớm dứt trừ cái tâm tham dục, nên trong cả quá trình ấy chẳng có tham tâm nào sai sử dục lạc tự bản thân mình. Về sau Đức Phật Thích Ca nói dù thân bà là tỳ kheo ni, nhưng vì thật sự chưa từng sinh cái tâm tham dục, nên hoàn toàn không thể cho hành vi của bà là sự phá giới. Không chỉ A la hán mới được cho phép như vậy, trong Luật tạng còn ghi, một người xuất gia đã dứt trừ tham dục của thế giới dục lạc, dù người ấy có thực hiện tà dâm với người khác, nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn không chỉ trích hành vi của người ấy là phá giới, bởi vì ông ta không có chút tham dục nào. Người xuất gia ấy mới chỉ dứt trừ tham dục của thế giới dục lạc, nhưng Đức Phật cũng cho phép đối với những hành vi của ông ta.
Trong kinh điển Đại thừa, đôi lần hành vi dâm dục phá giới đối với trường hợp gọi là chưa từng bị tham tâm sai sử cũng được cho phép, ví dụ điển hình nhất về phương diện này là do từ Phật Thích Ca Mâu Ni.
Theo ghi chép của một số kinh luận Đại thừa, Phật Thích Ca Mâu Ni có một thời chuyển sinh là Tinh Tú của Bà la môn, trong bốn vạn hai ngàn năm Ngài chuyên hành trì hạnh Phạm tịnh. Về sau, trong một vương cung Ngài ngẫu nhiên gặp người con gái của một nhà buôn, cô gái này thoạt thấy tướng mạo trang nghiêm của vị Tinh Tú, tâm tình liền xao động. Cô không một chút do dự, nghi ngờ lập tức quỳ dưới chân Ngài đảnh lễ. Tinh Tú có vẻ cảm thấy kinh ngạc, lúc đó cô gái cả gan nói rõ ra rằng cô muốn làm vợ Tinh Tú. Đương nhiên Tinh Tú phải cự tuyệt, Ngài thành khẩn nói: “Tôi là người đang hành trì hạnh Phạm tịnh, há có thể vì tham dục mà thay đổi chăng, cho nên thật không thể chung sống với nhau được”. Nhưng tâm ý của cô gái hầu như đã tuyệt vọng, cô liền nói rõ nếu Tinh Tú không thể cùng cô kết tóc xe tơ, ân ái vợ chồng, vì quá đau buồn cô có thể tự sát ngay tức thì.
Khi chuyện nghiêm túc đang diễn ra trước mặt Tinh Tú, bất giác Ngài bị rơi vào hai cảnh huống nan giải: Nếu lấy cô gái làm vợ thì công lao, cố gắng của bốn vạn hai ngàn năm hành trì hạnh Phạm tịnh sẽ biến thành tro khói trong chốc lát; nhưng nếu bỏ mặc cô gái tự mình quay lưng tu hành thì cô có thể vì mình mà chết. Tinh Tú vốn muốn rời bỏ cô gái và ra đi, nhưng sau khi đi chừng bảy bước, cái tâm thương cảm đối với cô gái ấy rốt cuộc đã khiến Ngài dừng bước. Ngài hạ quyết tâm, chỉ cần cô gái ấy không còn đau khổ nữa, không còn phải chết vì tình nữa, dù mình phải xả bỏ giới hạnh và có thể nhân đó mà đọa địa ngục thì cũng chẳng có gì đáng tiếc.
Một khi ý đã quyết, sau đó Tinh Tú chung sống với cô gái trong vòng hai mươi năm. Cuối cùng Ngài xuất gia lần nữa và tu trì Tứ Phạm trụ (còn gọi là Tứ Phạm hạnh, tức Tứ Vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả), nên sau khi chết được sinh lên cõi Phạm thiên. Vì lúc bấy giờ Ngài lấy tâm đại từ bi nhiếp trì những điều cần phải cấp bách thực hiện, nên Tinh Tú nhân đó mà nhanh chóng viên mãn công đức của bốn vạn đại kiếp tư lương.
Do đó có thể thấy đối một số chúng sinh nào đó đáng phải đọa địa ngục vì ác nghiệp, thì Bồ tát nếu lấy tâm đại từ bi và phương tiện thiện xảo để hành trì thì có thể tích lũy được vô số phúc đức thiện căn. Nếu giới luật của Tiểu thừa, Đại thừa, đối với người không lấy tâm tham dục và sự ngu si để nhiếp thủ những hành vi gọi là tà dâm đều có thể được phép phá giới, thì từ cái lý đó suy ra, Mật thừa Vô thượng trong tư tưởng chỉ đạo như nhau cũng đặc biệt cho phép một cá nhân tu hành nào đó chuyển tham dục thành đạo hạnh, đó cũng là điều không gì lạ. Do nguyên tắc cơ bản là bảo mật của Mật pháp, nên ở đây không thể nói rõ hành vi tế nhị ấy một cách cụ thể. Nhưng tự trong thâm tâm của chúng ta cũng nên rõ một điều, tức là đối với giới luật Tam thừa và đối với những chỗ trông bề ngoài tương phản lẫn nhau của Tam thừa, cũng đều nên giữ quan điểm viên dung bất nhị.
Nếu nói những gì trên đây đã chú trọng nghiên cứu là xác định tiêu chuẩn phá giới hay không phá giới - có hay không có tâm dứt bỏ tham dục và phương tiện thiện xảo, thế thì dưới đây điều sẽ được triển khai trình bày chính là tránh sự phán đoán có tính cách chỉ đạo và quy hướng, tức là nên chăng bỏ thái độ chấp trước. Không thoát ra khỏi thái độ chấp trước về việc ôm giữ giới luật thì làm sao có thể đạt được thanh tịnh rốt ráo. Khi khảo sát điều gọi là hành vi dâm dục giữa nam nữ, cũng cần tham khảo tiêu chuẩn này.
Trong Kinh Bảo Tích có nói chính xác sự khác biệt về giới hành thanh tịnh và kiến thanh tịnh: “Ca Diếp! Nếu có tỳ kheo trụ thanh tịnh Biệt giải thoát giới, giữ đúng pháp môn, thì tất cả hành vi của tỳ kheo đó đều đúng như luật định, thậm chí một vi phạm nho nhỏ cũng không, thanh tịnh như vậy là hợp với sở học; nhưng nếu chấp có tôi, chấp cái của tôi - chấp hữu ngã ngã sở, thì Ca Diếp này, tỳ kheo đó là người phá giới số một, chỉ giống như người giỏi giữ giới mà thôi. Nếu tỳ kheo tu hành đầy đủ mười hai thứ công đức, nhưng tỳ kheo đó thấy những gì mình làm được và giữ khư khư cái tôi và cái của tôi, thì Ca Diếp này, tỳ kheo đó là người phá giới vào hàng thứ tư, chỉ giống như người giỏi giữ giới mà thôi”. Trong Kinh Đại Tập cũng nói: “Nếu có Bồ tát tự làm và tự nói tôi là người giữ giới, còn kẻ khác là phá giới, thì Bồ tát ấy là tay dối lừa Như Lai”. Vì thế cho nên trong Luận Đại Trí Độ cũng nói: “Hạng người thấp phá giới, hạng người vừa giữ giới, hàng người cao không giữ giới”.
Từ đó chúng ta thấy, nếu không phá trừ được chấp trước cái tôi và cái của tôi, thì chắc chắn không thể thấy được thanh tịnh giới. Nhưng một kẻ phàm phu nào khác còn chưa thoát ra khỏi sự chấp trước của tam luân1, thì dù họ có đem tất cả giới hay một phần giới trì giữ một cách nghiêm túc không vi phạm thì cũng có thể xem họ đã thực hành giới thanh tịnh một cách viên mãn. Vì vậy, vấn đề thấy được thanh tịnh giới là có thể giữ giới hay không giữ giới, đó mới là tiêu chuẩn cơ bản nhất để đánh giá giới luật của một người tu hành có thanh tịnh hay không. Tiêu chuẩn ấy rất cao, đến nỗi một người đã đạt thánh quả A la hán cũng không thể được gọi là giới hạnh thanh tịnh rốt ráo. Quan điểm này đối với rất nhiều người tu hành Tiểu thừa có lẽ đúng là điều bất khả tư nghị, nhưng đối với những người tu hành Đại thừa thì đó là một chân lý không thể đảo ngược. Như vậy, đối với một số giới luật của Mật thừa, nhãn quang của chúng ta giống nhau cũng nên phóng tầm nhìn ra xa một chút, nghĩa là rốt cuộc đối với tất cả những người chưa tiếp xúc với nghi thức quán đỉnh2 của Mật thừa thì đó là một lĩnh vực tương đối mới lạ đã khiến họ cảm phục bội phần.
1 Tam luân 三輪: luân là bánh xe, bánh xe có công dụng là xoay lăn, nghiền nát, hình ảnh này để ví với ba nghiệp của chúng sinh, đó là thân, khẩu, ý, nên trong Kim Quang Minh kinh văn cú đề cập đến tam luân. Đó là Thân luân 身輪, cũng gọi là Thần thông luân 神通輪, ý nói Phật thuyết pháp thường hiện thần thông để báo cho chúng sinh biết nguyên do và quá trình giúp họ khởi niềm tin chân chính; Khẩu luân 口輪 cũng gọi là Chính giáo luân 正教輪, ý nói các pháp Phật thuyết giảng đều nhằm mục đích cải tà quy chính, làm theo giáo pháp; Ý luân 意輪 cũng gọi là Ký tâm luân 記心輪, ý nói khi Phật thuyết pháp, trước tiên Ngài dùng ý để quán sát căn cơ của chúng sinh và tùy theo đó mà thuyết giảng những pháp phù hợp đúng theo yêu cầu của chúng sinh.
2 Quán đỉnh 灌頂: Một nghi thức của Kim cương thừa. Trước khi thượng sư truyền thụ một loại pháp môn nào cho đệ tử thì cử hành nghi thức quán đỉnh này, tức là thượng sư dùng nước thánh rảy lên đầu của đệ tử để tượng trưng sự ban phát sức mạnh cho đệ tử.
Lại như trong các đạo tràng của Mật tông, người ta thờ phụng tượng đôi nam nữ, ở đây chỉ có thể nói sơ lược như thế này: Đối với đôi tượng nam nữ này không nên lấy ý nghĩ không thanh tịnh phân biệt của kẻ phàm phu thế gian để suy đoán một cách viển vông, căn bản đó không phải là biểu tượng của tình yêu nam nữ, cũng chẳng phải có tính chất cổ vũ sự tham ái và vô minh trong chúng sinh. Điều mà tượng nam thể hiện chính là phương tiện hoặc sự hiển lộ, còn tượng nữ thể hiện cho trí tuệ hoặc không tính. Lý do của sự việc này chỉ có thể tạm thời nói sơ qua như vậy, bởi vì trước mặt những người chưa từng chịu nghi thức quán đỉnh của Mật tông mà giảng giải thì điều này có thể dẫn đến lầm lỗi. Trong giới luật của Mật tông có những quy định rất nghiêm khắc, dùng các hình thức như tranh ảnh, văn bản, giảng thuyết… công khai trình hiện, tuyên giảng trước những người không có căn cơ về Mật tông thì có thể khiến cho những người này dấy khởi các tà kiến đối với Mật pháp, những hành vi như vậy đều thuộc về cử chỉ phá giới.
Nhưng hãy phóng tầm nhìn ra ngoài xã hội hiện nay, có bao nhiêu tượng nam nữ đều được triển lãm, bày biện dưới nhiều hình thức ở những nơi công cộng; trong các cửa hàng cũng công khai bày bán đủ các thứ tranh ảnh nam nữ; hoặc mở máy vi tính, trên các trang mạng đều có vô số tượng ảnh nam nữ đủ cỡ đủ loại, những việc làm ấy đều vi phạm nghiêm trọng giới luật của Mật tông trong các văn kiện có liên quan đến việc bảo mật, sự thực này khiến người ta đau lòng.
Về phép tu đôi nam nữ còn có một điểm cần nói rõ, tức phép tu này hoàn toàn không chút nghi ngờ nào là đích thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên giảng. Trước khi Đức Phật sắp viên tịch, tại Nam Ấn Độ thuộc xứ Triết Bạng, Ngài vì mọi người mà thuyết giảng pháp môn Thời luân Kim cương (Kara-cakra-Vajra), và trong Thời luân Kim cương, Ngài đã giảng phép tu song thân. Lại như tại Mật Nghiêm Sát Độ, Phật Thích Ca Mâu Ni dùng hình tượng báo thân Phật đã tuyên giảng Đại Huyễn Hóa Võng Tục, trong đó có đề cập đến bốn mươi hai bản tôn tĩnh tịch và năm mươi tám bản tôn phẫn nộ, một trăm vị bản tôn ấy đều xuất hiện dưới dạng thức song thân. Nói đến kinh điển tục bộ của phép tu song thân thì còn rất nhiều, toàn bộ những thứ đó đều là Đức Phật do căn cơ chúng sinh không giống nhau, và trong những hoàn cảnh không giống nhau mà Ngài khai thị Đại pháp Vô thượng. Nếu ngay cả những điều đó mà còn phải hoài nghi thì tất cả kinh luận của Tiểu thừa, Đại thừa đều có thể đối mặt với vấn đề về độ đáng tin của chúng.
Thật ra, trong các kinh điển của Hiển giáo, Đức Phật cũng tuyệt nhiên chưa nói một chữ nào đến Mật pháp, và cũng chưa đề cập đến phép tu song thân trong Mật pháp, có chăng cũng chỉ nói bằng một phương thức tương đối bí ẩn nào đó mà thôi, đó cũng chính là phương thức truyền pháp nhất quán của Đức Phật. Trong các kinh điển Đại thừa, Ngài tuyên bố rõ ràng và rộng khắp giáo nghĩa của Ngài, còn trong cách truyền pháp cho Tiểu thừa thì thường thường xuất hiện phương thức không rõ ràng, nói sơ lược. Ví như giảng về không tính, trước chúng sinh căn cơ Tiểu thừa, Đức Phật đã chú ý chọn lựa người, vô ngã, không tính, còn như rời xa những hý luận về đại không tính thì hoàn toàn chưa khai thị rõ ràng và công khai, nhưng cũng đã sớm để lại con đường tiến vào cảnh giới không tính rốt ráo cho những người có lợi căn sau này. Tương tự như vậy, Đức Phật cũng đã ngầm chỉ ra trong một số kinh điển Hiển giáo một vài pháp môn thích đáng của Mật pháp chứ chưa nói rộng và trình bày nhiều thêm, nếu không sẽ có sự phân chia giữa Hiển giáo và Mật tông. Ví như trong Kinh Nữ thân linh Phật hoan hỷ có nói: “Này các Bồ tát, để làm cho Phật vui vẻ, hãy tự hóa thân mình thành người nữ, thường diễu qua trước chư vị Thiện Thệ1”. Đó chính là những điều dùng phương thức kín đáo để tuyên giảng, kinh điển giáo chứng loại này có rất nhiều.
1 Thiện Thệ: Tiếng Phạn là Sugata, tức là một trong mười danh hiệu của chư Phật, người Hán dịch là “Hảo khứ” (tức là ra đi một cách tốt lành). Danh hiệu thứ nhất của chư Phật là Như Lai (Như tức Chân như, nắm được đạo Chân như mà đi từ Nhân đến Quả thành tựu Chính giác, nhân đó mà Đức Phật đem đạo Chân như đến khắp tam giới mà cứu độ chúng sinh, nên gọi là Như Lai). Danh hiệu thứ năm là Thiện Thệ, Thiện Thệ có nghĩa là như thực đi đến bờ bên kia mà không trôi lăn trong bể sinh tử. Hai danh hiệu này là để làm rõ cái đức lai vãng tự tại của chư Phật.
Pháp sư Tế Quần còn đề cập đến vấn đề phạm vi thích hợp, giới hạn tư cách và mục tiêu mong muốn của phép song tu, ở đây cũng xin được nói rõ.
Người tu hành Mật tông hoàn toàn không bắt buộc ai cũng đều phải tu học đại pháp song thân, trong ngàn vạn pháp môn của Mật pháp có rất nhiều loại cùng có yêu cầu đạt đến mục tiêu như phép tu song thân đều có thể không bàn mà hợp. Vả lại, trong Mật tông, người có thể thực tu chân chính phép tu song vẫn vô cùng hiếm hoi, cho nên xưa nay người ta rất ít nhấn mạnh đến phép tu này. Dùng con đường tu hành của phép tu song thân trong Mật tông gọi là đạo phương tiện, ngoài phép tu đó ra, trong ngàn vạn pháp môn khác đại khái có thể quy vào đạo giải thoát. Trong các con đường tu tập ấy, tu theo đạo giải thoát là ổn cố nhất, đó mới là pháp môn thù thắng nhất của những vị xưa nay được xưng tụng là đại thành tựu, vì đã có vô số những hành giả Mật tông đi theo pháp môn ấy mà đạt được thành tựu viên mãn. Khi lòng tham của một người quá mãnh liệt lại khó nhận rõ bản tính tham dục của mình thì pháp môn tu hành bảo đảm nhất là dựa vào đạo giải thoát, nếu không rất có thể xảy ra sai lầm. Đối với người bình thường, ngay cả tính ích kỷ, tư lợi cũng đã khó khắc phục, nay còn theo cái danh của phép tu song thân mà chiều theo lòng tham dục của mình, tu hành như vậy thì mục đích giải thoát hãy còn quá xa vời!
Vị đại thành tựu Mật tông Bố Mã Mạc Trát trong tác phẩm của mình là Thành trí tuệ luận đã nói, phép tu song thân trong Mật tông tuyệt đối không phải là khiến cho người tu hành chấp vào sự cảm thụ sinh lý của bản thân, mà không lạc vô biệt mới là mục tiêu cần phải đạt đến của phép tu này. Luận thuyết này còn nghiêm khắc khiển trách luận cứ sai lầm khi nói tu học Mật pháp nhất định phải luyện phép tu song thân. Nếu lấy giáo pháp đại viên mãn của chúng tôi mà xét thì rõ ràng chưa từng chú trọng nhấn mạnh đến phép tu song thân.
Đương nhiên nếu có người cá biệt nào có căn cơ thích hợp, họ có thể nhận rõ bản chất của phiền não là Bồ đề, đồng thời đối với tự tính của mọi pháp đều rõ ràng minh bạch, có định giải vững chắc thì họ có thể đi theo phép tu ấy mà thành tựu, điều này trong các kinh luận của Hiển giáo cũng có phản ánh, như Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tâm cuồng bạo dứt, mà đã dứt được tức là Bồ đề”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ta và tất cả chư Phật tự tánh bình đẳng trú, không trú cũng không giữ, tất cả đều thành Thiện Thệ, sắc thụ tưởng hành thức, vô số những vị Thiện Thệ, tất cả họ đều thành những bậc nhân đức toàn năng”. Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết cũng nói: “Vì có những kẻ tăng thượng mạn1 nên cần phải nói xa rời dâm, nộ, si mới gọi là giải thoát; còn người không tăng thượng mạn thì nói cái tính dâm, nộ, si ở nơi con người họ cũng tức là giải thoát. Tất cả phiền não cũng tức là hạt mầm của Như Lai vậy”. Kinh Văn Thù Huyễn Hóa thì nói: “Không phải dứt trừ luân hồi mà tu Niết bàn là nương theo luân hồi cũng tức là Niết bàn vậy”. Đại sư Lục tổ Huệ Năng cũng nói: “Phiền não tức là Bồ đề”… Những giáo chứng này như nói rõ với chúng ta rằng Hiển giáo Đại thừa đều cho rằng dựa vào phiền não có thể đạt đến quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tư tưởng này lại càng rõ ràng hơn trong Kinh Vô Cấu Xứng. Kinh này nói rằng: “Hoa sen không phải sinh ra trong vùng đất sạch sẽ mà là sinh ra trong vũng bùn lầy. Như Vô thượng Chính giác Bồ đề cũng không phải sinh ra từ sự đoạn hoặc, hay thấy pháp vô vi của hàng Thanh văn; nếu sinh ra như Sơn chi Tát già da kiến2, thì có thể sinh tâm Vô thượng Chính viên Bồ đề. Cho nên mọi phiền não là Xá lợi của Thiện Thệ vậy”. Quan điểm này với cách nhìn của Thanh văn thừa thì hoàn toàn không có điểm chung, vì yêu cầu của người tu theo Thanh văn thừa là phải diệt trừ phiền não mới có thể chứng được quả vị. Cùng với lý đó, đối với bản chất tham dục trong Mật tông tự nó cũng có quan điểm bất đồng với Hiển giáo Đại thừa, nhưng có một điểm về năm thứ độc tức năm loại trí thì Mật tông và Thiền tông đều có cùng một tư tưởng chỉ đạo.
1 Tăng thượng mạn 增上慢: chỉ sự kiêu mạn quá mức. Tăng thượng mạn là một trong bảy loại kiêu mạn. Ví như Câu Xá luận nói: “Ở vào địa vị chưa chứng được kết quả thù thắng mà nói là mình đã chứng được, thì gọi là tăng thượng mạn”. Hoặc như Kinh Pháp Hoa, Phẩm Phương tiện thì viết: “Hạng người đó tội căn sâu nặng, chưa đắc đã bảo là đắc, chưa chứng đã nói là chứng. Có lỗi lầm như vậy đấy”. Như vậy, tăng thượng mạn tức là nói đến những kẻ huênh hoang, ngã mạn quá mức.
2 Từ dịch âm gốc Phạn, nghĩa là Thân kiến, tức cái thấy, sự nhận định không đúng về thân thể.
Nói đến mục đích của phép tu này thì không ngoài việc dùng đạo phương tiện để chứng ngộ Phật quả. Trong truyện ký của mười tám vị đại thành tựu của Ấn Độ có nói rằng có một số người tu hành đã dùng pháp môn này mà đạt đến quả vị Vô học đạo, tức quả vị A la hán.
Thật ra, từ trong thâm tâm, tôi không muốn thấy Mật tông thần thánh trong sáng bị người ta hiểu lầm, cũng không muốn thấy người ta lợi dụng nó để trang điểm cho bộ mặt tham dục của mình. Tất cả mọi vấn đề vốn đều có thể đem ra bàn bạc thảo luận, chỉ cần mọi người đều nghiêm túc thực sự cầu thị trong tinh thần trách nhiệm. Khi đối mặt với một lĩnh vực mà mình chưa lĩnh hội, thì tìm hiểu, suy nghĩ, nghiên cứu thực tế là con đường đem lại cho chúng ta kiến thức và trí tuệ tốt nhất. Nếu chúng ta đều có tinh thần trách nhiệm đối với chính mình, đối với Phật pháp, đối với chúng sinh thì rất nhiều những cuộc tranh luận vô bổ sẽ tiêu tan theo mây khói. Về phương diện này, Pháp sư Tế Quần rõ là một tấm gương sáng, ông đã đem tấm lòng đầy cung kính và ý thức muốn hiểu biết thay mặt mọi người đặt vấn đề, trong không khí bốn phương nổi lên tranh chấp như hiện nay, khắp nơi trong thiên hạ đầy cả tà kiến vọng niệm, ông vì mọi người mà dùng thân mình làm tấm gương đứng ra cầu pháp như hành vi của một người khát khao cầu pháp. Nhưng điều đáng tiếc là có rất nhiều người có nhận định chưa đúng về Mật pháp, khi họ chưa hiểu rõ Mật pháp là gì thì lại nói ra những điều khiến người ta kinh ngạc vì thái độ khinh suất của họ. Chỉ trong phút chốc, không biết dựa vào đâu ra mà họ đưa ra một số luận điểm chưa đúng liên quan đến Mật tông. Cần biết rằng điều chúng ta đang nghiên cứu và thảo luận hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản của pháp thế gian mà là Phật pháp! Tùy tiện nhầm lẫn xuyên tạc, báng bổ đạo pháp là điều tối kỵ trong Phật học. Trừ phi có mật ý đặc biệt nào khác, còn nếu không những người này nhất định phải chịu tất cả mọi ác quả về lời nói và việc làm của chính họ.
Tôi đã đọc qua tác phẩm Học Phật quần nghi của Hòa thượng Thánh Nghiêm1, trong đó có một đoạn viết như thế này: “Ở Tây Tạng, những người truyền thừa Mật tông là người tu tại gia, ví dụ như Ngài Liên Hoa Sinh, là thủy tổ khai sáng phái Hồng giáo2, theo truyền thuyết dân gian, ông là người có vợ, về sau trở thành Lạt ma của phái Hồng giáo, các thượng sư đều là người tu tại gia, cho nên thượng sư do người tu tại gia đảm nhiệm, đó là nét đặc sắc của Tây Tạng”.
1 Hòa thượng Thánh Nghiêm (1930 - 2009): Người tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, năm 1949 di cư đến đảo Đài Loan, Hòa thượng tu tập và hoạt động Phật giáo ở đó cho đến lúc viên tịch. Hòa thượng là trụ trì chùa Nông Thiền ở Đài Bắc và là người sáng lập Học viện Phật giáo Pháp Cổ Sơn nổi tiếng ở Đài Loan và trên thế giới. Hòa thượng trứ tác nhiều tác phẩm về Phật giáo như So sánh tôn giáo học, Giới luật cương yếu, Chính tín Phật pháp… Hòa thượng Thánh Nghiêm là người có công rất lớn đối với Phật giáo ở Đài Loan.
2 Hồng giáo 紅教 Phái mũ đỏ: Gọi là Hồng giáo vì người theo giáo phái này đều đội mũ đỏ, cũng gọi là giáo phái Ninh Mã (寧瑪派).
Tôi chưa từng gặp Hòa thượng Thánh Nghiêm, nhưng tôi biết ông vì đông đảo tín đồ Phật giáo đã đóng góp rất nhiều công sức cho Phật pháp, ở đây tôi rất vui trước tất cả những hành vi hoằng pháp lợi sinh của những công đức mà ông đã thực sự đóng góp. Nhưng trong đoạn văn trích dẫn nêu trên, đối với việc hiểu biết Mật pháp một cách phiến diện như vậy thì quả ông đã đạt đến mức khiến cho bất cứ một người có chút hiểu biết thông thường nào về Mật tông cũng phải vô cùng kinh ngạc về những nhận định khinh suất như vậy. Tôi nghĩ khi đại sư chuẩn bị cho luận văn của mình, ít nhất cũng cần tra cứu tài liệu, sách vở, đặc biệt là khi đối mặt với một số lĩnh vực mà mình chưa hiểu rõ. Những vị thánh toàn trí toàn năng trong thế giới này không nói là không có, nhưng nếu có cũng rất quý hiếm, chẳng khác nào như lông chim phượng hoàng, sừng ngọc kỳ lân vậy. Nhưng điều khiến người ta cảm thấy không thể nào hiểu nổi, chính là Hòa thượng lại dám cầm bút viết bài về đại nghĩa Mật pháp trong khi mình chưa hiểu rõ là thế nào cả, mà lại có thể “viết” vượt ra ngoài quy tắc như vậy! Ông đã đến đất Tạng khảo sát thực tế bao giờ chưa? Hay ông chỉ xem qua tư liệu của một người thứ hai, thứ ba nào đó chăng? Ông có gì chứng thực độ tin cậy của những tư liệu ấy? Nếu chưa từng làm những điều nêu trên thì trên thế giới này sợ rằng không thể tồn tại những cái gọi là nghiên cứu và trước tác như thế, tất cả những bài viết và kết luận từ đầu đến cuối đều trở thành không đáng tin cậy!
Trước tiên nói đến lời bàn về Liên Hoa Sinh: theo ghi chép trong Liên Sư truyện ký do La Chu Nhượng Ba phiên dịch, thì Ngài là thủy tổ của Phật giáo Tây Tạng, Đại sư Liên Hoa Sinh quả đúng là đã nhiếp thụ Không Hạnh Mẫu - Ích Tây Tố Gia. Nhưng khi giáo hóa chúng sinh có căn cơ không giống nhau, Ngài đã thị hiện thành tám tướng của những vị tăng xuất gia. Do đó, mấy chữ đơn giản “người tu tại gia” làm sao có thể bao quát toàn bộ thân phận và sự hành trì đích thực của Đại sư Liên Hoa Sinh? Muốn hiểu rõ sự tích cuộc đời của Ngài, đáng ra phải tra cứu rõ ràng đầy đủ nguyên điển bằng văn bản chữ Phạn hoặc chữ Tây Tạng, đặc biệt là những truyện ký có liên quan đến Ngài, nếu không làm sao có được quan điểm chính xác và đáng tin cậy?
Ngoài ra, trong lịch sử phát triển của Phật giáo Tây Tạng trên một ngàn năm nay, trong vô số chùa chiền am miếu hầu như tuyệt đại đa số có lưu giữ Phật pháp, kế thừa tuệ mệnh Phật pháp, đó đều là những tăng già xuất gia nghiêm giữ giới luật, việc lấy thân phận người tu tại gia mà xem như người xuất gia thành Phật thì hoàn toàn không thấy. Sách Trung Quốc Tạng Tộc Văn hóa Nghệ thuật Thái hội Đại quan giới thiệu, một số chùa viện trên đất Tây Tạng trong khi tụng giới đang ở thời kỳ toàn thịnh của lịch sử, thì tối đa có đến một trăm ngàn người xuất gia cùng tham dự, nhưng lấy Bồ đề Tát đỏa làm đại biểu cho vô số những người xuất gia hành trì tỳ kheo thanh tịnh giới thì có thể nói là đâu đâu cũng có. Ngoài ra, theo Tạng tộc Thông sử, do Cát Tường Bảo Bình ghi chép, thì đến thế kỷ thứ XVIII, chỉ riêng giáo phái Cách Lỗ1 số chùa miếu đã đạt đến 3.471 ngôi, người tu xuất gia gồm hơn 316.200 vị, hơn ba mươi vạn tăng nhân này dù thế nào cũng không thể bỗng nhiên bị một ai đó bàn luận về thân phận xuất gia của họ được. Hoặc như lấy tôi đang ở tại Phật học viện Ngũ Minh làm ví dụ, năm 1995, học viện lần đầu tiên tổ chức triệu tập hội nghị Trì Minh pháp hội, có đến 38.000 tăng chúng tham dự hội nghị đó. Nếu cần nói về việc tra khảo chứng cứ, không biết hòa thượng đã dựa vào tư liệu khảo chứng nào để kết luận như thế này “cho nên thượng sư do người tu tại gia đảm nhiệm, đó là nét đặc sắc của Tây Tạng”. Sự thực có liên quan đến vấn đề này đều ghi chép rõ ràng, chính xác trong các điển tịch của lịch sử Phật giáo Tây Tạng như Bố Đốn Phật giáo sử, Thanh sử, An Đa Phật giáo sử, Tây Tạng cổ đại Phật giáo sử, Cách Trát Phật giáo sử, Lâm Ba Phật giáo sử, Minh kính sử, v.v. Vả lại trong số không ít những bộ sử ấy đều đã được dịch ra tiếng Hán. Không chỉ trong các tác phẩm lịch sử mới bàn luận đến vấn đề này, mà trong rất nhiều tạp chí Phật giáo đương đại cũng thường đăng tải nhiều bài khảo luận trình bày một số những nét đặc trưng của Phật giáo Tây Tạng như Pháp âm, Bồ đề tâm, Tây Tạng Văn hóa… Nhưng giữa chân thật và hư ngụy, giữa chuyện nghe qua dọc đường, đồn nhảm sai lầm với việc cầu học cầu thực của tinh thần khiêm tốn rộng mở, thì thời gian sẽ là lựa chọn sàng lọc công bằng nhất - thực giả không cần biết, những gì đã làm ra đều không mất đi, tất cả những người ấy khó có thể tránh khỏi luật nhân quả. Tất cả động tác, tâm tưởng của thân, khẩu, ý, nếu không vì mình cũng không vì chúng sinh mà nghiêm túc chịu trách nhiệm thì hãy chờ luật nhân quả đến quyết định những lời nói và việc làm của chúng ta vậy.
1 Phái Cách Lỗ: (Cách Lỗ phái 格魯派 Gelugpa), nguyên nghĩa “tông của những hiền nhân”, cũng được gọi là Hoàng mạo phái (黃帽派) vì các vị tăng của phái này đội mũ màu vàng, là một trong bốn tông tại Tây Tạng do Tông Khách Ba 宗客 巴 (Tsongkhapa) sáng lập. Tông này đặc biệt nhấn mạnh đến Luật Tạng (vinaya) và nghiên cứu kinh điển. Căn bản tu tập của tông này là những bộ luận Bồ đề Đạo thứ đệ 菩提道次第 và những tác phẩm nói về học thuyết của các giáo phái. Kể từ thế kỷ thứ XVII, tông này có trách nhiệm chính trị tại Tây Tạng, với sự có mặt của Đạt lai Lạt ma, được xem là người lãnh đạo chính trị và tinh thần của xứ này.
Đại sư Liên Hoa Sinh lấy việc hành trì của mình làm tấm gương tốt nhất cho tất cả những người tu hành Mật tông: Bên ngoài thì lấy luật Biệt giải thoát giới làm cơ sở cho người tu hành, bên trong thì dựa vào thứ tự viên mãn của Vô thượng Mật chú đạo làm yếu pháp tu hành; hành trì theo Mật pháp thì lấy Đại viên mãn tức là thân thành tựu là thân cầu vồng (hồng thân - hồng là cầu vồng bảy sắc). Cảnh giới này e chẳng có kẻ phàm phu nào có thể buông lời bình giá lung tung! Là một tín đồ Phật giáo tin kính luật nhân quả, ở đây tôi thành tâm cầu xin mọi người, nếu ai thật sự chưa tinh thông giáo lý cơ bản của Phật pháp, thì tốt nhất là không nên tùy tiện phát biểu về Phật giáo, nếu không tội lỗi của việc báng bổ đạo pháp rất có khả năng chỉ do mình tạo ra trong chốc lát mà trong số tất cả tội lỗi ấy có thứ là nhân ác thì ắt người tạo nghiệt sẽ bị đọa xuống địa ngục kim cương.
Do những trở ngại về giao thông, ngôn ngữ, nên việc qua lại giữa giới Phật giáo người Hán và người Tạng vẫn rất khó để mở rộng trong một cấp độ gắn bó hơn, vì vậy việc hiểu lầm, hiểu sai, thậm chí đến cả thiên kiến, thành kiến mới xuất hiện không ngừng. Nhưng vì trong giáo nghĩa của Phật giáo Tây Tạng xưa nay người ta đặc biệt nhấn mạnh đến những sai lầm về tội bỏ phế đạo pháp, báng bổ đạo pháp nên bất kỳ một người xuất gia Tây Tạng nào cũng không được phỉ báng Tiểu thừa hay Đại thừa, bởi vì tuyệt đại đa số tín đồ Phật giáo xứ Tạng đều không hề có bất cứ một điểm nghi ngờ nào đối với Phật giáo xứ khác. Nhưng nhìn lại xứ khác, tình hình không có mấy lạc quan. Những năm gần đây, tôi đã tiếp xúc rất nhiều tứ chúng đệ tử, trong số những người này phần lớn đều mở miệng ra là nói “song thân”, “ăn thịt”, “diệt pháp”… hầu như họ đều nghĩ đó là Mật tông vậy. Đối với vấn đề này tôi đã nói đi nói lại nhiều lần rồi, cuối cùng ở đây tôi xin nhấn mạnh như sau:
Đối với yêu cầu về giới luật, Mật pháp xem là việc vô cùng nghiêm chỉnh, trong đời sống hằng ngày, việc những tăng nhân chủ yếu hành trì đều là giới luật thanh tịnh của Tiểu thừa. Bất kể loại tục bộ hay luận điển nào đều chưa từng cho phép một người phàm phu, một người chưa hiểu biết bản chất của phiền não và tham dục mà đi tu theo đại pháp song thân, hay hàng phục nào đó. Về mặt này, trong Thời luân Kim cương có quy định một cách rõ ràng và nghiêm khắc rằng: “Người phàm phu không thể thực hiện hành vi của người tu Du già, người tu Du già không thể thực hiện hành vi của vị Đại thành tựu, vị Đại thành tựu không thể thực hiện hành vi của Đức Phật Đà”. Nhân vật nổi tiếng xứ Tạng là Nhật Đại Ban Trí Đạt nói: “Dù là Thanh văn thừa, Bồ tát thừa hay Mật tông thừa đều không cho phép gây phiền não cho nhau (tức không có pháp phương tiện để nhiếp thu tham sân si)”. Qua những giáo chứng ấy, tôi muốn mọi người từ đó hiểu rõ quy tắc và giới hạn của phép tu song thân đối với Mật pháp. Nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh nhất là mong tín đồ Phật giáo ở mọi nơi từ nay trở về sau cần chú ý coi trọng hơn nữa đặc trưng bản chất của Mật pháp, không nên lãng phí thêm sự chú ý và lòng hiếu kỳ trước điều này, đó là đối với tín đồ Phật giáo Tây Tạng rất ít người thực hành phép tu song thân.
Nếu bản thân chưa đủ kiến thức, nhưng lại mượn danh nghĩa của phép tu song thân tức là lòng tham dục của mình đã tự bật đèn xanh, người tu Mật tông như vậy là nỗi xấu hổ của Mật pháp thiêng liêng. Chúng tôi tuyệt đối không thể vì một số ít người tu tập Mật pháp không chân chính mà hoàn toàn phủ nhận bản thân Mật pháp, sai lầm của con người há lại có thể kéo theo tai ương cho bản thân của pháp nghĩa sao! Trong Kinh Di Lặc Thỉnh Vấn cũng có giảng giải cùng một ý nghĩa: “Không vì ghét người mà ghét luôn cả pháp, không vì cái sai của người mà cho là pháp tạo ra cái sai, không vì người oán mà oán luôn cả pháp”. Như vậy những gì chúng ta cần để tâm suy nghĩ chính là tinh túy của Mật pháp - Không tính và Quang minh kiến thâm diệu, luôn có hành vi hành trì nghiêm cẩn. Đó mới là con đường chúng ta cần cố gắng hướng tới.
Hơn nghìn năm trước, vua Tây Tạng Xích Tùng Đức Tán1 lúc tại vị đã truyền lệnh cho tất cả thần dân Tây Tạng đều phải tuân thủ chấp hành mệnh lệnh sau: “Từ nay trở đi, tăng, tục trên đất Tạng đối với nhu cầu hiểu biết thì dựa vào Trung Quán luận của Bồ tát Long Thọ, đối với nhu cầu thực hành thì phải tuân thủ nghiêm cẩn Biệt giải thoát giới giống như Kham bố Tĩnh Mệnh Đại”. Ở đây người ta đã đưa ra vấn đề cơ bản về giới luật của xứ Tạng một cách vô cùng rõ ràng và chính xác. Thượng sư Pháp vương Như Ý Bảo Phổ Mỹ Bành Thố cũng nói: “Những vì sao trên bầu trời về đêm tuy rất nhiều, nhưng sao Mai thì chỉ có một, ngoài những vị sư Đại Du già và những vị Đại Thành tựu ra, tất cả mọi tăng ni đều phải lấy giới luật Biệt giải thoát làm đầu, người phá giới căn bản Biệt giải thoát thì không được cùng ở chung với tăng đoàn”. Từ đó mà xét thì xứ Tạng không có nghi ngờ gì về sự quan trọng của ba loại giới luật của các thừa, thực ra phép tu song thân hoàn toàn không phải là đại biểu đầy đủ và có ý nghĩa điển hình. Điểm cụ thể và tư tưởng chỉ đạo của nó chúng tôi đã trình bày sơ lược ở trên, ở đây không nói lại nữa.
1 Xích Tùng Đức Tán 赤松德贊 (756 - 797 hay 804?) dịch âm tiếng Tạng là Trisong Detsän, là quốc vương thứ 38 của Tây Tạng. Ông lên ngôi năm 13 tuổi, trị vì xứ Tây Tạng trong khoảng 35 năm. Ông là người có công rất lớn trong việc phát triển đất nước và đặc biệt là trong việc hoằng dương Mật giáo Tây Tạng.
Khi đứng trước hiện tượng này, một mặt cần hiểu rõ phép tu này chính xác là những điều mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã truyền lại, và có một số hành giả dựa vào đấy mà chứng được Phật quả, cho nên tuyệt đối không được tùy tiện chê bai, chỉ trích, trừ phi mình đã thông hiểu hết tất cả mật ý của tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mặt khác, cũng cần hiểu rõ Mật tông hoàn toàn không lấy phép tu song thân làm phương tiện duy nhất và cách thức thù thắng nhất, Mật tông còn có vô số phương pháp tinh yếu khác, cuối cùng bạn tự xét căn cơ của mình có thể thích hợp cho loại tu pháp nào; vả lại không thể vì sợ sai mà không làm, bởi vì một số ví dụ về phép tu luyện song thân qua điều nghe thấy hoặc những điều phao tin đồn nhảm không chính xác, nên từ đó về sau bỏ luôn các pháp, điều này tối kỵ là không được. Hãy đợi sau khi nhân duyên chín muồi, thế nào cũng có một ngày bạn sẽ am hiểu cảnh tượng vô hạn của Mật pháp và có đặc trưng, cách gia hộ khác nhau.
Nói tóm lại, dù Phật giáo xứ Tạng hay Phật giáo xứ khác, đối với yêu cầu mọi tín đồ Phật giáo nghiêm giữ giới luật, thì đó là điều hoàn toàn không có gì sai khác cả, tuyệt đại đa số người tu hành Mật pháp cũng đều lấy đạo giải thoát làm phương tiện thành Phật cho chính mình. Đối với những người này, giới luật, mà phải là giới luật nghiêm mật, mới thật sự là biểu trưng hành trì của họ.