Cuốn sách Đồng chí Võ Văn Kiệt với cách mạng Việt Nam được xuất bản nhân dịp kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của đồng chí Võ Văn Kiệt (1922-2012). Cuốn sách gồm một số bài viết của các đồng chí nguyên là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí lãnh đạo các bộ, ban, ngành, địa phương, đơn vị, của các nhà khoa học về cuộc đời, sự nghiệp của đồng chí Võ Văn Kiệt.
Trong gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Võ Văn Kiệt – nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người cộng sản kiên trung, người lãnh đạo tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam, đã có những cống hiến to lớn, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đặc biệt, với những cống hiến xuất sắc, sáng tạo trong thời kỳ đổi mối, đồng chí Võ Văn Kiệt đã góp phần quan trọng đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng, ổn định và vững bước trên con đường hội nhập, phát triển.
Đồng chí Võ Văn Kiệt tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, sinh ngày 23-11-1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long – một vùng đất giàu truyền thống đấu tranh chống áp bức cường quyền. Tiếp thu tinh thần yêu nước và truyền thống bất khuất của quê hương, đồng chí Võ Văn Kiệt sớm hình thành tư tưởng yêu nước và cách mạng. Năm 1938, khi mới 16 tuổi, đồng chí đã tham gia hoạt động cách mạng phong trào Thanh niên phản đế. Tháng 11-1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, làm Bí thư Chi bộ, Huyện ủy viên huyện Vũng Liêm và tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Trong suốt thời gian từ năm 1941 – 1945, trên cương vị Ủy viên Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Rạch Giá, đồng chí đã tham gia xây dựng lực lượng cách mạng, bảo vệ căn cứ địa U Minh trở thành đầu não chỉ huy cách mạng của các tỉnh miền Tây Nam Bộ, chuẩn bị mọi mặt cho khởi nghĩa cướp chính quyền ở Rạch Giá và các tỉnh miền Tây, góp phần giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945.
Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), đồng chí được Đảng phân công bí mật ở lại miền Nam, hoạt động trên địa bàn các tỉnh Cà Mau – Bạc Liêu, vùng cực Nam của Tổ quốc. Trong những tháng ngày đen tối của cách mạng miền Nam, đồng chí liên tục bám đất, bám dân, nắm tình hình, chỉ đạo cơ sở, giữ gìn lực lượng cách mạng.
Với tài năng và nhiệt huyết cách mạng, đồng chí tỏ rõ là người lãnh đạo linh hoạt, sáng tạo, bám sát thực tiễn, dấu chân của đồng chí Võ Văn Kiệt đã in khắp các chiến khu, trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến đấu của đồng bào Tây Nam Bộ, góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân cả nước.
Trong thời gian từ năm 1959 đến 1972, ở Sài Gòn nói riêng, miền Nam nói chung là thời kỳ chiến tranh vô cùng ác liệt. Đế quốc Mỹ và tay sai ra sức tiêu diệt cách mạng miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, đứng đầu là Bí thư Võ Văn Kiệt, quân và dân Sài Gòn – Gia Định đã anh dũng, kiên cường, làm thất bại những âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù. Nhất là trong dịp Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968), quân và dân Sài Gòn đã đồng loạt tấn công vào các mục tiêu đầu não của Mỹ - ngụy, làm cho chúng bị thiệt hại nặng nề. Qua đó, góp phần đánh bại ý chí tiến hành chiến tranh của địch, buộc Mỹ phải chấp nhận nồi vào bàn đàm phán với chính phủ ta tại Hội nghị Pari.
Từ năm 1973 đến năm 1975, đồng chí Võ Văn Kiệt được điều về công tác ở Trung ướng Cục, trên cương vị là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Với trọng trách được Đảng giao phó, trong những năm tháng khó khăn, ác liệt của cách mạng miền Nam, đồng chí luôn sát cánh cùng với các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam, đưa ra những quyết sách đúng, đắn, kịp thời chỉ đạo, chèo chống con thuyền cách mạng vượt qua mọi thách ghềnh.
Trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn, đồng chí được Trung ương Cục phân công lam Ủy viên trong Đảng ủy đặc biệt của Chiến dịch Hồ Chí Minh và Ủy ban Quân quản thành phố. Cùng với các đồng chí trong Đảng ủy chiến dịch, đồng chí Võ Văn Kiệt đã lãnh đạo quân và dân ta làm nên chiến thắng oanh liệt trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội với bao khó khăn, thiếu thốn, do hậu quả của chiến tranh để lại. Trên cương vị Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí đã đưa ra những quyết sách hết sức năng động, phù hợp với tình hình thực tiễn, tháo gỡ khó khăn, đưa thành phố Hồ Chí Minh dần đi vào ổn định và trở thành đầu tàu kinh tế của khu vực và cả nước.
Có thể nói, dù ở cương vị nào, đồng chí Võ Văn Kiệt cũng luôn trăn trở, nghiên cứu tìm ra những bước đi thích hợp, phục vụ mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX (1992 – 1997), đồng chí được bầu làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Trên cương vị cao nhất của Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện thành công đường lối đổi mới của Đảng, dẫn dắt đất nước từng bước ổn định, dần dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, từng bước phá vỡ thế bao vây cấm vận, thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, đưa đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập, phát triển.
Ngoài ra, dấu ấn của đồng chí Võ Văn Kiệt được khắc ghi bằng những công trình thế kỷ như đường dây tải điện 500 kV Bắc – Nam, dự án thoát lũ ra biển Tây, ngọt hóa đồng bằng sông Cửu Long, đường Hồ Chí Minh, Nhà máy lọc dầu Dung Quất, … Đây mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ Việt Nam.
Đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, một trong những quan điểm nhất quán trong tư duy chỉ đạo chiến lược của đồng chí Võ Văn Kiệt là phải giữ an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Với tầm bao quát, tư duy nhạy bén, sâu sát thực tiến, đồng chí Võ Văn Kiệt đã có những nhận xét, đánh giá và nhận định hết sức xác đáng về tình hình, công tác bảo đảm an ninh, trật tự. Từ đó, có những chỉ đạo sâu sát, cụ thể từng lĩnh vực, nhất là những vấn đề nhạy cảm như: an ninh đối ngoại, an ninh nội bộ, an ninh trong tôn giáo, dân tộc,…
Đồng chí Võ Văn Kiệt là hiện thân tiêu biểu của lớp các chiến sĩ cách mạng hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp của Đảng và của dân tộc. Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, dù ở bất cứ cương vị nào, đồng chí cũng dốc lòng, dốc sức, tìm tòi, sáng tạo, hoàn thành trọng trách trước Đảng, trước nhân dân. Suốt đời đồng chí Võ Văn Kiệt chỉ có một tâm niệm phục vụ nhân dân tốt hơn nữa, phục vụ Tổ quốc nhiều hơn nữa. Đồng chí xứng đáng là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn nêu cao tính tiền phong, gương mẫu và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, tình thương yêu đồng bào, đồng chí, luôn thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đưa toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, đưa sự nghiệp cách mạng luôn tiến lên phía trước.
Phần I: Đồng chí Võ Văn Kiệt với cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất tổ quốc
Đồng chí Võ Văn Kiệt là một cán bộ lãnh đạo có bản lĩnh, ý chí và hành động luôn gắn với nhau. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Sài Gòn – Gia Định, đồng chí Võ Văn Kiệt đã cống hiến nhiều công sức to lớn, được cán bộ, đảng viên và nhân dân quý mến.
Sau khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 khóa III năm 1959 ra nghị quyết về đướng lối cách mạng miền Nam, đồng chí Võ Văn Kiệt, Xứ ủy viên, Phó Bí thư Liên tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ, được Xứ ủy điều động về công tác ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Thời kỳ đó, chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành chính sách tàn bạo, cưỡng ép dân phải “tố cộng”, “diệt cộng” khiến cho tổ chức cơ sở của Đảng và cơ sở quần chúng cách mạng gần như bị tan rã hết. Trong bối cảnh đó, với trọng trách là một cán bộ lãnh đạo của Đảng, đồng chí Võ Văn Kiệt đã phải đồng hành với các đồng chí, đồng đội và nhân dân cùng đương đầu với nhiều khó khăn, thiếu thốn và nguy hiểm để xây dựng phong trào cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bí thư Võ Văn Kiệt, trong năm 1960, Khu ủy Sài Gòn – Gia Định đã thực hiện có hiệu quả chủ trương xây dựng và phát triển phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang ở đô thị dựa trên hình thái chiến tranh nhân dân trong mối liên kết chặt chẽ giữa ba vùng chiến lược: nông thôn, nội đo và vùng ven, mỗi một địa bàn chiến lược này đều tồn tại và phát triển trong sự hỗ trợ, liên kết với nhau để phát huy tiềm năng, thế mạnh theo đặc thù của mỗi vùng miền.
Trên cương vị Bí thư Khu ủy – Bí thư Quân khu ủy – Chính ủy Quân khu 9 trong khoảng thời gian tương đối ngắn (1969-1973), đồng chí Võ Văn Kiệt đã cùng đồng chí Lê Đức Anh lãnh đạo, chỉ huy quân và dân Khu 9 vượt qua một trong những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định; tinh thần cách mạng tiến công; gắn bó với dân, với cán bộ, chiến sĩ; khả năng tổng hợp, phân tích tình hình sắc sảo, sáng tạo, quyết đoán, đề xuất những chủ trương, giải pháp kịp thời, đúng đắn, đưa phong trào cách mạng của địa bàn và lực lượng vũ trang Quân khu vượt qua khó khăn, phát triển có tính bước ngoặt. Phương châm hành động của đồng chí luôn lấy “thực tiễn” là cơ sở của hành động, ý kiến của quần chúng là chìa khóa “vạn năng” để từng bước tháo gỡ khó khăn.
Đồng chí Võ Văn Kiệt đã luôn gắn bó với chiến khu miền Nam trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Đồng chí hay được người dân và bạn bè chiến hữu gọi thân thương bằng cái tên mang đậm nét đặc trưng Nam Bộ: Sáu Dân. Trong những năm tháng đó, đồng chí đã đề xuất ý kiến và chỉ đạo Đảng bộ cùng quân dân Thành phố Sài Gòn thực hiện đạt được nhiều kết quả lớn, có thể kể đến như: hình thành vành đai đỏ ở ngoại thành; lập ra các ban chuyên môn và thực hiện việc sát nhập huyện để có địa bàn thuận lợi cho việc đẩy mạnh kháng chiến; thúc đẩy các tầng lớp nhân dân nội thành đẩy mạnh cuộc đấu tranh trực diện với địch; đưa lực lượng của ra tham gia vào phong trào Phật giáo, xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng, tiếp tục giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh sau khi phong trào Phật giáo bị địch đàn áp mạnh phải tạm lắng; xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang, đặc biệt chú trọng xây dựng các đội biệt động, đặc công, …
Đồng chí Võ Văn Kiệt là một cái tên tiêu biểu trong số những người cộng sản kiên cường bất khuất của đất nước ta. Với các cương vị Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu, Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ và Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang; Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định; Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, … đồng chí đã có những đóng góp cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Nói về hoạt động của đồng chí Sáu Dân, bài viết của Nguyễn Hồng Lam (báo Công an nhân dân) kể lại: “20 năm đánh Mỹ, ông đi suốt, đi không nghỉ. Đang từ căn cứ Trung ương Cục miền Nam, ít bữa sau ông đã có mặt ở Bộ Chỉ huy Sài Gòn – Gia Định. Vừa chủ trì Hội nghị ở miền Đông xong, ông lại nhanh chóng có mặt để chỉ đạo kháng chiến ở miền Tây. Ổn việc ở Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, bóng ông lại xuất hiện trên chiến trường T3 (Tây Nam Bộ), rồi sau đó lại lộn về R, T4…”. Những người từng gắn bó với đồn chí Võ Văn Kiệt đều nhất trí rằng dường như đồng chí là người sinh ra để đi chiến trường.
Quá trình đấu tranh cách mạng trong cam go, gian khó của cách mạng miền Nam từ những ngày đầu kháng chiến, với tấm lòng thương dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, đồng cam cộng khổ với nhân dân, bám sát thực tiễn trên những địa bàn chiến lược, là cơ sở lịch sử vô cùng quan trọng hình thành tư duy sắc bén của đồng chí Võ Văn Kiệt trong lãnh đạo xây dựng đất nước, cùng với trách nhiệm đối với nhân dân, với đất nước sau khi thống nhất, lập lại hòa bình.
Phần II: Đồng chí Võ Văn Kiệt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, đồng chí Võ Văn Kiệt lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Chủ tịch rồi Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi đến Thủ tướng Chính phủ. Ở vị trí lãnh đạo, đồng chí đều có những quyết sách chính trị táo bạo, mở đường cho công cuộc đổi mới của đất nước.
Ngày giang sơn thu về một mối, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, niềm vui thống nhất chưa kéo dài được bao lâu thì cả nước ta lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Lúc này, đất nước phải đối mặt với một thử thách to lớn: tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt, sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được củng cố, đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi, có nơi đặc biệt nghiêm trọng. Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ lối tư duy máy móc, rập khuôn cùng với nếp suy nghĩa thời chiến dùng để đối phó với kẻ thù đã đưa đến “những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”.
Trước tình hình khó khăn của đất nước đã đặt ra cho những người có trách nhiệm, những nhà lãnh đạo đất nước không ít trăn trở, suy tư. Đồng chí Võ Văn Kiệt nhận thức rất rõ ràng, muốn khắc phục được tình trạng khó khăn mà đất nước đang gặp phải thì trước tiên phải bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế. Muốn làm được như vậy, trước tiên Việt Nam cần phải tiến hành giải phóng và phát triển sức sản xuất. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc phải giải phóng nguồn nhân lực, nhân tài; phải coi trí thức là lực lượng quan trọng để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng.
Tiếp nhận cương vị Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng chí Võ Văn Kiệt từ một nhà lãnh đạo chiến lược, quyết đoán trong chiến tranh nay lại trở thành người gánh trọng trách đứng đầu chính quyền dân sự của thành phố Hồ Chí Minh. Bằng sự mẫn cảm chính trị, với tầm tư duy chiến lược, quyết đoán, ông luôn có mặt nơi cuộc sống nhân dân diễn ra sôi động. Từ sau giải phóng đến cuối những năm 1970, thương mại bị đình đốn, sản xuất đi xuống, khan hiếm lương thực. Tại thành phố Hồ Chí Minh, nhiều nhà máy, công xưởng bị bỏ bê, hư hỏng, nguyên liệu không có để sản xuất; công nhân phải đi đến các vùng kinh tế mới trồng trọt để có thêm lương thực. Trong tình cảnh ấy, một số giám đóc nhà máy, xí nghiệp đã chủ động khai thác các nguồn nguyên liệu, tự cân đối nguồn hàng để khôi phục sản xuất hàng hóa làm ra nhiều hơn, đời sống công nhân được cải thiện. Đồng chí Võ Văn Kiệt đã đến tiếp xúc với những người công nhân, lắng nghe, ủng hộ họ để tìm cách tháo gỡ những khó khăn.
Năm 1982, đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu vào Bộ Chính trị và được bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Trên cương vị lãnh đạo mới, đồng chí tiếp tục tiếp xúc, tìm hiểu kinh nghiệm từ các chuyên gia kinh tế thị trường. Là một nhà lãnh đạo lão luyện trong chiến tranh nhân dân, ông không dựa vào lý thuyết để giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Ông lắng nghe dân, tìm hiểu thực tiễn từ cơ sở, nắm bắt kịp thời những kinh nghiệm tốt trong cuộc sống để tìm ra giải pháp, từ đó thuyết phục người khác bằng kết quả thực tế cuộc sống đã được minh chứng.
Năm 1991, đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Ngay từ những ngày đầu, đồng chí đã chỉ đạo các thành viên trong Chính phủ soạn thảo và trình Quốc hội thông qua, ban hành bản Hiến Pháp đổi mới, Hiến pháp 1992, trình Quốc hội Luật đất đai năm 1993, … Những đạo luật được ban hành làm nền tảng pháp lý cho một nền kinh tế thị trường vận hành, quyền của người dân được thể chế hóa trong Bộ luật dân sự năm 1995 và thể hiện trong nhiều đạo luật khác. Những bộ luật được thông qua và ban hành thể hiện một chiến lược táo bạo, quyết đoán của nhà lãnh đạo Võ Văn Kiệt, làm cơ sở nền tảng về lâu dài cho sự phát triển nền kinh tế Việt Nam trong những thập kỷ tiếp theo để hội nhập cộng đồng kinh tế thế giới. Đây cũng là cơ sở để Chính phủ Việt Nam tiến hành mạnh mẽ xây dựng một Nhà nước pháp quyền thể hiện trong Nghị quyết Đại hội VII của Đảng. Chính ở vị trí đứng đầu cơ quan hành pháp quốc gia, bản lĩnh, trách nhiệm gắn liền với quyết sách chính trị, đồng chí Võ Văn Kiệt đã để lại những dấu ấn khó phai mờ, đề ra nhiều chủ trương, chính sách, nhiều công trình quốc gia mang tầm chiến lược gắn liền với tên tuổi của Võ Văn Kiệt.
Bằng tất cả nhiệt huyết của người lãnh đạo đứng đầu chính phủ, đồng chí Võ Văn Kiệt đã nhanh chóng nhận ra vai trò của nền kinh tế thị trường đối với sự phát triển quốc gia dân tộc, đồng thời vai trò của luật pháp là một điều kiện tiên quyết để vận hành nền kinh tế thị trường. Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã đề ra đường lối đối ngoại đa phương, cho dù “làm bạn với tất cả”. Nhận định về tình hình thế giới, đồng chí Võ Văn Kiệt đã từng chỉ rõ: Trong thế giới ngày nay, không phải mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, mà trước hết là tính đa dạng, đa cực đang trở thành nhân tố nổi trội, chi phối những mâu thuẫn và sự vận động của các mối quan hệ giữa mọi quốc gia. Và cũng khác với trước đây, ngày nay lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực và lợi ích toàn cầu khác đóng vai trò ngày càng quan trong hơn trong việc xử lý các mâu thuẫn cũng như trong việc tạo ra những tập hợp lực lượng mới trên thế giới. Bởi vậy, đồng chí cho rằng: Hội nhập kinh tế quốc tế đối với mọi nước, nhất là các nước đang phát triển vừa là thời cơ vừa là thách thức. Đối với nước ta, thời cơ lớn hơn thách thức. Chúng ta chẳng những có khả năng tranh thủ năm bắt thời cơ mà còn có khả năng tạo ra thời cơ. Chẳng những chúng ta có khả năng vượt qua thách thức mà còn có khả năng nảy sinh thời cơ từ những thách thức mà ta đã và sẽ gặp phải, nếu ta có đường lối đúng, có bản lĩnh để thực hiện đường lối đó.
Việc Việt Nam thuận lợi gia nhập vào ASEAN có một phần ý kiến rất quan trọng đến từ đồng chí Võ Văn Kiệt. Ông nói “Nếu khi ấy Việt Nam do dự thì sẽ rất bất lợi, họ sẽ nghĩ Việt Nam chỉ thăm dò chứ không thành thật và như vậy thì cơ hội bỏ mất không biết đến bao giờ”. Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nhớ lại, thời kỳ hoạt động đối ngoại dưới quyền của Thủ tướng Võ Văn Kiệt là “một giai đoạn cực kỳ sôi nổi”. Các nhà ngoại giao Việt Nam thậm chí còn đề nghị coi năm 1995 là “Năm Võ Văn Kiệt” bởi đây là năm ông đã để lại dấu ấn rất lớn trong vấn đề ngoại giao của quốc gia. Trong năm này, Việt Nam gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Đó là một mốc cực kỳ quan trọng, Việt Nam lần đầu tiên có quan hệ với tất cả các nước đang chi phối thế giới này. Cũng trong năm đó, đồng chí Võ Văn Kiệt giao cho Bộ Thương mại xúc tiến đàm phán Thương mại với Mỹ.
Dù thúc đẩy mở rộng các mối quan hệ quốc tế nhưng đồng chí Võ Văn Kiệt cho rằng, độc lập tự chủ là yếu tố quyết định thắng lợi ở mỗi nước. Sự nghiệp xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam vì lợi ích của dân tộc mình phải do nhân dân Việt Nam tự làm. Đảng Cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ. Đồng chí Võ Văn Kiệt nói: “Một dân tộc chỉ “có thể làm bạn với tất cả” khi thực sự độc lập và khằng định được mục tiêu, những giá trị của mình, những giá trị dựa trên nền tảng dân tộc và nhân loại”. Để làm được điều đó, theo đồng chí Võ Văn Kiệt, chúng ta cần phải: Thứ nhất, tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nhất là những nước có những điểm gần giống với Việt Nam như Thái Lan, Malaixia, Hàn Quốc, Đài Loan, .. để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam; Thứ hai, xây dựng thực lực mạnh về mọi mặt, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội, con người của đất nước
Trong nhiệm kỳ Thủ tướng Chính phủ (1992-1997), đồng chí Võ Văn Kiệt cùng tập thể lãnh đạo đề ra và tổ chức thực hiện những chiến lược với nhiều quyết sách lớn, làm thay đổi đời sống mọi mặt của đất nước. Chẳng hạn như chương trình 10 năm đầu tư khai thác vùng Đồng Tháp Mười (1988-1997), vùng Tứ giác Long Xuyên, ngọt hóa bán đảo Cà Mau, giúp hai vùng đất hoang rộng lớn Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên được đầu tư, khai phá. Trong công nghiệp điện năng, nói đến công trình thế kỷ - đường dây 500 kV Bắc – Nam dài nhất Đông Nam Á với gần 1.500 km, người ta nghĩ ngay đến người tổng chỉ huy, nhà lãnh đạo Võ Văn Kiệt. Ông chính là người quyết định và trực tiếp chỉ huy công trình này đi đến thành công tốt đẹp. Một quyết sách chiến lược tiếp theo đó chính là con đường Trường Sơn công nghiệp hóa được phê duyệt triển khai thực hiện, hỗ trợ cho quốc lộ 1A trong mùa mưa lũ, đồng thời mở ra hướng khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội phía tây của Tổ quốc.
Ngoài những quyết sách chiến lược lớn về kinh tế, Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng quyết định cả những vấn đề văn hóa có ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội như: cấm đốt pháo trong các ngày lễ Tết và trong các nghi tục khác. Thủ tướng cho thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội, quyết định làm đường cao tốc Bắc Thăng Long – Nội Bài, …
Cuộc đời hoạt động cách mạng gần 70 năm liên tục, đồng chí Võ Văn Kiệt luôn trung thành với lý tưởng của Đảng, phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân và có nhiều cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam. Đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ra khởi xướng và lãnh đạo, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh, không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế của đất nước ra trên trường quốc tế. Là một trong những nhà lãnh đạo có tư duy đổi mới, đồng chí Võ Văn Kiệt đã có những đóng góp quan trọng vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua khỏi vùng nước xoáy của thời kỳ chủ nghĩa xã hội thoái trào.
Phần III: Đồng chí Võ Văn Kiệt – người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con ưu tú của quê hương Vĩnh Long
Đồng chí Võ Văn Kiệt thuộc lớp lãnh đạo tiền bối của Đảng và cách mạng Việt Nam, là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước từ sau khi đất nước thống nhất, thời kỳ đầy khó khăn, thử thách mới. Trải qua gần 70 năm hoạt động vô cùng phong phú và sôi nổi, từ khi còn lăn lộn trong phong trào đấu trạm cách mạng ở quê hương Vĩnh Long, ở Tây Nam Bộ, Sài Gòn – Gia Định rồi thành phố Hồ Chí Minh, đến khi đảm nhiệm nhiều trọng trách trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước thống nhất, đồng chí đều tỏ rõ là người cộng sản kiên định, sáng tạo và có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Vì vậy, tên tuổi và cống hiến của đồng chí gắn liền với những chặng đường đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ nhưng rất hào hùng, oanh liệt và vẻ vang của Đảng và nhân dân ta.
Nét đặc sắc nhất trong cuộc đời hoạt động của Võ Văn Kiệt là luôn soi sáng, hướng dẫn bởi tư tưởng, tấm gương sáng tạo của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, trong tư tưởng cũng như trên hoạt động thực tiễn, Võ Văn Kiệt luôn kiên định và quyết đoán sáng tạo – nhân tố cần thiết của người lãnh đạo, đặc biệt quan trọng trong những thời điểm thử thách ngặt nghèo của tình hình đất nước. Đây cũng là cơ sở để giải thích tại sao thời gian gặp gỡ, làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh không nhiều, nhưng trọn đời Võ Văn Kiệt đã rất thành công trong học tập và làm theo tấm gương của người thầy Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, trong mỗi quyết định mà ông Võ Văn Kiệt đưa ra ở từng thời điểm khác nhau đều có những dấu ấn của thời điểm ấy và dấu ấn của chính con người ông. Nó phản ánh tiến trình phát triển nhận thức của cá nhân ông, đồng thời thể hiện những ràng buộc của lịch sử.
Trong cuộc đời và sự nghiệp của mình, đồng chí Võ Văn Kiệt luôn thể hiện đầy đủ bản lĩnh cách mạng, Trong vai trò người đứng đầu Chính phủ lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn hội nhập và đổi mới, ông đã đưa ra và trực tiếp tổ chức thực hiện nhiều quyết sách quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy sắc sảo. Ông đã góp phần quan trọng vào việc hòa giải, hòa hợp dân tộc vì sự phát triển bền vững của đất nước. “Dân” trong quan niệm của Võ Văn Kiệt là toàn dân tộc Việt Nam, mọi người Việt Nam trên tinh thần hòa giải và yêu thương. Ở từng chặng đường chiến tranh hay hòa bình, tấm lòng và hoạt động của ông hướng về gần gũi nhất với những người ở đầu sóng ngọn gió, gánh vác và hy sinh nhiều nhất; những người nghèo thiếu thốn và thiệt thòi; tập trung vào những tầng lớp động lực là trí thức, tuổi trẻ, người lính và sĩ quan thời chiến, doanh nhân trong xây dựng và phát triển đất nước.
Trong lòng dân tộc, ông là con người của sự hài hòa tình cảm và lý trí. Trong hoạt động xã hội, ông là con người của sự hài hòa giữa tư duy xa rộng, quan điểm cơ bản và cách làm thiết thực, cụ thể đến chi tiết. Trong cuộc sống, chung cũng như riêng, ông là con người người của sự hài hòa giữa biết dâng đi và biết nhận về, biết cống hiến hết mình và biết thưởng thức thích đáng.
Ý tưởng của ông bắt nguồn từ việc thấm nhuần quan điểm của cổ nhân “dân vi bản”, hun đúc, suy ngẫm, lấy kinh nghiệm từ trong dân. Đó cũng là một triết lý sống sâu sắc, biện chứng và mạnh mẽ. Điểm mấu chốt trong tấm lòng của Võ Văn Kiệt là thái độ rất coi trọng lao động, coi người lao động là vốn quý nhất. Ông đánh giá cao vai trò của lao động bởi đó chính là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người, của xã hội.
Sinh thời, đồng chí Võ Văn Kiệt rất quan tâm đến vấn đề nhu cầu lợi ích của người lao động và làm thế nào để đem lại lợi ích, hạnh phúc cao nhất cho họ. Ông đặc biệt chú ý đến nhu cầu lợi ích cá nhân bởi mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ông luôn khai thác, tìm tòi những nhu cầu lợi ích thiết thân và chính đáng của nhân dân để họ có thể đem hết tài năng, trí lực, sáng tạo của mình hăng hái tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội,…
Là một nhà mácxít, đồng chí Võ Văn Kiệt hiểu rất rõ lợi ích kinh tế quyết định lợi ích tinh thần, nhưng cũng thấy được sự tác động trở lại của lợi ích tinh thần đối với lịch sử - xã hội thông qua hoạt động của con người, đặc biệt ở những nơi, những lúc mà điều kiện vật chất còn thiếu thốn, chưa có khả năng phát huy đầy đủ. Quan tâm, chăm lo đến lợi ích của người lao động là một trong những vấn đề cốt lõi trong quan điểm lấy dân làm gốc của đồng chí Võ Văn Kiệt. Quan điểm này đã trở thành mục tiêu duy nhất của Đảng, khởi nguồn từ Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngoài lợi ịch của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
Theo đồng chí Võ Văn Kiệt, trong Nhà nước dân chủ thì dân là gốc, dân là chủ, song dân cũng làm chủ, chăm lo cái gốc, phát huy dân chủ phải đi đôi với phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân. Điều này rất quan trọng vì: Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mọi người cần có tinh thần làm chủ tốt, phải đề cao tinh thần trách nhiệm. Đồng chí cho rằng cần phải thấu hiểu lời dạy của Bác Hồ: Người làm chủ trước hết phải hiểu quyền và nghĩa vụ công dân, phải làm tròn bổn phận công dân, phải chăm lo việc nước như việc nhà, phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ.
Trong thâm tâm đồng chí Võ Văn Kiệt, nghĩa vụ, trách nhiệm bao trùm nhất của mọi công dân là phải hết lòng, hết sức “phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Mỗi người đều phải có bổn phận với đất nước, nước là của dân và dân là chủ của nước, Tổ quốc là Tổ quốc chung. Nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ, Tổ quốc độc lập, giàu mạnh thì ai cũng được hưởng ấm no, tự do, hạnh phúc. Với mọi công dân, mọi giai cấp, tầng lớp, với các ngành, các cấp, đồng chí Võ Văn Kiệt luôn dặn dò phải phát huy tài đức, vị trí, vai trò của mình, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao để góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho bản thân.
Khi bàn về những phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam, đồng chí Võ Văn Kiệt vận dụng thuần thục di sản Hồ Chí Minh: mỗi người đều phải tuân theo đạo đức công dân. Đạo đức công dân là hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, cần, kiệm xây dựng nước nhà.
Đối với đồng chí Võ Văn Kiệt, quyền lợi phải đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ. Muốn có quyền lợi đòi hỏi công dân phải thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình; ngược lại, công dân thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ là để “ích nước, lợi dân”. Nghĩa vụ của công dân với đất nước được thể hiện một cách cụ thể nhất qua những việc làm từ đơn giản, thiết thực hằng ngày như tuân thủ pháp luật, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng thuế đầy đủ, … đến những công việc có tính chất quan trọng và rộng lớn hơn như tham gia công việc chung, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Bằng biện pháp tổ chức, giáo dục, vận động, tuyên truyền, Đảng và Chính phủ phải làm cho người lao động tự giác thực hiện những trách nhiệm và nghĩa vụ đó. Đây chính là phương thức tốt nhất để xây dựng một chế độ dân chủ, xây dựng một Nhà nước đúng nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tham gia lãnh đạo xây dựng chế độ xã hội mới trong bối cảnh sau khi đất nước vừa thoát khỏi ách xâm lược, với tư cách là nhà lãnh đạo tận tâm tận lực vì nhân dân, việc tìm ra những giải pháp nhằm phát huy các nguồn lực lao động có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa cơ bản trong sự nghiệp của đồng chí Võ Văn Kiệt. Năng lực chỉ đạo thực tiễn của đồng chí chính là xây dựng khối đại đoàn kết, sự đồng thuận dân tộc trên cơ sở tìm ra đúng mẫu số chung: Lợi ích dân tộc, lợi ích của đa số đang là nhân tố chi phối sự vận động chủ đạo của dân tộc.
Đồng chí Võ Văn Kiệt đã chủ động học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trong và cần thiết.
Với cương vị là nhà lãnh đạo đứng đầu đất nước, dù bận trăm công nghìn việc, nhưng đồng chí Võ Văn Kiệt vẫn luôn đau đáu về quê hương – huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Đồng chí luôn muốn góp sức mình vào việc thay đổi diện mạo quê hương. Với tư duy năng động, nhạy bén và tầm nhìn chiến lược, đồng chí đã gợi ý lãnh đạo tỉnh Vĩnh Long trong việc chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp nói riêng. Ông đã nhiều lần bàn với tỉnh, huyện về việc quy hoạch lại thị trấn, quy hoạch lại trung tâm huyện lỵ và chủ động quan tâm đến mọi mặt đời sống của người dân. Khi đã nghỉ hưu, tuổi cao sức yếu, nhưng trong các dịp lễ, ngày truyền thống, đồng chí vẫn thường xuyên về thăm quê hương, thăm đồng đội cũ và những gia đình nuôi giấu, chở che cho mình trong những năm tháng ác liệt của hai cuộc kháng chiến. Người dân Vĩnh Long, ai đã từng có dịp tiếp xúc với đồng chí Võ Văn Kiệt đều có một cảm nhận chung về con người ấy là một nhà lãnh đạo xuất sắc nhưng bình dị và đôn hậu. Ai cũng trân trọng tình cảm và những việc làm thiết thực của đồng chí – người con ưu tú làm rạng danh quê hương Vĩnh Long, người học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hiện nay, cách mạng nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với kinh tế tri thức. Đây là thời kỳ mà chúng ta cần huy động mọi tiềm năng, sức người, sức của phấn đấu cho sự nghiệp: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ chủ động hội nhập quốc tế, trí tuệ và bản lĩnh của đồng chí Võ Văn Kiệt đang được nhắc đến nhiều hơn và lan tỏa rộng hơn. Có thể nói, đồng chí Võ Văn Kiệt là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo rất thao lược, bản lĩnh chính trị rất vững vàng trước cơn giông tố, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, dám nhìn thẳng vào sự thật, năng động, táo bạo, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, với nguyên tắc tối thượng là: giữ vững thành quả đã giành được và tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên.
Đồng chí Võ Văn Kiệt là hiện thân tiêu của lớp các chiến sĩ cách mạng hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp của Đảng và độc lập dân tộc. Ông là người kế tục xuất sắc những giá trị văn hóa Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ cuộc đời và những cống hiến của Võ Văn Kiệt tỏa sáng những phẩm chất rất dung dị bằng những giá trị và đạo lý Việt Nam: sống có trách nhiệm với dân với nước; phương châm sống là “chứng minh chứ không phải thanh minh”, “làm nhiều hơn nói nhiều”, … Đó chính là dấu ấn phong cách, đạo lý của Võ Văn Kiệt.