• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đường chân trời đã mất
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • Sau

Phần kết

T

ôi gặp lại Ruxơfo ở Đenli. Chúng tôi cùng là khách đến dự bữa tiệc ngài Phó Vương chiêu đãi, nhưng do khoảng cách và nghi lễ, chúng tôi không được gần nhau cho đến lúc mấy người hầu quấn khăn đưa mũ trả lại chúng tôi. “Anh lại chỗ khách sạn của tôi, ta cùng uống với nhau chút ít”, anh mời tôi.

Hai chúng tôi cùng ngồi trên chiếc xe ngựa dọc con đường xa mấy dặm, khô cằn, giữa cuộc sống yên lặng ở Lutyens và rạp chiếu phim ấm áp, nhộn nhịp ở khu phố cổ Đenli. Qua tin đăng trên báo, tôi biết anh vừa mới từ Kashgar về. Anh là một người ăn mặc lịch sự nổi tiếng, moi móc tin tức rất giỏi; bất kỳ một ngày nghỉ bất thường nào cũng mang tính cách một cuộc thám hiểm và tuy người thám hiểm giữ ý không làm một điều gì thực sự độc đáo, nhưng mọi người không ai biết điều ấy, và anh ta lợi dụng toàn bộ giá trị của một ấn tượng vội vã. Chẳng hạn với tôi, chuyến đi của Ruxơfo không có gì đặc biệt đáng gọi là mở ra một kỷ nguyên như báo chí vẫn đề cao; những thành phố Khotan chôn vùi dưới lòng đất là chuyện cũ lắm rồi, nếu ta nhớ đến Stein và Sven Hedin. Tôi rất quen thân Ruxơfo nên nói đùa anh về chuyện đó, anh cười nói: “Ừ, sự thực sẽ viết được một câu chuyện hay hơn”. Anh thừa nhận, vẻ kín đáo.

Chúng tôi đi đến khách sạn nơi anh nghỉ và uống whisky. “Vậy anh đã ra công trình tìm kiếm Conuê?” tôi gợi chuyện khi thấy có thời cơ thuận tiện.

“Nói là tìm kiếm thì hơi quá đáng,” anh đáp. “Trong một đất nước lớn bằng nửa châu Âu anh không thể đi tìm một người. Tất cả những gì tôi có thể nói là tôi đã đi thăm nhiều nơi mà ở đấy tôi hy vọng gặp được anh ta hay được nghe một chút tin tức về anh ta. Hẳn anh còn nhớ, tin cuối cùng về anh ta tôi nhận được là anh ta rời Bangkok đi về phía Tây Bắc. Có dấu vết anh ấy đi ngược một quãng đường, và theo tôi đoán, anh ta có thể đi về phía các vùng dân tộc bộ lạc ở miền biên giới Trung Quốc. Tôi nghĩ có lẽ anh ta không đi về phía Miến Điện vì ở đấy có thể sẽ gặp các quan chức người Anh. Dù sao thì cũng có thể nói đến khoảng miền Thượng Xiêm1 thì mất hẳn dấu vết, và tất nhiên tôi không nghĩ đến chuyện theo dấu chân anh ta xa hơn nữa.”

1 Thái Lan bây giờ

“Anh có nghĩ đi tìm thung lũng Trăng Xanh có phần dễ hơn không?”

“Ồ, dường như đây đã có thể là một đề nghị chắc chắn hơn. Tôi nghĩ anh đã đọc qua tập bản thảo của tôi.”

“Nhiều hơn đọc qua. Đáng lẽ tôi đã phải gửi trả lại anh, nhưng vì anh đã không để lại địa chỉ.”

Ruxơfo gật đầu. “Chẳng hay anh đã dùng nó làm gì?”

“Tôi thấy tập bản thảo rất có giá trị - tất nhiên với giả thiết là tất cả đều hoàn toàn dựa trên những gì Conuê đã kể lại cho anh nghe.”

“Xin lấy danh dự cam đoan với anh về điều đó. Tôi không hề bịa thêm một chữ nào - thực vậy, thậm chí trong đó phần ngôn ngữ của tôi còn ít hơn điều anh tưởng. Tôi vốn có trí nhớ tốt, và Conuê thì bao giờ cũng có cách miêu tả sự vật. Anh chớ có quên chúng tôi đã hầu như nói chuyện suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ.”

“Ồ, như tôi đã nói, tập bản thảo rất có giá trị.” Anh ngả người ra phía sau, mỉm cười nói:

“Nếu đấy là tất cả những gì anh sắp nói thì tôi có thể thấy tôi sẽ phải nói rõ ý của tôi. Tôi nghĩ anh cho tôi là người có phần cả tin. Thực ra tôi không phải là như vậy. Người ta sẽ mắc sai lầm nếu quá cả tin, nhưng nếu tin quá ít thì cũng tẻ ngắt. Đúng là câu chuyện Conuê kể đã hấp dẫn tôi - theo nhiều cách - do đó, tôi thấy hết sức quan tâm đến việc kiểm tra sự việc, ngoài việc có dịp gặp chính là anh ta.”

Sau khi đã châm lửa đốt một điếu xì gà, anh nói tiếp: “Có nghĩ là một chuyến đi dài đường kỳ quặc, nhưng tôi lại thích đi như vậy, và các nhà xuất bản của tôi họ không thể từ chối thỉnh thoảng ra một cuốn du ký. Tất cả tôi đã đi chừng mấy ngàn dặm đường - Baxkun, Bangkok, Trùng Khánh, Kashgar - Tôi đi thăm hết, và cả cùng nội địa giữa những nơi có điều bí mật. Nhưng anh biết đấy, nó rất mênh mông, nên tất cả công việc thăm dò của tôi chỉ ở vùng quanh rìa mà thôi và cũng chỉ ở bên lề điều bí mật. Thực vậy, nếu anh muốn biết đích xác cụ thể về cuộc phiêu lưu của Conuê thì, trong chừng mực tôi đã có thể kiểm tra được, tôi chỉ có thể nói rằng anh ta rời Baxkun đi ngày hai mươi tháng Năm, đến Trùng Khánh ngày mồng năm tháng Mười. Và điều cuối cùng biết về anh ta là anh lại rời Bangkok đi ngày mồng ba tháng Hai. Còn ngoài ra, tất cả chỉ là khả năng, là có thể, là phỏng đoán, là huyền thoại, là truyền thuyết tùy ý anh muốn gọi là gì cũng được.”

“Vậy anh không tìm thấy gì ở Tây Tạng?” “Anh bạn thân mến ơi, tôi có vào đất Tây Tạng bao giờ đâu. Người ở Nhà khách Chính phủ không chịu để tôi đi. Họ nói để đi như vậy khác nào chuẩn y cho một chuyến leo núi Everest, và khi tôi ngỏ ý muốn đi lang thang một mình trong vùng Kuen-Luns, họ trố mắt nhìn tôi, như thể tôi gợi ý muốn viết một cuốn sách về cuộc đời của Thánh Găngđi. Thực tế là họ biết nhiều hơn tôi. Đi lang thang ở Tây Tạng không phải là công việc của một người mà là của một đoàn thám hiểm có trang bị đầy đủ và người cầm đầu ít nhất phải biết ít nhiều tiếng nói của dân địa phương. Tôi nhớ khi Conuê kể cho tôi nghe, tôi cứ thắc mắc tại sao lại cứ phải mất công chờ đám phu khuân vác - sao không cứ lên đường mà ra đi? Và chẳng mấy tôi đã nhận ra. Những nhân viên Chính phủ họ nói rất đúng - tất cả hộ chiếu trên đời cũng không thể giúp tôi vượt qua được Kuen-Luns. Tôi đã đi đến tận đấy để nhìn Kuen-Luns ở đằng xa vào một ngày rất quang đãng - tôi đứng cách khoảng năm chục dặm. Ngay chỉ thế thôi cũng ít có người châu Âu đã đặt chân tới.”

“Vùng đó ghê gớm thế cơ?”

Nom nó giống như một cái tủ lạnh khổng lồ trắng toát ở phía chân trời, có thế thôi. Ở Yarkand và Kashgar, gặp ai tôi cũng hỏi thăm về những ngọn núi ở đây, nhưng chẳng biết được thêm là bao. Tôi nghĩ đây là rặng núi được ít nhà thám hiểm biết tới nhất trên thế giới. Tôi may mắn gặp được một du khách người Mỹ, có một lần anh ta cũng đã định vượt qua dãy núi này, nhưng không tìm ra được một cái đèo nào. Anh ta nói, có nhiều đèo đấy, nhưng nó cao khủng khiếp và không thấy có ghi trên bản đồ. Tôi hỏi anh ta liệu có thể có một khu thung lũng như Conuê miêu tả không, thì anh ta nói anh ta không khẳng định là không thể có, nhưng anh nghĩ rất có thể không có, dù sao thì cũng trên cơ sở địa chất học. Sau đấy tôi lại hỏi, anh có bao giờ nghe nói về một ngọn núi hình chóp nón mà lại cao bằng ngọn núi cao nhất của vùng Hỉ Mã Lạp Sơn không, câu trả lời của anh ta rất hấp dẫn. Anh ta nói có một truyền thuyết về ngọn núi như vậy, nhưng bản thân anh ấy nghĩ không thể có cơ sở để tin. Anh ta nói thêm, thậm chí còn có tin đồn là có những ngọn núi thực sự cao hơn ngọn Everest, song riêng anh ta, anh ta không tin. “Tôi không tin là ở Kuen-Luns có ngọn núi nào cao hơn hai mươi lăm ngàn bộ1”. Nhưng anh thừa nhận rằng, những ngọn núi ở đấy chưa hề được đo đạc kỹ lưỡng.

1 7.620m

Sau đó tôi hỏi anh ta là có biết gì về các tu viện Lama ở Tây Tạng không, vì anh ta đã đến đấy nhiều lần. Những gì anh ta cho biết cũng như những điều nhiều cuốn sách đã nói đến. Anh ta đoán chắc với tôi rằng, những nơi ấy không hề đẹp, các tu sĩ, sư sãi ở đó thường thường là đồi bại và bẩn thỉu. “Thế họ có sống lâu không?” Tôi hỏi. Anh ta nói có, thường họ sống lâu, trừ những trường hợp bị chết vì bệnh tật do bẩn thỉu gây ra.

Sau tôi mạnh dạn đi thẳng vào vấn đề, hỏi anh có nghe được những truyền thuyết về các vị Lama sống cực lâu không. “Hàng đống!” Anh nói. “Đấy là những chuyện tủ mà đến đâu cũng nghe thấy người ta kể, nhưng không thể kiểm nghiệm được. Người ta kể có một anh chàng trông xấu xí bị nhốt trong một phòng kín suốt một trăm năm, lúc mở cửa phòng ra, con người này vẫn y như trước, nhưng tất nhiên, anh không thể đòi y đưa ra giấy khai sinh.” Tôi hỏi anh ta, liệu anh có nghĩ họ có pháp thuật gì, hoặc phương thuốc gì để kéo dài tuổi thọ hoặc để giữ con người trẻ lâu không, anh nói họ cho rằng họ có rất nhiều phương thuốc và pháp thuật kỳ cục về điều đó, nhưng anh ấy nghĩ, nếu nhìn tận mắt thì nó chằng khác gì cái trò ảo thuật cái thừng của người Ấn Độ - bao giờ cũng là cái mà người khác đã trông thấy. Tuy nhiên, anh ấy nói các Lama ở đấy hình như có năng lực kỳ lạ về kiềm chế cơ thể. “Tôi đã nhìn họ,” anh nói. “Ngồi ở bên mép một cái hồ nước đóng băng. Họ trần như nhộng, ngồi trong thời tiết giá lạnh dưới 0oC và gió gào thét, trong lúc những gia nhân đầy tớ đập vỡ băng và quấn quanh người họ những chiếc khăn đã được nhúng xuống nước. Họ làm như vậy đến hơn mười lần và các Lama đã dùng cơ thể mình để hong khô cho những chiếc khăn. Người ta cho rằng các Lama đã vận khí để giữ cho người được ấm nóng, tuy đấy chỉ là một lối giải thích không có gì là đúng cho lắm.”

Ruxơfo uống thêm rồi nói tiếp: “Nhưng tất nhiên, như anh bạn người Mỹ của tôi đã thừa nhận, tất cả những cái này chả có liên quan gì mấy đến phép trường sinh bất tử. Nó chỉ chứng tỏ các Lama vẫn có những tục lệ tự hành xác rất khó chịu … Đấy, sự thể với chúng tôi là vậy và chắc anh cũng sẽ đồng ý với tôi rằng mọi thứ có chỉ là chuyện cung trăng mà thôi.”

Tôi nói, như vậy thực khó kết luận, và tôi lại hỏi thế người Mỹ kia có nghe nói gì về những cái tên “Karakan” và “Shangri-La” không?.

Hoàn toàn không. Tôi đã hỏi anh ta về những cái đó, anh ta nói: “Thú thực, tôi không sành về các tu viện - quả vậy, có một lần tôi đã nói với một người tôi gặp ở Tây Tạng rằng, nếu tôi có lạc đường một chút là để tránh không gặp những tu viện ấy chứ không phải để đến thăm họ”. Câu nói ngẫu nhiên đó đã khiến tôi nảy ra một ý nghĩ tò mò. Tôi hỏi anh ta đã gặp người ở Tây Tạng hồi nào. Anh ta đáp: “Ồ, đã lâu lắm rồi, từ trước Đại Chiến vào năm 1911 thì phải”. Tôi lại hỏi thêm anh ta một cách chi tiết hơn, và anh ta đã cho biết những gì trí nhớ còn ghi lại được. Hình như hồi đó anh ta làm cho một hãng của Mỹ chuyên về các vấn đề địa lý, anh ta đã cùng đi với nhiều đồng nghiệp, cùng phu khuân vác. v.v. Thực sự một đoàn thám hiểm có trang bị đầy đủ. Ở đây khoảng gần Kuen-Luns, anh ta gặp một người Trung Quốc ngồi trên chiếc ghế kiệu do mấy người thổ dân khiêng. Người Trung Quốc này nói tiếng Anh rất thạo, và cứ ân cần khẩn thiết mời đoàn địa lý đến thăm một tu viện gần đấy - thậm chí người ấy còn tự nguyện xin dẫn đường. Anh người Mỹ nói đoàn không có thì giờ và thực ra họ không quan tâm đến chuyện đi thăm tu viện, câu chuyện chỉ có thế. Nghỉ một lát Ruxơfo nói tiếp: “Tôi không nghĩ rằng như thế có nhiều ý nghĩa. Khi người ta gắng nhớ lại một sự kiện ngẫu nhiên xảy ra từ hai chục năm về trước, thì không thể tin được lắm. Song nhiều khi nó cung cấp một đề tài hấp dẫn để suy nghĩ.”

“Đúng thế, nếu một đoàn thám hiểm có trang bị đầy đủ mà nhận lời đến thăm, tôi thấy tu viện chẳng có thể cố giữ họ ở lại trái với ý muốn của họ.”

“Ồ tất nhiên. Nhưng có lẽ đấy không phải là tu viện ở Shangri-La.”

Cả hai chúng tôi ngẫm nghĩ hồi lâu và thấy dường như quá mù mờ để bàn cãi, và tôi tiếp tục hỏi Ruxơfo có phát hiện được gì ở Baxkun không.

“Baxkun chẳng đem lại được gì, mà Petxavơ còn tệ hơn. Người ta chẳng cho tôi biết được gì hơn, ngoài câu chuyện chiếc máy bay bị cướp mất là có thật. Người ta cũng không thích thừa nhận việc này, vì đấy là một câu chuyện không có gì để họ lấy làm hãnh diện.”

“Thế không nghe thấy nói gì về chiếc máy bay ấy về sau ra sao ư?”

“Không có cả lời đồn đại gì về nó, hoặc về bốn người đi trên máy bay. Tuy nhiên, sau này tôi thẩm tra thấy chiếc máy bay đó có thể bay cao để vượt qua những dãy núi rất cao. Tôi cũng đã cố tìm tung tích của anh chàng Bacna, nhưng quá khứ của hắn bí ẩn quá nên tôi cũng không hề ngạc nhiên một chút nào nếu thực sự hắn là Chalmers Bryant như Conuê nói. Nói cho cùng, việc Bryant biến mất tăm giữa lúc đang bị săn đuổi thì quả thực lạ lùng.”

“Thế anh có tìm hiểu gì thêm về tên đã thực sự ăn cướp chiếc máy bay không?”

“Tôi đã cố tìm. Nhưng cũng lại không có hy vọng. Người phi công bị tên cướp đánh gục và mạo danh lái chiếc máy bay đi, đã bị giết chết, thế là một đường dây để dò hỏi đã bị cắt đứt. Tôi còn viết cả thư cho một người bạn của tôi ở Mỹ đang làm công việc quản lý một trường đào tạo phi công, hỏi anh ta vừa qua có học viên là người Tây Tạng không; anh ta trả lời nhanh chóng nhưng không giúp được gì. Anh ta nói anh không phân biệt được người Tây Tạng với người Trung Quốc, và con số những người này ở trường có tới khoảng năm mươi người - tất cả họ được đào tạo để lái máy bay chống lại Nhật Bản. Anh xem đấy, ở đây cũng chẳng có may mắn cho lắm. Nhưng tôi đã có được một phát hiện khá kỳ quặc - một phát hiện tôi có thể đạt được dễ dàng không cần phải đi khỏi London. Tại Jena vào khoảng giữa thế kỷ vừa qua, có một giáo sư người Đức đi chu du thiên hạ và ông ta đã đến thăm Tây Tạng vào năm 1887. Ông ta không bao giờ trở về và có những chuyện đồn đại về ông ta đã bị chết đuối trong khi lội sông. Tên ông ta là Friedrich Meister ”

“Trời ơi - một trong số những tên mà Conuê đã nói đến!”

“Vâng, tuy đó có thể chỉ là một sự trùng hợp. Nó chẳng hề chứng minh cho toàn bộ câu chuyện, vì ông người Jena này sinh năm 1845. Chẳng có gì là đáng hấp dẫn.”

“Nhưng cũng kỳ lạ đấy chứ”, tôi nói. “Ồ, vâng, nó cũng khá kỳ quặc.”

“Thế anh có dò la tung tích được một người nào khác không?”

“Không. Rất tiếc là tôi không có một danh sách dài hơn để tiếp tục dò tìm. Tôi không thể tìm được một bản ghi chép nào nói về một người học trò của Sopanh tên là Briac; tất nhiên, điều đó không phải chứng tỏ không có một người như vậy. Conuê rất dè dặt trong việc nêu tên người, anh cứ nghĩ mà xem - trong số trên năm chục Lama ở tu viện kể trên, anh ta chỉ kể ra một hai vị, Perôn và Hăngsen cũng không thể dò tìm ra được.”

“Thế còn Malinxơn thì sao” Tôi hỏi. “Thế anh có cố gắng tìm anh ta về sau ra sao không? Và cô gái nữa - cô gái Trung Quốc ấy?”

“Anh bạn ơi, tất nhiên là tôi đã cố gắng dò tìm. Điều trớ trêu là, có lẽ anh cũng nắm được qua bản thảo, câu chuyện Conuê kể lại kết thúc ở lúc mấy người theo đoàn phu khuân vác rời khỏi thung lũng Trăng Xanh. Sau đấy, anh ta hoặc không nói được hoặc không muốn nói sự thể về sau ra sao - có lẽ nếu có thời gian anh ta đã kể. Tôi cảm thấy có thể sau đó đã xảy ra một tấm thảm kịch gì chăng. Những khó khăn gian khổ trên đường đi thật là kinh hoàng, ấy là chưa kể khả năng đoàn người bị cướp bóc, hoặc thậm chí có sự phản bội ngay từ trong đám người hộ tống đưa đường. Có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được đích xác sự việc đã xảy ra sao, nhưng dường như khá chắc chắn là Malinxơn đã không hề tới Trung Quốc. Anh biết đấy, tôi đã đi tìm kiếm hỏi han khắp nơi. Trước hết, tôi theo vết chi tiết về sách và nhiều thứ khác đã được đặt mua với số lượng lớn và gửi qua biên giới Tây Tạng, song ở tất cả những nơi có khả năng có việc mua bán đó, như Thượng Hải, Bắc Kinh, tôi đều không tìm thấy gì hết. Điều này tất nhiên chưa đáng kể, vì chắc chắn làm việc này các vị Lama đã chú ý lo sao cho cách thức nhập hàng của họ được giữ hết sức kín. Sau đó, tôi đi Tatsien- Fu để dò la. Đây là một vùng kỳ quặc, một thứ thành phố giao lưu buôn bán ở nơi cùng trời cuối đất, cực kỳ khó khăn mới tới được, ở đây những người phu Trung Quốc thường từ Vân Nam vận chuyển chè đến cho người Tây Tạng. Anh có thể đọc thấy rõ điều này qua cuốn sách mới của tôi khi nó được xuất bản. Không mấy người châu Âu nào đã lần mò tới tận nơi xa xôi hẻo lánh này.

Tôi thấy người dân ở đây rất lịch sự, nhã nhặn, nhưng không hề thấy có tin tức hay ghi chép nào về chuyện đoàn người của Conuê tới đây.”

“Vậy việc Conuê bằng cách nào đã về được Trùng Khánh vẫn chưa thể giải thích được ư?”

“Kết luận duy nhất có thể có được là anh ta đã lang thang đi tới đó, cũng y như anh ta đã lang thang đi đến bất kỳ một nơi nào khác vậy. Dù sao thì chúng ta cũng quay lại với bao sự việc khó hiểu khi ta đến Trùng Khánh, thế cũng là một cái gì rồi. Các bà xơ ở bệnh viện truyền giáo là có thực, và cả chuyện Xivơkinh đã tỏ ra phấn khích khi ở trên tầu thủy nghe Conuê dạo những bản đàn bảo là của Sopanh.”

Ruxơfo nghỉ một lát rồi nói thêm, vẻ ngẫm nghĩ: “Thực là khó khi cân nhắc khả năng thực hư, và tôi phải nói là cán cân chẳng nghiêng hẳn về phía nào.Tất nhiên, nếu anh không chấp nhận câu chuyện Conuê kể, thì có nghĩa là anh không tin anh ta nói thực hoặc là đầu óc anh ta không được bình thường - cứ nói thẳng ra như vậy.”

Anh lại nghỉ như đợi tôi cho ý kiến. Tôi nói:

“Như anh biết đấy, từ sau Chiến tranh tôi không hề gặp lại anh ta, nhưng người ta bảo Chiến tranh đã làm anh ta biến đổi nhiều.” Ruxơfo đáp: “Đúng thế, anh ấy có bị thay đổi.

Một anh chàng bị đẩy suốt ba năm vào hoàn cảnh căng thẳng cả về vật chất lẫn tinh thần, làm sao mà không bị xé nát một chút gì đó. Người ta thường nói, tôi cho là như vậy, là anh ta thoát khỏi chiến tranh không bị một vết xước. Nhưng những vết xước là ở đấy - bên trong tâm hồn.”

Chúng tôi nói chuyện một lát về Chiến tranh cùng những hậu quả của nó đối với nhiều loại người, và cuối cùng Ruxơfo nói tiếp: “Nhưng có một điều nữa tôi cần nói thêm - và có lẽ theo một cách nào đó thì đấy là một sự việc kỳ quặc nhất. Nó xảy ra trong lúc tôi đến hỏi thăm ở nhà truyền giáo. Ở đấy, như anh có thể đoán ra, tất cả mọi người đã hết sức giúp đỡ tôi, song họ cũng không nhớ được nhiều, nhất là vào hồi ấy, họ đang hết sức bận vì dịch sốt. Một trong những câu tôi hỏi họ là: Conuê đã đến bệnh viện đây bằng cách nào, tự anh ta một mình đến, hay là được ai đó thấy anh ốm rồi đưa anh đến. Họ không nhớ được chính xác - thời gian đã quá lâu rồi - nhưng đột nhiên, khi tôi đã sắp bó tay thôi không hỏi thêm nữa, thì có một bà xơ rất ngẫu nhiên nói ra: “Tôi nghĩ ông bác sĩ có nói là anh ấy được một người đàn bà đưa đến đây”. Bà ta chỉ biết thế thôi, còn chính ông bác sĩ hồi đó giờ không còn làm ở đấy nữa, thế là không có ai để xác minh khẳng định tại chỗ điều bà xơ vừa nói. Nhưng đã biết được thế, tôi không chịu bỏ cuộc. Hình như ông bác sĩ ấy đã được điều đến một bệnh viện lớn ở Thượng Hải, nên tôi liền hỏi thăm ghi địa chỉ của ông và đến gặp ông ở Thượng Hải. Chính vào lúc máy bay địch vừa bắn phá xong, cảnh tượng còn ác liệt lắm, tôi đã gặp bác sĩ vào lần đầu tiên tôi đến Trùng Khánh. Ông là người rất lịch sự tuy ông bận rộn một cách kinh khủng - đúng vậy, kinh khủng vì những trận phi cơ Đức dội bom xuống London thực không thấm vào đâu so với những trận bom mà phi cơ Nhật dội xuống đất nước của Thượng Hải. Ồ, vâng, ông ta nói ngay, ông có nhớ trường hợp của bệnh nhân người Anh đã mất trí nhớ. Tôi hỏi: “Có thực là anh ấy đã được một người đàn bà đưa đến bệnh viện truyền giáo không?” “Ồ, vâng, đích xác là do một người đàn bà, một người đàn bà Trung Quốc”. “Thế ông có nhớ gì về người đàn bà đó không?” Ông ta đáp: “Tôi không còn nhớ gì hết, trừ điều chính bà ta cũng mắc dịch sốt, và hầu như chết ngay sau đó…” Vừa lúc ấy phải ngắt quãng - hàng đống người bị thương được đưa vào xếp trên cáng đặt ngoài hành lang - các phòng đều đầy ních bệnh nhân. Và tôi cũng không dám làm mất thì giờ thêm của ông, nhất là lúc ấy tiếng đại bác vẫn vang rền dội vào Woosung, nhắc cho tôi biết sắp tới ông còn bận hơn thế nữa. Khi ông trở lại với tôi, vẻ mặt vẫn tươi tỉnh mặc dầu ông đang ở giữa cảnh đầy ghê sợ. Tôi chỉ hỏi ông ấy một điều cuối cùng và tôi dám chắc anh cũng đoán ra được điều đấy là điều gì. Tôi nói: “Về người đàn bà Trung Quốc, cô ta còn trẻ không?”

Ruxơfo gõ gõ nhẹ điếu xì gà, như thể câu chuyện anh kể đã kích thích anh mạnh mẽ như thế nào thì anh hy vọng nó cũng kích thích tôi như vậy. Tiếp tục, anh nói: “Ông bác sĩ người nhỏ bé nghiêm trang nhìn tôi một lúc rồi trả lời bằng một thứ tiếng Anh nuốt chữ khá ngộ nghĩnh mà người học thức Trung Hoa nào cũng biết. Ồ, không, bà ta già lắm - già tới mức tôi chưa hề nhìn thấy ai già như vậy.”

Chúng tôi ngồi yên lặng một lúc thật lâu, rồi lại cùng nhau nói chuyện về Conuê như tôi còn nhớ về anh ta, một người như trẻ con, đầy tài năng, đầy sức hấp dẫn, và về Cuộc Chiến tranh đã làm thay đổi anh cùng biết bao điều huyền bí về thời gian, tuổi tác và tâm hồn, rồi về cô bé Mãn Châu đã trở thành “Bà cụ hết sức già”, và về giấc mơ kỳ quặc cuối cùng trở lại Trăng Xanh. Tôi hỏi: “Anh có nghĩ Conuê sẽ mãi mãi tìm thấy lại thung lũng Trăng Xanh không?”