• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đường mây trong cõi mộng
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 55
  • Sau

Sự thiết yếu của việc niệm Phật cùng tham thiền

Người thẩm sát công án niệm Phật phải đề cử âm thanh “A Di Đà Phật” làm thoại đầu. Nơi đề khởi, phải hạ nghi tình1, thẩm vấn xem người niệm Phật là ai. Quyết bám câu thoại đầu này, thì tất cả vọng tưởng tạp niệm đều bị đốn đoạn như chặt dây nhợ. Không dung dưỡng cho chúng khởi lên (vì nơi khởi tức tâm liễu giác bị che mất2), mà chỉ còn một niệm; sáng suốt, rõ ràng như mặt trời lơ lửng trên không trung, thì vọng niệm không sanh, hôn mê tự thối tán, tức tịch tịch tỉnh tỉnh.

1 Hạ nghi tình: là một trong các bước tham thiền của Tịnh Độ tông, là tập trung vào một niệm, là câu thoại đầu để quán tưởng (ví dụ, câu thoại đầu là “Ai đang niệm Phật?”). Đây là cách mà người tu thiền theo tông Tịnh Độ giữ cho tâm không tán loạn bằng cách bám theo một niệm duy nhất ngay từ đầu và để thấu suốt, hiểu rõ thật tánh của sự vật, hiện tượng.

2 Ý nói vọng niệm khởi lên làm che mờ tánh giác hay thật tánh.

Đại sư Vĩnh Gia3 thuyết: “Tịch tịch tỉnh tỉnh là phải, tịch tịch vô ký4 là sai. Tỉnh tỉnh tịch tịch là phải, tỉnh tỉnh loạn tưởng là sai”. Tịch tịch mà không lạc vào hôn trầm vô ký. Tỉnh tỉnh mà không lạc vào vọng tưởng. Tịch tỉnh song song lưu hành, và tâm phù trầm5 đều xả. Xem đến nơi một niệm chưa sanh, thì tiền hậu tế đều đoạn6, chính giữa tự cô độc7, tức khắc đập thủng thùng nước sơn8, bèn thấy bản lai diện mục. Thân, tâm, thế giới9 lập tức rơi xuống, như hoa rụng trong hư không. Mười phương tròn đầy trong sáng, thành một tạng đại quang minh. Như thế chính là thời tiết10 trở về nhà. Nhật dụng hiện tiền11, viên minh trong sáng, nên không còn nghi ngờ; tin chắc tự tâm, gốc vốn như thế. Từ trên Phật Tổ, nơi tự thọ dụng, không hai không khác12. Đến cảnh giới đó, chớ nên giữ chấp không kiến. Nếu giữ chấp không kiến13, thì đọa vào ngoại đạo ác kiến. Lại không thể khởi hữu kiến cùng tri kiến huyền diệu, vì còn hữu kiến tức đọa vào tà kiến14. Ngay trong công phu, xuất hiện bao loại cảnh giới, quyết chẳng nhìn nhận chúng; nghe một tiếng quát liền tiêu. Cảnh ác hiện chớ sợ, và cảnh lành chớ vui, vì chúng chính là con ma tập khí15. Nếu sanh tâm vui mừng, tức đọa vào đường ma. Phải quán biết đó là hiện cảnh của tự tâm16, không từ ngoài vào. Phải biết bổn lai17 thanh tịnh, trong tâm vốn không có một vật. Gốc vốn không mê ngộ, chẳng nương nơi thánh phàm18, thì còn an đắc bao loại cảnh giới sao! Ngày nay vì mê bản tâm19 này nên phải dụng công phu để tiêu ma vô minh tập khí. Nếu ngộ bản tâm xưa nay không có một vật, vốn sáng suốt bao la, thanh tịnh lặng lẽ, thì thong dong tự tại qua ngày, sao còn có công phu nào để hành! Người thời nay phải tin tâm này, xưa nay vốn không một vật20. Như nay dụng công phu, chỉ vì chưa thấy được bản lai diện mục đó, nên phải quyết hạ thủ công phu, thì mới mong có ngày trở về quê quán. Từ đó mà thẳng bước, thì tự nhiên sẽ có lúc đốn ngộ bản lai diện mục, tức là xuất ra khỏi sanh tử, mãi mãi không nghi ngờ.

3 Vĩnh Gia Huyền Giác (665 – 713): là thiền sư Trung Hoa đời Đường. Thiền sư còn có các tên Minh Đạo, Chân Giác và Đạo Minh, là đệ tử được Huệ Năng ấn chứng. Ngài nổi tiếng với pháp hiệu “Nhất Túc Giác” (giác ngộ trong một đêm) mà ngài Lục Tổ Huệ Năng ban cho trong câu chuyện ngài nghỉ lại chỉ một đêm với Lục Tổ. Ngài tinh thông cả ba tông – Thiền tông, Thiên Thai tông và Hoa Nghiêm tông.

4 “Vô ký”: mê mờ, không tỉnh giác; “tịch tịch tỉnh tỉnh”: (tâm) vắng lặng trong tỉnh thức; “tịch tịch vô ký”: vô niệm nhưng không tỉnh thức, chưa thấy được chân tánh của các pháp.

5 Phù trầm: chỉ hai trạng thái cực đoan của tâm, một là trầm, hai là phù. Trầm nghĩa là chìm xuống, trong trạng thái buồn ngủ, nặng nề; còn phù là nổi lên, có nghĩa là lăng xăng, không có định. Lìa được hai trạng thái đó thì gọi là đẳng. Trong trường hợp nó nổi lên, lăng xăng, ta gọi là trạo cử. Trường hợp nó chìm xuống, nó nặng nề, ta gọi là hôn trầm. Đó là hai thái cực phải tránh trong lúc thiền tọa.

6 “Tiền tế” là các hành/nghiệp trong quá khứ; “hậu tế” là các hành/ nghiệp vị lai; “tiền hậu tế đều đoạn” là đoạn dứt mọi vọng tưởng quá khứ hay tương lai khởi lên bên trong.

7 Chính giữa tự cô độc: “chính giữa” là không vọng niệm quá khứ hay tương lai, chỉ có hiện tại; “cô độc” là hướng vào bên trong, vào bản tâm thanh tịnh.

8 Thùng nước sơn: những gì thuộc về hình tướng bên ngoài, không phải tánh chân thật.

9 Thân, tâm, thế giới: là những gì thuộc về cảnh giới bên ngoài; ở đây chỉ mọi tri kiến, vọng tưởng về thân, tâm, thế giới.

10 Thời tiết: lúc, khi.

11 Nhật dụng hiện tiền: thọ nhận hằng ngày, ngay lúc này, ngay trong đời này; có nghĩa là thấy chân tánh của vạn vật như chúng đang là, ngay trong đời sống hiện tại.

12 Không hai không khác: ý nói đã thấu rõ thật tánh, nghĩa là sự vật hiện tượng chỉ chuyển đổi từ cách biểu hiện này sang cách biểu hiện khác, nhưng vẫn là chính nó (thuyết Bất nhị).

13 Giữ chấp không kiến: do chấp trước và do không thông hiểu tường tận về tánh Không nên chủ trương rằng vạn pháp trong vũ trụ cuối cùng là không có gì cả, hoàn toàn trống rỗng.

14 Hữu kiến: là tri kiến cho tất cả là có thật; tà kiến: sự thấy biết do mê lầm.

15 Tập khí: những kinh nghiệm, thói quen do tích lũy mà thành, được xem là những hạt giống (chủng tử) thiện hoặc bất thiện.

16 Hiện cảnh của tự tâm: biểu hiện hay trạng thái nhất thời của tâm đối với sự vật, hiện tượng ngay trong hiện tại. Ý nói mọi pháp đều do tâm thức ở bên trong.

17 Bổn lai: xưa nay, trước giờ.

18 Nương nơi thánh phàm: ý nói còn phân biệt thánh, phàm (“phàm” tức phàm phu, ý nói chúng sanh, người chưa giác ngộ).

19 Mê bản tâm: chưa thấy được bản tâm.

20 Bản tâm xưa nay vốn không một vật: bản tánh của tâm (bản lai diện mục) vốn tịch tịnh, không chút vấn đề, không vọng niệm, mong cầu hay sợ hãi.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 55
  • Sau