• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đường mây trong cõi mộng
  3. Trang 31

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 30
  • 31
  • 32
  • More pages
  • 55
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 30
  • 31
  • 32
  • More pages
  • 55
  • Sau

Quy chế niệm Phật trong mười hai thời tại chùa Hồ Tâm

Phật dạy rằng sự sanh tử của chúng sanh cứ tương tục luân chuyển trong bao số kiếp mà không ngừng nghỉ, chỉ vì niệm niệm vọng tưởng phan duyên1, chưa hề dứt đoạn. Vì vọng tưởng không đoạn, nên sanh tử không cùng tận, rồi bị lôi kéo luân chuyển không dừng. Phật thuyết bao phương pháp chế ngự tâm, đều là muốn bánh xe luân hồi dừng lại. Pháp môn tuy nhiều, mà chúng sanh trần cấu2 nặng nề, tâm thức mê muội khó nhiếp nhập3, nên chỉ có pháp môn niệm Phật là thẳng tắt và cần yếu nhất. Thế nên bảo rằng nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền và tương lai, nhất định thấy Phật4. Tất cả vọng kiến của chúng sanh đều nương nơi sanh tử. Do đó, chỉ có chánh kiến thấy được Phật là pháp xuất khỏi sanh tử. Do có lòng nhớ đến, nên mới thấy được chư Phật.

1 Phan duyên: vịn leo. “Tâm phan duyên” nghĩa là tâm không đứng yên mà luôn vịn leo, bám vào hoặc chạy theo ngoại cảnh (sắc, âm thanh, mùi vị, v.v…), dẫn đến vọng tưởng, tham ái, dính chấp, từ đó tạo ra các nghiệp bằng thân, khẩu hay ý.

2 Trần cấu: bụi nhơ, cấu uế hay sự ô nhiễm.

3 Nhiếp nhập: tâm thức hòa nhập vào một đối tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, hay pháp) bằng một hay nhiều trong sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) thanh tịnh. Ví dụ, nhiếp nhập một bông hoa là cảm nhận hay quán chiếu hình ảnh và hương sắc của bông hoa bằng giác quan thanh tịnh.

4 Thấy Phật là giác ngộ hay thấy được chân như, tức là chân tánh của vạn pháp, đó là tánh Không, lý Duyên khởi...

Lúc vọng niệm ngày đêm không gián đoạn, phải dùng niệm Phật để đoạn trừ chúng. Đây là cách thức mà liên xã5 của ngài Huệ Viễn thường hành trong sáu thời khắc6 tại Lô Sơn. Đương thời, trong liên xã có một trăm hai mươi người, mà chỉ có mười tám vị được xưng là cao hiền, tức là những vị chân thật niệm Phật; những vị còn lại đa số chưa đắc được nhất tâm niệm Phật. Hiện nay, xem thấy người niệm Phật thường thuộc hàng mạt phẩm7. Sao không chân thật nhận biết!

5 Liên xã: hội những người đồng tu hay đạo tràng.

6 Thời khắc: là đơn vị tính thời gian của người xưa. Người Ấn Độ xưa chia một ngày đêm thành sáu thời khắc, ba thời ban ngày gọi là sơ nhật, trung nhật, hậu nhật; ba thời ban đêm gọi là sơ dạ, trung dạ, hậu dạ. Người Trung Hoa xưa chia ngày đêm thành mười hai thời khắc: Tý, Sửu, Dần, Mão,…

7 Mạt phẩm: chỉ phàm phu trong mười cõi thánh phàm, ý nói căn cơ lĩnh hội chánh pháp thấp.

Đời cận đại, người người thường lấy trâu núi làm hạnh niệm Phật, và lấy việc luyện ma làm danh; nghĩa là kiềm chế quá cứng chắc. Tuy ngày đêm niệm Phật không gián đoạn, nhưng chỉ trong ba mùa đông là thối thất8. Người người tu hành chẳng giống nhau. Hiếm ai có tâm tu hành dài lâu. Tuy ngày đêm có bốn thời, mà tối đến lại hôn mê. Tu hành thiếu sự liên tục! Thật phí cho những lời cảnh tỉnh.

8 “Thối” là lùi lại, thối lui; “thất”: lạc mất, sai lạc.

Nay Pháp sư Phật Thạch Huyền Tân, phát tâm trong mười hai thời thường thưa thỉnh9. Pháp này phải liên tục tu trì. Trong động tịnh, như lúc ăn uống, rất khó niệm đến nhất tâm. Nếu điều phục chừng mực, thì mới niệm thành thục được. Đối với quy chế xưa nay, Pháp sư muốn thỉnh vấn. Lão nhân vì thế mà thiết lập quy chế, giá sự không phức tạp, để nhân tâm tập trung, mà hành diệu hạnh vi mật. Những quy chế giáo điều này chỉ là phụ trợ. Phàm10 kiến lập pháp hội niệm Phật, phải tùy theo người và tùy theo nguyện, rộng hẹp không đồng11. Nếu có nhiều người thì lập ra nhiều pháp đường. Nếu có ít người thì chỉ cần lập một pháp đường. Song, không luận là người nhiều ít, phải phân thành sáu nhóm; ngày đêm mỗi nhóm hành hai thời, thay phiên dâng hương; lúc ra ngoài thì lễ bái tụng kinh, hành đạo sám hốì; những thời gian còn lại đều ngồi tĩnh tọa, rồi nương theo âm thanh mà mặc niệm, hoặc tập môn quán tưởng; người nào thích gì thì tùy theo đó mà hành. Nơi đây phải tĩnh lặng nhiều mà động ít; không khẩn trương không loạn động, và tiếng niệm Phật không gián đoạn, thì vọng tưởng không thể sanh khởi, như vừa kêu vừa gọi; không mê không tán loạn; lúc nhập vào chánh niệm thì động tịnh như nhau12; mình người không hai không khác; thức ngủ thường tỉnh giác. Được như thế, không cần rời khỏi tòa ngồi, bèn thấy được Phật A Di Đà13. Đây chính là diệu hạnh như ý bậc nhất. Lúc ăn uống cũng phải như pháp mà điều phục14. Lúc làm việc, trong ngoài đều nhất như, tức là nhân và ngã đều mất15, thị phi đều lặng. Đạo tràng vắng lặng tịch tĩnh, cũng chưa vi diệu bằng như thế.

9 Thưa thỉnh: vấn đạo.

10 Phàm: Về việc…

11 Tín tâm và ý nguyện của mỗi người có khác nhau.

12 Ý nói động hay tịnh đều không là chướng ngại.

13 Thấy được Phật A Di Đà: ý nói khi nhất tâm, thanh tịnh thì tâm ứng với tâm Phật. Thấy được Phật A Di Đà là quán tưởng toàn thể sắc thân Phật A Di Đà, Đức Phật tượng trưng cho vô lượng quang minh và vô lượng thọ, đó là cách dùng ý để trụ tâm một chỗ.

14 Điều phục: kiểm soát (thân, tâm…), ở đây ý nói chánh niệm ngay cả khi ăn.

15 Nhân và ngã đều mất: không còn phân biệt mình và người, không còn chấp ngã.

Lão nhân suy nghĩ sâu xa về pháp này, tự thẹn gót chân chưa vững, nên vẫn chưa toại ý, nhưng đặc biệt nói ra những lời này. Đa phần tâm niệm chỉ rong ruổi đó đây. Ngày nào thấy nghe được chúng, thì nơi nơi đều an lạc, rồi đem tông Tịnh Độ phổ biến khắp nơi. Đây là niềm hy vọng của lão nhân.