Tôi may mắn được nghe Đại tá Mai Trọng Phước, nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu quân đội nói chuyện tại nhà riêng của ông ở phố Phan Đình Phùng, Hà Nội, về đường ống dẫn xăng vượt “tam giác lửa”, leo qua dãy Trường Sơn...
Tôi may mắn được nghe Đại tá Mai Trọng Phước, nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu quân đội nói chuyện tại nhà riêng của ông ở phố Phan Đình Phùng, Hà Nội, về đường ống dẫn xăng vượt “tam giác lửa”, leo qua dãy Trường Sơn...
Ông bảo: “Tuyến đường ống mà có nhiều người nói là huyền thoại ấy bắt đầu từ những gùi xăng đẫm máu do chính kẻ thù gây ra”... Tháng 3-1968, đế quốc Mỹ mở chiến dịch "Sấm rền” với hàng nghìn phi vụ đánh phá nam Khu 4, kết hợp với chiến dịch "Hổ thép” trên đất Lào, ném bom dữ dội các tuyến đường vận chuyển và kho tàng, hòng cắt đứt "yết hầu” con đường chi viện của ta. Chúng gây ra các trọng điểm, tạo ra "tam giác lửa” liên hoàn Bến Thủy-Nam Đàn-Linh Cảm, làm cho giao thông vận tải của ta bị ách tắc ở Đường 12 và Đường 20, chặn hết lối vào cửa khẩu của Đoàn 559. Bộ đội vận tải đã bằng nhiều biện pháp đưa xăng dầu vượt qua sự đánh phá ác liệt của không quân Mỹ, vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu xăng dầu phục vụ vận chuyển của Đoàn 559. Thiếu xăng, kế hoạch vận tải cho mùa khô có nguy cơ không thực hiện được, đồng nghĩa với vũ khí, lương thực, hàng nhu yếu phẩm không đến được với bộ đội ở mặt trận phía Nam.

Đại tá Mai Trọng Phước kể chuyện về đường ống vượt Trường Sơn.
Trước tình hình ấy, cấp trên giao nhiệm vụ cho Binh trạm 12 (ở phía trong "tam giác lửa") đưa hết số xăng dầu còn lại vượt Trường Sơn, giao cho Đoàn 559. Tuy nhiên, cửa khẩu Binh trạm 12 ở Quảng Bình, đoạn ngã ba Khe Ve đến đèo La Trọng bị bom giội tàn bạo, đất đá và các loại mìn trộn lẫn nhau, nhầy nhụa khi trời mưa. Binh trạm liền tổ chức bơm xăng vào phuy 200 lít để khiêng qua bãi lầy. Nhưng xăng chẳng “đi” được là bao mà người thì tổn thất nặng nề do trượt chân rơi xuống vực, hoặc trúng mìn. Lại bọc xăng trong túi ni-lông, cho vào bao để cõng qua trọng điểm. Suốt ngày dưới làn bom đạn của quân thù, người bị rộp lưng, bỏng da, nhiễm độc chì... Một số hy sinh. Ở Binh trạm 14, bộ đội kết các phuy xăng thành bè thả trôi sông suối theo định hướng. Bè xăng trúng thủy lôi. Xăng và máu chiến sĩ loang mặt sông... Trước tình hình ấy và theo yêu cầu của chiến trường, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần chỉ thị cho cán bộ xăng dầu nghiên cứu sử dụng hai bộ đường ống dã chiến dài 200km do Liên Xô viện trợ năm 1967.
Sau ít ngày chuẩn bị lực lượng; cân nhắc kỹ từ tình hình thực tế, báo cáo và xin chỉ thị của bộ, tổng cục tổ chức làm đường ống chuyển xăng vượt “tam giác lửa” trước để phục vụ Đoàn 559 thực hiện kế hoạch vận chuyển. Sau đó, làm tiếp đường ống vượt Trường Sơn vào sâu chiến trường. Công trường 18 được thành lập, hành quân đến Nghệ An làm đường ống vượt “tam giác lửa".
Ngày 12-6-1968, hơn 400 người của Công trường 18 vào tới điểm thi công tuyến đường ống đầu tiên là đoạn sông Lam thuộc địa phận xã Khánh Sơn (Nam Đàn), cách trọng điểm Rú Trét 500m. Đúng 21 giờ, hiệu lệnh vượt sông. Thiếu tá Mai Trọng Phước chỉ huy lực lượng Công trường 18 cùng dân quân xã Nam Đông kéo ống phía bờ bên này. Phía bờ bên kia, lực lượng do Đại úy Trần Xanh chỉ huy thực hiện nối ống... Đến 5 giờ sáng 23-6-1968, 500m đường ống đầu tiên đã vượt sông Lam an toàn... Ngày 10-8-1968 tuyến đường ống 42km đã hoàn thành. Chai xăng đầu tiên của dòng xăng đi qua "tam giác lửa", từ kho N1 (Nam Thanh, Nam Đàn) bơm vào kho N2 (Nga Lộc, Hà Tĩnh), được chuyển ra Tổng cục Hậu cần để báo cáo.

Bộ đội đường ống trên tuyến lửa Trường Sơn. Ảnh tư liệu.
Từ đây dòng xăng tiếp tục vươn xa, chấm dứt việc xe chở xăng dầu của các binh trạm phải đi qua trọng điểm để lấy xăng với biết bao hiểm nguy dưới bom đạn của quân thù. Ông Phước kể lại trong bồi hồi nỗi nhớ: Sau khi vượt "tam giác lửa", Công trường 18 tổ chức bắt tay dẫn đường ống tiến vào Can Lộc (Hà Tĩnh) hướng tới Khe Ve (Quảng Bình). Lúc này không lực Mỹ lại tăng cường đánh phá các cửa khẩu từ Quảng Bình sang Lào, đặc biệt là các trọng điểm Cua chữ A, ngầm Ta Lê, Đèo Phu-la-nhích. Bất chấp bom đạn địch, toàn công trường dồn sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, thi công nhanh đoạn đường ống vượt đèo Mụ Giạ sang Na Tông (Khăm Muộn, Lào). Mùa xuân 1969, đoạn tuyến ống này hoàn thành và ngày 3-3 năm ấy, đường ống vượt Trường Sơn dài 350km đã nối thông Vinh-Cổng Trời-Na Tông tới kho Ka Vát. Chừng một tuần sau, lần đầu tiên ta vận hành thông suốt dòng xăng từ miền Bắc đến Ka Vát, đảm bảo xăng dầu cho hàng nghìn xe ô tô của Đoàn 559 kịp thời vào đợt vận chuyển đột kích mùa khô 1968-1969...
Ngừng kể một lúc, giọng Đại tá Mai Trọng Phước trầm trầm như nói với đồng đội xưa: “Để hoàn thành các tuyến ống mới mẻ này, chúng ta phải chịu nhiều hy sinh với vô vàn những đe dọa luôn tiềm ẩn, bất trắc. Ngoài những hiểm nguy rình rập từ các loại mìn do địch cài, rắc, khi đi kiểm tra sự cố (ống bị rò, hở gioăng, xăng tụt ra ngoài bốc lên mặt đất như làn sương mỏng, mắt thường khó nhìn thấy), nhiều chiến sĩ đã bị ngộ độc xăng. Có nữ chiến sĩ hít phải hơi xăng cứ ngồi cười sằng sặc. Hỏi gì cũng cười, thương đến không cầm nổi nước mắt. Trước khi các kỹ sư tìm ra phương pháp phát hiện điểm bị sự cố từ xa, bộ đội phải chạy theo hàng trăm ki-lô-mét trên tuyến ống để tìm chỗ hỏng, giữa đêm rừng mà không được soi đèn...”. Ông ngậm ngùi nhớ lại câu chuyện ông Hồ Sỹ Hậu (kỹ sư xây dựng đường ống, về sau là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Kinh tế, Bộ Quốc phòng) vẫn thường kể: Khi phát hiện bom đánh đứt tuyến, đồng chí Trạm trưởng trạm bơm ở Ka Tần đã lao ra nối ống. Trong lúc thao tác, bất ngờ xăng trong ống phun ra tưới khắp người, ngập đầy vũng bom dưới chân. Cùng lúc ấy, một loạt bom giội tiếp, nơi anh đứng trở thành biển lửa. Đồng đội nhìn thấy nhưng không sao cứu được.
Chuyện như không thể dừng lại. Tôi phải chủ động để ông già 90 tuổi đời, 65 tuổi đảng nghỉ ngơi sau hàng tiếng đồng hồ kể chuyện nhiệt thành. Tiễn tôi ra cửa, bỗng ông níu tôi lại rồi nhìn tôi như nhắc nhở điều gì. Nhìn đôi chim chích nhảy nhót trên cây quất vàng tươi quả mọng trước hiên nhà cạnh chỗ ông đứng, tôi kính chào ông mà thực lòng chưa muốn về...
Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG