CHIẾC xe con lầm bụi đột ngột dừng lại bên đường quốc lộ. Một người đứng tuổi mặc quần áo bà ba nâu nhanh nhẹn mở cửa xe, xuống trước. Ông nói với người sĩ quan mang quân hàm trung tá ngồi ở ghế trước:
— Đến nơi rồi, anh Vinh ạ!
Giọng nói rụt rè, nhẹ thoảng của ông rõ ràng không phù hợp với cử chỉ hoạt bát của ông. Người bạn đường trẻ hơn ông mươi lăm tuổi, dường như cũng nhận ra sự thay đổi bất chợt xảy đến ở người đồng đội cũ, vội lên tiếng đỡ lời ?
— Tôi đoán không sai. Nghĩa trang liệt sĩ dựng trên đồi cát này là đẹp nhất. Chỉ có điều bất ngờ là rừng phi lao đã phủ kín trảng cát dài trơ trụi ngày trước.
Vinh cố kìm nỗi xúc động riêng tư chợt trỗi dậy khi chiếc xe vừa dừng bánh, cố giữ giọng nói thật tự nhiên để khỏa lấp vẻ bối rối của Hạ, vẻ bối rối pha chút mặc cảm lộ rõ trong giọng nói của Hạ.
Trên đường đi công tác từ phía Nam ra, Vinh đã tìm đến thăm Hạ; ông thiếu tá về hưu đã được bảy năm. Thoạt đầu, anh ngỡ ngàng tưởng không nhận ra người bạn chiến đấu cũ. Hạ để râu, ăn bận hoàn toàn theo kiểu nông thôn. Cuộc sống của anh xem chừng cũng đã hòa nhập vào sinh hoạt của một làng chài ven biển miền trung. Mười chín năm xa cách, họ có nhiều chuyện để nói. Chuyện Vinh : ra viện cuối năm 1972, đi thẳng vào chiến trường Quảng Trị. Sau ngày giải phóng miền Nam, anh được bổ sung về tuyến biên phòng Tây — Nam. Cuộc chiến tranh với bọn Pôn Pốt; sau đó là bảy năm làm chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam ở Căm Pu Chia. Chuyện của Hạ đơn giản hơn nhiều; đồn trưởng biên phòng bờ biển suốt từ 72 đến 75; sau ngày thống nhất Tổ quốc, được điều lên cấp trên làm cán bộ tổ chức; về hưu năm 1979. Lâu ngày gặp lại nhau, họ nói khá nhiều chuyện, nhưng về câu chuyện đã để lại dấu ấn sâu đậm, nặng nề trong quang thời gian hai người ở cùng một đơn vị, chẳng ai nhắc đến. Cho đến lúc sắp sửa chia tay, tiếp tục đoạn đường đi Hà Nội, Vinh mới bình thản nói với Hạ:“Anh có biết mộ Liên nằm ở đâu không?” Hạ thay đổi sắc mặt, liếc nhanh quan sát nét mặt của Vinh thấy vẫn bình thường liền trả lời, giọng ngập ngừng: “Ở nghĩa trang liệt sĩ cạnh xóm Bến Cá, tôi tưởng anh biết rồi”. “Hồi ấy tôi ra nằm điều trị ở Viện 108 sức khỏe vừa hồi phục là đi vào Nam luôn”. “Bến Cá thì anh thạo đường quá còn gì ?”“Tôi biết, nó nằm ở phía Nam Vũng Hòn Lăng hai kilômét”. Tưởng chia tay nhau ở cổng nhà Hạ. Bất chợt, khi Vinh vừa đóng sập cửa xe. Hạ đổi ý : “Hay là để tôi đi cùng anh ra đấy, anh Vinh ạ”.“Khỏi, tôi biết đường”.“Tôi phải đi với anh mới được”. “Đường về xa lắm đấy, anh Hạ ạ”. “Tôi phải đi với anh. Lo gì đường về? Xe cộ chạy trên đường quốc lộ thiếu gì, vẫy xe nào chẳng được!”.
Bây giờ, hai người đang đi giữa rừng phi lao. Đường vào nghĩa trang thênh thang, tĩnh mịch. Vài chục ngôi mộ liệt sĩ, vừa dân công vừa chiến sĩ sắp hàng ngay ngắn, qui gọn trên một đỉnh đồi cát. Hạ và Vinh dừng lại trước dãy mộ các chiến sĩ biên phòng. Hạ nói:
— Đơn vị ta hồi ấy hy sinh sáu đồng chí. Anh em được quần tụ lại một chỗ.
Vinh rút thẻ hương mang theo, đốt từng nén, lần lượt cắm trước các ngôi mộ. Nửa chừng, anh ngửng lên hỏi Hạ:
— Khu vực yên nghỉ của đồng đội chúng ta gồm có sáu anh em; sao dãy này lại có những bảy ngôi mộ?
Hạ lẽo đẽo theo sau Vinh, lẳng lặng quan sát thái độ của Vinh mỗi khi anh ta cúi xuống chăm chú đọc từng dòng tên họ ghi trên bia mộ. Dường như Hạ luôn luôn chờ đợi câu hỏi thế nào Vinh cũng sẽ đặt ra: “Mộ Liên nằm ở dãy nào?”. Sự bình tĩnh của Vinh, không hỏi ngay điều ấy khi hai người mới đặt chân vào nghĩa trang, khiến cho Hạ băn khoăn bứt rứt không yên. Một nỗi dằn vặt mơ hồ xáo động trong lòng anh. Anh đã định để Vinh đi một mình đến thăm khu nghĩa trang liệt sĩ, nhưng sau đó đã thay đổi ý định. Anh những tưởng vượt qua được mặc cảm ân hận về chuyện cũ mười mấy năm về trước, giám mạnh dạn dẫn Vinh ra thăm mộ Liên là đã làm một cử chỉ sòng phẳng với bạn, với chính mình và với người con gái đã khuất. Nhưng, chính lúc cả hai người sắp đạt đến cái đích chính của cuộc viếng thăm, Hạ trở nên dè dặt hơn. Anh nói nhỏ:
— Cậu cứ đi tiếp đi. Ngôi mộ thứ bảy cùng dãy, chính là ngôi mộ của Liên.
Nghe Hạ đột nhiên chuyển từ gọi “anh” sang gọi “cậu”, Vinh nhận thấy ngay trong việc thay đổi cách xưng hô của Hạ có một chuyển biến tình cảm là lạ, gần gũi hơn, chân thành hơn. Anh chợt nắm bắt được sắc thái nội tâm của Hạ, người chỉ huy cũ của mình.
Hai người đến trước mộ Liên. Bia mộ chỉ ghi rõ: “Liệt sĩ Trần Thị Ngọc Liên — Tiểu đội trưởng thanh niên xung phong — Sinh ngày 15-12-1952 — Hy sinh ngày 20 tháng 9 năm 1972”.
Vinh đốt tiếp thẻ nhang cuối cùng, cắm lên ngôi mộ. Anh rút tiếp từ chiếc túi xách mang theo một cành mai vàng, có lẽ là cành mai cuối mùa ngắt từ một vùng đất nào đó ở phía Nam. Cắm hoa xong, Vinh đứng lặng hồi lâu trước ngôi mộ người con gái, chẳng nói lời nào. Dường như anh quên cả sự có mặt của Hạ ở bên cạnh. Sự im lặng kéo dài của Vinh, trong dáng đứng nghiêm cúi đầu ấy, khiến Hạ bất chợt liếc mắt quan sát nét mắt người bạn chiến đấu cũ, vẻ đau xót câm lặng, nặng nề hiện rõ trên gương mặt nhìn nghiêng của Vinh. Đã từ lâu, Hạ chờ đợi buổi gặp lại Vinh, nhưng quả tình, anh không bao giờ nghĩ đến cảnh ngộ này, khi cả hai người cùng đứng trước mộ Liên. Sự im lặng của Vinh bao hàm một lời trách móc hay một sự tha thứ? Dù là gì đi nữa, khi đã quyết định đi cùng Vinh đến đây, Hạ đã chấp nhận tất cả. Anh muốn lòng mình được thanh thản.Có thế thôi.
Hạ tưởng nắm bắt được tâm trạng của Vinh lúc này, lên tiếng khẽ khàng bên tai Vinh:
— Cậu hiểu cho mình. Mình có lỗi trong chuyện này.
Vinh nẳm ngang lấy bàn tay Hạ:
— Tôi biết... Nhưng, anh Hạ ạ, dù sao thì cũng một thời đã qua.
Hạ dường như trút được hòn đá đang đè lên ngực, đón nhận câu nói của Vinh với một sự hàm ơn. Anh nói thẳng điều suy nghĩ day dứt lâu nay của mình:
— Tội nghiệp, khi ra đi, cô ẩy vẫn chờ ngày cưới.
Từ khi rời nghĩa trang, trở lại đường quốc lộ, hai người không nói thêm với nhau một lời nào nữa. Nhưng chính trong sự im lặng ấy, chẳng ai thấy lòng mình thanh thản. Câu chuyện cũ mười mấy năm về trước, xảy ra trên mảnh đất này sống dậy trong lòng mỗi người. Dù cho sau đó, mỗi người đi một ngả. Vinh tiếp tục đoạn đường ra Hà Nội, Hạ trở lại quê nhà, cả một quãng đời sống chung của họ ở trạm biên phòng 601 bên bờ vũng Hòn Lăng với biết bao kỷ niệm vui, buồn, hiện trở về trong tâm trí cả hai người, bám vào giấc ngủ của họ tưởng khó dứt ra được.
★
Ngày ấy, đế quốc Mỹ gây cuộc chiến tranh phá hoại trở lại trên miền Bắc. Trạm biên phòng 60l được thành lập cấp tốc bên vũng biển Hòn Lăng. Nhiệm vụ đột xuất bí mật: Bảo vệ việc bốc dỡ hàng chi viện cho chiến trường miền Nam, từ một chiếc tàu nước bạn sẽ vượt qua vùng biển bị phong tỏa, đến neo đậu ở đây. Đại úy Hạ được cử làm trạm trưởng. Thiếu úy Vinh, một sĩ quan có nhiều thành tích chiến đấu chống biệt kích trên tuyến biên phòng Việt —Lào, được điều tới làm trạm phó.
Một hôm, Hạ bảo Vinh:
—Trung đội thanh niên xung phong được cấp trên điều đến bổ sung tham gia chiến dịch vận tải đã tập kết ở ven núi đêm qua. Cậu đi kiểm tra hộ việc bố trí phân tán lực lượng này trên các bến bãi, chuẩn bị sẵn sàng làm nhiệm vụ.
Vinh đáp gọn :
— Xong ngay! Chúng ta đã chuẩn bị đủ hầm trú ẩn không những cho một trung đội thanh niên xung phong mà dù quân số của họ có lên đến vài ba trung đội vẫn dư dả.
Hạ mỉm cười vỗ lên bàn tay Vinh:
— Đã đành là thế.
— Vậy có điều gì làm cho anh lo lắng ra mặt thế kia ?
— Chuyện không lớn, nhưng cũng phải lo liệu cho chu đáo.
Trong trung đội mới đến lần này có một tiểu đội nữ. Điều kiện ăn ở của chị em phải khác đám nam giới chứ! Thôi đi đi, xem xem cần sửa sang thêm khu vực sinh hoạt của chị em những gì, cậu trao đổi lại với tôi. Vả lại, cũng là dịp để cậu làm quen với giới nữ....
Hạ tưởng nhẹ nhàng nói vài lời vui vẻ để động viên Vinh. Không ngờ, Vinh bỗng nhiên cau mặt trả lời, giọng trách móc:
— Rồi đây, công việc ngập tận cổ, bom đạn bời bời, anh nhận đám nữ này về, chỉ tổ rách việc!
Hạ nghiêm giọng:
— Cậu coi thường phụ nữ đến thế kia ư? Tiểu đội này được giới thiệu là những chiến sĩ bám trụ vững vàng trên các trọng điểm Trường Sơn đấy.
— Anh tưởng tôi còn lạ lắm hay sao? Lính biên phòng miền Tây với cánh thanh niên xung phong gặp nhau như cơm bữa...
— Vậy thì cậu mang định kiến quá nặng về họ đấy!
Vinh phẩy tay, giọng rành rọt:
— Chẳng định kiến, thành kiến gì đâu. Chỉ xin báo trước cho trạm trưởng hay: không khéo, sau chiến dịch đột xuất này, cả đơn vị ta chỉ còn đại úy Hạ là còn trụ vững với những cô gái Trường Sơn yêu quý của anh.
Họ coi thường cái chết nhưng cũng biết đùa dai với lính trẻ đấy.
Hạ cười:
— Trạm trưởng có đứng vững hay không, tôi không dám nói trước, nhưng trạm phó thì đảm bảo chứ?
— Đó là cái chắc !
Nói xong, Vinh rời khỏi căn hầm kèo, đi lo công việc ngay. Nhưng chỉ bốn mươi lăm phút sau, Vinh đã quay về gặp Hạ. Nhìn vẻ mặt anh khó đăm đăm. Hạ đã biết ngay có chuyện “Chẳng lành” vừa xảy ra. Hạ hỏi ngay:
— Sao ? Vấp hử ?
— Phức tạp hơn anh nghĩ nhiều — Vinh thở dài đáp.
— Kỷ luật khói lửa lỏng lẻo chăng!
— Không !
— Chị em phơi phóng lung tung, làm lộ bí mật chăng ?
— Chẳng phải thế. Ngược lại, họ đòi nơi trú quân phải bảo đảm an toàn, bí mật, nói chung là giữ được kín đáo việc phơi phóng và bếp núc.
Hạ cắt ngang lời Vinh:
— Thấy chưa ? Họ đã quen kỷ luật chiến trường, biết đòi hỏi như vậy là tốt. Việc gì cậu phải khó chịu?
Vinh chợt nhận ra thái độ cau có vô lý của mình trước mặt Hạ, liền trả lời khỏa lấp:
— Em vừa thoát khỏi tổ kiến về đây ông anh ạ! Rặt một đám con gái nghịch như quỷ sứ, ăn nói bỗ bã.
— Đã đành là thế! Nhưng cậu có gặp cô tiểu đội trưởng không?
— Có chứ!
— Cô này thuộc vào loại tháo vát và chững chạc, tôi đã tiếp xúc một lần, tôi biết.
— Chững chạc, tháo vát, có lẽ đúng. Nhưng mà hắc. Cứ như là ra điều kiện bắt buộc ban chỉ huy trạm chúng ta phải chấp hành không bằng.
— Cụ thể là những vấn đề gì nào? Kiến cắn thì có gì mà sợ!
Bấy giờ Vinh mới báo cáo tỉ mỉ với Hạ cuộc tiếp xúc đầu tiên của anh với tiểu đội nữ. Anh chỉ nói những điểm chính, còn những điều làm cho anh khó chịu, anh bỏ qua hết. Tuy vậy, vẻ bực bội cứ hiện rõ trên nét mặt Vinh; phần bực các cô gái trẻ, phần bực cô tiểu đội trưởng. Nhưng vì Vinh không kể hết những chuyện vặt, Hạ ngồi nghe, cứ băn khoăn một điều: Không hiểu cậu Vinh bực vì chuyện gì.
Khi Vinh bước vào khu vực trú quân của tiểu đội nữ thanh niên xung phong, ấn tượng đầu tiên đến với anh là sự ngăn nắp, trật tự. Mười hai chiếc võng treo dưới bóng cây khéo sắp xếp, rất thuận tiện cho sự đi lại. Ba lô, túi xách gọn gàng. Một chiếc bếp Hoàng Cầm kín đáo, bé nhỏ không biết cất lên từ bao giờ mà nhanh thế. Chẳng thấy bóng người. Cảm giác dễ chịu đầu tiên của Vinh chẳng kéo dài được bao lâu. Anh vừa tới gần một lùm cây rậm thì có tiếng gọi lảnh lót giữ chân anh lại:
— Anh “úy” gì ơi! Chúng em ở đây cơ mà!
Chưa kịp thấy người, lại đã nghe một tràng cười vang lên, đủ cung bậc.
Vinh vốn không phải là một chàng trai dễ bị bắt nạt, quay phắt lại, đàng hoàng xông vào lùm cây. Anh cố quên cảm giác khó chịu khi nghe tiếng gọi xách mé vừa rồi.
— Chào các cô. Tôi ở trạm đến thăm tiểu đội ta đây!
Lập tức, có nhiều tiếng đáp, nhiều câu bắt chuyện:
— Bạn trẻ với nhau, chẳng phải xưng danh!
— Nhà cửa tuềnh toàng, anh đừng chê. Mời anh ngồi!
— Chúng em về đây làm dâu đơn vị, anh đến thăm tận nơi chị em có phần nhờ.
Hàng chục cô gái vui vẻ bảo nhau nhường chỗ cho khách ngồi trên lớp lá khô, dày. Vinh như có sức hút; bao nhiêu đôi mắt trẻ trung dồn cả vào anh, chẳng có chút gì là e dè, che đậy. “Rơi vào tổ kiến rồi đây!” Vinh nghĩ thầm trong bụng. Dù sao, anh cũng phải tỏ ra cho mọi người biết rằng họ khó nắn gân một sĩ quan biên phòng trẻ tuổi:
— Thì tôi cũng vừa ở tuyến Trường Sơn về đây trước các cô dăm ngày. Cùng cảnh cả thôi mà.
Mấy cô tiếp lời ngay cùng một lúc:
— Hữu tình ta lại gặp ta.
— Cùng cảnh với nhau, em là lính nuôi quân, xin xung phong hầu hạ anh cơm nước đều đều.
— Chúng em về đây, lạ nước lạ cái, chỉ mong anh sớm “lót ổ” cho chị em yên tâm công tác, (mọi người cùng cười ồ lên).
— Anh sĩ quan trẻ ơi! Chúng em cần đài, cần báo và nhiều thứ lắm. Ban chỉ huy trạm chiếu cố tới sinh hoạt tinh thần của chúng em với.
Lần đầu tiên, được nghe một câu nói nghiêm chỉnh, Vinh vui ra mặt, hăng hái trình bày một loạt những việc đã chuẩn bị để đón các đơn vị thanh niên xung phong. Im lặng được một lúc; tưởng có thể rút êm. Không ngờ, từ sau một khóm lá dày, có tiếng ai đó thốt lên, giọng van nài:
— Đồng chí chỉ huy ơi, chúng nó về đây vẫn nhớ lính “xế” đường Trường Sơn nên ăn nói linh tinh như kẻ mất hồn, đồng chí đừng để bụng... chỉ xin cấp đủ phụ tùng thay thế!
Tiếng cười phá lên, ầm ĩ. Vinh cảm thấy khó chịu thực sự. Chẳng lẽ trong buổi tiếp xúc đầu tiên lại lên giọng chỉnh đốn chị em. “Các mợ này quá đáng!”. Anh nghĩ thầm, ngồi im lặng. Chợt tiếng ồn ào lặng phắt.
Vinh nhận ngay ra sự thay đổi trên nét mặt các cô gái. Anh quay đầu nhìn ra cửa rừng. Tiểu đội trưởng Liên trở về. Cô gái trẻ tuổi có gương mặt mẹ nhõm nhưng sớm in dấu suy tư, đi thẳng tới chỗ Vinh. Cô gỡ tấm vải dù choàng vai, lom khom chui vào dưới vòm cây, giơ tay chào Vinh theo kiểu bộ đội:
— Chào anh Vinh, Em là Liên, tiểu đội trưởng.
Vinh không ngờ cô gái này chưa gặp mình lần nào mà đã biết tên mình. Anh bắt tay cô gái, vẻ ngỡ ngãng hiện rõ trong khóe mắt. Sau mấy phút tiếp xúc với tiểu đội nữ, anh có dự cảm rằng, chỉ huy họ phải là một người dáng vẻ ngang tàng, có thể là một cô gái quá lứa, khó tính, ngang ngạnh. Còn cô này... Anh liếc nhanh nhìn Liên một lần nữa. Anh không phân biệt được cái cảm giác tươi mát, nhẹ nhõm vừa ập đến trong lòng mình là do bầu không khí ban mai thoáng đãng của vùng ven biển, do bóng cây êm ả trùm lên chân rừng hay toát ra từ đôi mắt nhìn sâu thẳm, trong trẻo của cô tiểu đội trưởng thanh niên xung phong, tuổi chưa quá hai mươi.
Liên nhận ra vẻ lúng túng trong cách ứng xử của người sĩ quan biên phòng trẻ tuổi, lên tiếng hỏi chung các bạn:
— Sao chẳng có nước nôi mời khách gì thế này, các bạn?
Vinh vội xua tay:
— Xin cảm ơn. Tôi cần bàn ngay với cô về điểm trú quân ngoài bãi... Ta đi ra ngoài ấy xem!
Anh chủ động chào các cô gái, rời bước đầu tiên. Những cô gái ban nãy tiếp anh bạo miệng là thế, bây giờ trở lên khuôn phép một bề, chỉ rì rầm nhỏ to trao đổi với nhau. Tuy vậy, dù dã đi được vài, ba bước chân, Vinh vẫn nghe lọt một câu nghịch ngợm đang đuổi theo anh:
— Liên ơi, chúng mình mới nhúng tái thôi, giao cho cậu luộc nhừ đấy.
Có tiếng cười rúc rích. Giọng của Liên:
— Đùa tùy lúc, tùy người nhé!
Hai người đi ra rừng dương ven biển. Liên cố đi kịp Vinh nhưng anh luôn luôn có ý giữ một khoảng cách vừa phải. Anh chỉ cho Liên xem mấy chiếc hầm chữ A thân gỗ để nguyên, ruộng chốt chắc chân, đáy có lát ván:
— Trước đây, định đặt trạm cấp cứu chỗ này đón thương binh. Sau có lệnh đặt nơi khác; mấy chiếc hầm này dự định đặt máy thông tin liên lạc. Nay, xin nhường cho chị em thanh niên xung phong. Được chưa?
— Xin cảm ơn các anh. Loại hầm này, dù bom tạ có đánh đáo trúng nóc cũng chẳng bung ra đâu. Trần cát dày thế này.
Liên vừa lượng giá địa hình và công sự, vừa nhìn thẳng vào mắt Vinh. Cái nhìn cứ chuội đi. Chẳng phải vì Vinh có ý né tránh; anh nhận ra rằng Liên có sự hiểu biết về quân sự của một người từng trải cảnh bom đạn, và lòng tự tin của một người nắm chắc công việc của mình.
Cô bảo Vinh:
— Phải tính đến lúc bom đạn phạt trụi rừng dương, trơ khấc những ngọn đồi cát ra, vẫn phải bảo đảm sinh hoạt dưới hầm. Lúc bấy giờ, vấn đề nước, giải quyết thế nào? Việc tắm giặt của chị em, anh đã tính đến chưa?
Chỉ sau ba mươi phút trao đổi công việc trên thực địa, Vinh đâm sợ cô tiểu đội trưởng có vẻ ngoài hiền lành này. “Làm việc với đại úy Hạ cũng không khó khăn bằng. Người đâu mà cứ nêu lên khoản nào là đòi bằng được! Nào phên chắn cát; nào xô, chậu; nào bông, băng cá nhân. Giả thử hàng ngàn dân công, bộ đội, công nhân vận tải trên vùng Hòn Lăng này đều có nữ cả thì đến đại úy Hạ cũng phải bó tay”. Vinh có cảm giác cô gái dồn mình hết điểm này, đến điểm khác, mặc dù giọng nói của cô luôn luôn nhỏ nhẹ. Đôi lúc, một nụ cười cởi mở thoáng nở trên môi cô gái, nửa khuyến khích, nửa kêu gọi anh thông cảm với hoàn cảnh của chị em. Là người được giao trách nhiệm bố trí địa điểm trú quân cho tiểu đội nữ, đứng trước bao nỗi lo toan cụ thể trước mắt, lòng Vinh rối bời. Anh không kịp nắm bắt cảm tình của cô gái đối với anh, sự quan sát kín đáo của cô mỗi khi anh mải mê trình bày, lý giải một vấn đề nào đó có khó khăn. Đến lúc chia tay tạm biệt, Vinh bực mình thực sự. Cô gái giữ anh lại một phút, nói thêm, giọng ngập ngừng, e lệ:
— Các anh chú ý chiếu cố giải quyết cho chị em một điều khổ tâm thường xuyên là...
Vinh xẵng giọng, cắt ngang:
— Xin lỗi, chuyện tình cảm riêng tư của chị em, ai dám...
Liên nắm ngay cánh tay Vinh, van vỉ...
“Không, đây là em nói chuyện vải màn cho chị em.
Vinh vừa ý tứ gỡ nhẹ bàn tay Liên, vừa trố mắt hỏi lại:
— Chính mắt tôi ban nãy nhìn thấy chỗ chị em tạm trú, võng màn đầy đủ cả.
Liên đỏ nhừ mặt, hạ giọng thấp hơn, cỏ vẻ trách móc :
— Anh chẳng hiểu gì cả... Em nói vải màn hàng tháng cần thiết cho giới nữ. Ba tháng nay, ở đơn vị cũ người ta còn nợ chị em... Vất vả lắm, anh à.
Bây giờ, Vinh mới ngớ ra. Mặt anh ửng đỏ không kém Liên:
— Tôi hiểu, tôi hiểu... Nhưng tại sao việc này cô lại hỏi tôi ?
— Vì anh là người phụ trách, là người quản lý. Còn em thì phải có trách nhiệm với tiểu đội. Cấp dưới phải bám lấy thắt lưng cấp trên để bảo đảm sinh hoạt cho đơn vị, phải không anh?
Cô ta có lý. Lúc đã chia tay nhau. Vinh nghĩ vậy. Quả thật là cuộc gặp gỡ tiểu đội nữ chỉ làm cho anh thêm bấn, thêm bực. Đội viên thì ăn nói bỗ bã, tiểu đội trưởng thì thắt buộc đủ điều, cả đến mảnh vải màn cũng không quên. Thật là quá quắt. “Nhưng cô ta có lý”. Vinh tự giải đáp cho mình. Ngoài cảm giác bị cả tiểu đội nữ vây ép, chế diễu, thúc bách, đòi hỏi, Vinh chẳng ghi nhận được điều gì tốt đẹp ở cuộc gặp mặt, trao đổi.
Hạ nghe Vinh báo cáo xong, gật gù bảo Vinh :
— Đám nữ này chuẩn bị tiếp cận cuộc chiến đấu sắp tới khá chu đáo. Có thể tin được... Khi cậu quay về đây, nhìn vẻ mặt khó đăm đăm của cậu, tôi đã tưởng xảy ra tranh cãi gay gắt...
— Thà tranh cãi gay gắt còn dễ chịu hơn — Vinh đáp lại.
— Để chờ xem. Lạt mềm buộc chặt. Cô tiểu đội trưởng này có tư chất của một người quản lý đơn vị.
Hai người trao đổi công việc cụ thể một hồi lâu. Xế chiều, đến lượt Hạ tìm gặp Vinh:
— Này, mấy tấm phên che chân cát ở trận địa pháo bờ biển cũ, cậu cho dỡ đi đâu hết rồi?
— Tập trung ở hõm cát trước căn hầm số 3.
— Để làm gì ?
— Tôi cấp cho tiểu đội nữ mấy tấm để che chắn hầm hào...
Vinh ngập ngừng giải thích tiếp :
— Để cho nó kín đáo...
— Còn trận địa cũ ?
— Trong kế hoạch bảo vệ chiến dịch vận chuyển, các đơn vị pháo lùi sâu vào núi. Sau này, có trở lại bờ vũng Hòn Lăng, chắc gì họ bố trí chỗ cũ. Phải không anh Hạ ?
— Thì cũng phòng xa thế thôi.
Ngừng một lát, Hạ nói tiếp :
— Quản lý vừa báo cáo, các thứ vải màn vải mùng gì đó, may ra chỉ có ở kho hậu cần cấp tỉnh. Việc này, trong chuyến đi họp tới, tôi sẽ lo hộ anh, Vinh giãy nảy:
— Sao lại hộ tôi? Trách nhiệm chung cả.
Hạ vỗ vai Vinh:
— Xem chừng cậu còn ấm ức với chị em, nhưng cũng đã tỏ ra hết lòng với họ. Được rồi, tôi sẽ có lời nói lại với cô Liên và chị em.
— Thôi, tôi xin anh!... Mà sao anh cứ vơ vào thế?
Con đường nhựa bò ngoằn ngoèo sát chân núi, lượn theo những đồi cát chạy dài ven biển. Rừng dương phủ kín đồi cát gần tới mép nước. Vũng Hòn Lăng về đêm vắng bóng thuyền bè, chỉ nghe tiếng sóng vỗ nhè nhẹ vào bờ. Hòn đảo nhỏ in hình sâu nét ở hướng đông đứng lặng yên trên biển.
Phía sau một gò cát trơ trụi, nơi rừng dương chưa lan đến, nơi cây duối mọc lơ thơ có một căn hầm chữ A mới dựng lên trong đêm, cửa hầm khuất sau một chòm duối.
Trạm trưởng trạm Công an vũ trang biên phòng số 601 quay thử máy điện thoại dã chiến:
— A lô, tổng đài 100 phải không? Trả lời đi... 104 đây.. Tốt lắm. 101 nghe rõ. Tôi xin 101 !
Im lặng một lát. Đầu dây bên kia có tiếng nói vang trong tổ hợp. Trạm trưởng Hạ báo cáo:
— Tôi nghe rõ. Báo cáo thủ trưởng Giáp. Mọi việc đã chuẩn bị xong cả rồi. Tổ công tác thủ tủc xuất nhập cảnh đang chờ tàu hoa tiêu VS7. Máy thông tin vô tuyến ọc ạch lắm, thủ trưởng ạ, anh em bò ra sửa mất hơn một giờ mới xong.
— Phương tiện khó khăn lắm, các đồng chí thông cảm. Bây giờ tôi nhắc các đồng chí hai việc. Thứ nhất, giữ vững chế độ tuần tra 24 trên 24 tiếng dọc đoạn bờ biển thuộc phạm vi trạm phụ trách.
— Rõ.
- Thứ hai, rà soát kỹ địa bàn, nắm chắc đội ngũ nhân công vận chuyển, chú ý bảo vệ địa điểm tập kết chân hàng. À bảo đồng chí Vinh lựa chọn luồng đi cho thật chính xác. Hoa tiêu không quen luồng lạch bằng các đồng chí đâu. Chỉ vướng một quả bom từ trường là tai họa ụp xuống ngay.
— Báo cáo thủ trưởng, Rõ! Đồng chí Vinh đã chỉnh lý sơ đồ vị trí rơi của các quả bom từ trường cùng thủy lôi từ tính và đã thực tập khơi luồng trên mặt biển quanh đảo Hòn Lăng.
Chúng tôi yên tâm về điều này.
— Được, nhưng tôi vẫn nhắc các đồng chí không được chủ quan.
- Báo cáo, rõ!
Hạ quay về phía góc hầm truyền đạt lại cho tổ trưởng Vinh những chỉ thị mới của đồng chí chỉ huy trưởng Công an vũ trang tỉnh. Chợt có tiếng máy tàu ì ầm lẫn trong tiếng sóng biển. Tổ công tác vọt nhanh ra khỏi hầm, chạy ra mép nước. Chiếc tàu lai VS7 đen trùi trũi nhẹ nhàng quay mũi chạy ra khơi. Khi tiếng máy mơ hồ tắt hẳn, chiếc tàu nhỏ bé lẫn vào bóng đảo. Đã nhìn thấy chiếc tàu vận tải đậu tại chỗ, hình dáng to lớn, cách chân đảo không quá hai hải lý. Chiếc tàu lai nhằm thẳng hướng ấy, mở hết tốc lực lao tới. Bỗng có tiếng máy bay phản lực xé không khí rít lên chói tai. Các chiến sĩ ngồi trên boong tàu lai chưa kịp định hướng máy bay thì bầu trời chợt sáng bừng lên, một quầng sáng ma quái, lạnh lẽo treo ngay trên đầu họ. Có thể nhìn rõ tất cả như ban ngày: đồng đội bên cạnh, mũi tàu nhấp nhô, chiếc tàu lớn trước mặt, hòn đảo ở sau lưng. Người hoa tiêu là một công nhân già, dáng chắc như tượng đá, đứng sau tay lái. Ông không quay mặt sang Vinh đứng ngay bên cạnh, mà cứ nhìn thẳng về phía trước, chỉ cất tiếng hỏi Vinh, giọng trầm trầm:
— Chắc chắn chúng ta bị lộ mục tiêu chứ?
— Có thể, nhưng chưa lộ ngay đâu.
Tiếng máy tàu vẫn gầm vang, đều đều. Lại một loạt pháo sáng nữa, lần này xa hơn ở phía trước mặt, bên kia chiếc tàu vận tải.
Người hoa tiêu lại nói, giọng thản nhiên:
— Kể ra, cho tàu quay lại chân đảo còn kịp chán, tàu mới đi được nửa đường từ đảo ra tàu lớn.
— Bác cứ cho tàu dấn tới đi, áp nhanh vào tàu lớn là thoát.
— Anh nói lạ, xông vào lửa mà báo tránh chết cháy ư? Nó đánh tàu lớn thì tàu VS7 này cũng ngoẻo luôn — Bác cứ tin chúng cháu đi. Nếu nó cố tình ném bom chiếc tàu vận tải này thì nó đã xóa sổ mục tiêu trong vòng 24 giờ vừa qua.
— Ờ lạ nhỉ! Cả ngày hôm qua, máy bay phản lực Mỹ chỉ quần lượn, nhào lộn và rà sát mục tiêu mà chẳng bắn phá gì cả.
— Chúng ta có thể lợi dụng cái điều lạ lùng ấy. Bác đồng ý chứ ?
— Tôi hiểu rồi.
Bác hoa tiêu giật mạnh dây chuông ba lần.
Chẳng mấy chốc, tiếng máy tàu gầm lên dữ dội. Chiếc tàu bé nhỏ rung lên, lao nhanh về phía trước. Bỗng một loạt rốc-két nổ đinh tai. Ngay trước mũi tàu không quá năm mươi mét, những quả đạn tên lửa nổ trên mặt nước, hàng trùm tia nước tung lên, lẫn với khói, trông rõ mồn một dưới ánh pháo sáng trắng lóa.
Chiếc tàu VS7, dưới sự điều khiển của người hoa tiêu dày dạn kinh nghiệm, vẫn giữ nguyên tốc độ, chạy vòng vèo theo hình chữ chi trên mặt biển. Máy bay phản lực quần lượn trên tầm đèn dù, người hoa tiêu không thể định hướng địch bổ nhào từ phía nào, nhưng dường như có cái cảm giác nhanh nhạy được rèn luyện trong thời chiến, bác công nhân hoa tiêu già điều khiển con tàu thoát khỏi ba loạt rốc-két liền, đạn nổ chệch khi bên trái, khi bên phải. Cứ thế con tàu nhỏ xáp dần tới chiếc tàu lớn. Đến khi loạt đạn thứ tư nổ sau đuôi tàu, rồi loạt thứ năm nổ xa hơn, Vinh bất giác bấm nhẹ vào tay bác hoa tiêu:
— Dường như chúng ta lọt vào vùng có bán kính an toàn rồi bác ơi. Đấy, chúng nó không bắn đuổi chúng ta nữa. Chỉ còn chưa đầy năm trăm mét nữa là cặp mạn tàu vận tải, bác cho lao thẳng vào đi!
Chẳng nói, chẳng rằng, bác hoa tiêu lái tàu thẳng hướng. Chiếc VS7 áp dần vào tàu vận tải. Khi máy đã ngừng nổ, máy bay Mỹ vẫn quần lượn trên không, vẫn gầm rít như xé rách màn đêm, nhưng chẳng một lần nào nhào xuống dưới tầm pháo sáng nữa. Lúc bấy giờ, bác hoa tiêu mới vỗ vai trạm phó biên phòng Vinh mà nói:
— Chú mày nói đúng. Chung quanh tàu vận tải có một khu vực an toàn.
Vinh nắm lấy bàn tay chai sạn của bác, lắc lắc mãi:
— Cảm ơn bác. Qua cơn nguy hiểm rồi, cháu cứ ngỡ như nằm mơ.
— Cảm ơn gì, chú mày. Giả thử ta đi giữa ban ngày thì chúng nó xơi tái rồi. Phải cảm ơn chú mày đã nghĩ trước đến cái điều lạ lùng mà chúng ta vừa trải qua.
— Nói thế chứ bác thừa hiểu tình thế.
— Gì thì gì, giới hoa tiêu chúng tôi vẫn cứ gờm sau vụ chiếc tàu AKopian bị máy bay Mỹ đánh trúng ở cảng Cửa Ông, gần đây lại chiếc KONRAD bị đánh ở cảng Hải Phòng. Chẳng qua là đêm nay tôi gặp may.
Tổ công tác lên tàu vận tải của nước bạn trong không khí chào đón nồng nhiệt của các thủy thủ. Thuyền trưởng ra tận cầu thang cạnh ca bin, xiết chặt tay hoa tiêu và trạm phó Vinh, thủ tục nhập cảnh tiến hành nhanh chóng và nghiêm túc.
Thuyền trưởng tàu bạn nói:
— Lần đầu tiên, chúng tôi đi một chuyến bị máy bay Mỹ kèm sát kể từ khi vào hải phận Việt Nam. Vào sâu vùng bờ biển khu Bốn, chúng tôi được tận mắt nhìn thấy cảnh tàn phá trong chiến tranh phá hoại ác liệt. Đêm nay, được chứng kiến cảnh chiếc tàu hoa tiêu của các bạn lao qua lửa đạn máy bay Mỹ để đến đưa tàu chúng tôi vào bến, chúng tôi càng cảm phục tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Nói xong, thuyền trưởng chỉ vào hai khẩu đại liên trùm bạt phía mũi tàu:
— Chúng tôi sẵn sàng chia lửa với các bạn Việt Nam. Các bạn xem kìa.
Trạm phó Vinh đứng dậy đáp lời:
— Các bạn không kể nguy hiểm, đem tàu, chở hàng vào sâu phía Nam như thế nào để chi viện cho cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, đã giúp chúng tôi rút ngắn rất nhiều cung đường vận chuyển. Chúng tôi xin hai lần cám ơn nhân dân nước bạn. Bây giờ, chúng tôi xin phép được dẫn tàu các bạn vào bến dỡ hàng.
Thuyền trưởng không giấu vẻ ngạc nhiên, hỏi lại:
— Còn các thủ tục kiểm tra liên hợp, các bạn làm sau chăng ?
— Hoàn cảnh thời chiến, chúng tôi làm thủ tục nhập cảnh gọn, không tổ chức đoàn kiểm tra liên hiệp hoàn chỉnh, không có thành phần hải quan, kiểm dịch, cảng vụ như thường lệ. Phần các thủ tục biên phòng thế là xong. Sau khi kiểm diện các thuyền viên, niêm phong điện đài, chúng tôi sẽ cử một tổ giám hộ tàu. Bây giờ, bác hoa tiêu đây sẽ dẫn tàu các bạn vào vũng Hòn Lăng.
— Ngay trong đêm nay ? Chờ sáng ngày mai có được không ?
— Ngay bây giờ. Phải tranh thủ thời gian.
— Máy bay Mỹ đang bay nhặng xị đầy trời thế kia.
— Nó bám là việc của nó, ta đi là việc của ta. Vào vũng Hòn Lăng, hỏa lực phòng không bảo vệ kín hơn, bốc dỡ hàng tiện hơn. Còn nói về sự nguy hiểm thì... ông thuyền trưởng thấy vừa rồi đấy. Máy bay Mỹ cố đánh chìm chiếc tàu bé tí xíu nhưng chưa dám đụng đến chiếc tàu lớn này, cũng là một điều đáng cho ta suy nghĩ, và tận dụng cơ may.
Thuyền trưởng gật gù, im lặng ngẫm nghĩ, mãi mới nói:
— Quả thật, tôi không lo lắm việc phía trên trời. Dù sao, đế quốc Mỹ cũng phải kiêng dè luật lệ quốc tế. Điều tôi lo là sự an toàn trên luồng lạch vào vũng... chắc hẳn đầy rẫy bom, mìn.
Một chiếc sơ đồ được trải lên bàn làm việc. Trạm phó Vinh chỉ rõ vị trí những quả thủy lôi đã được đánh dấu và luồng lạch dự kiến cho tàu vào vũng Hòn Lăng. Hoa tiêu cùng trình bày bản đồ tác nghiệp. Cuối cùng thuyền trưởng vui vẻ nói:
— Cảm ơn các bạn đã làm cho tôi yên tâm. Tôi biết rằng dẫn tàu đi theo luồng lạch nào là toàn quyền của hoa tiêu, nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh quả thật có nhiều điều không thể hiện trước.
Mười lăm phút sau, chiếc tàu vận tải nhổ neo, tiến vào vũng Hòn Lăng dưới tay lái của bác hoa tiêu già.
Trạm phó Vinh cầm tờ vận đơn liệt kê số lượng và chủng loại hàng chi viện, trong đó hai phần ba là mặt hàng gạo, đi tới buồng thông tin, trao cho đồng chí cơ yếu một mảnh giấy, bảo:
— Chuyển ngay báo cáo về ban chỉ huy tỉnh và trạm.
Anh rời buồng thông tin, kịp chia tay bác hoa tiêu sắp sửa xuống tàu dẫn để trở về bến cũ. Cùng lúc đó, từ trong bóng tối trên vùng biển, xuất hiện một con thuyền lá tre đang nhoi mũi về phía chiếc tàu hoa tiêu đậu cạnh tàu lớn. Bác hoa tiêu nheo mắt nhìn chiếc thuyền con đang xáp tới gần, chợt thốt lên:
— Con cháu Liên ra đây, hẳn có chuyện gì gấp lắm.
— Mắt bác nhìn tinh tường thật —Vinh tủm tỉm đáp.
Cả hai người vội vã theo thang dây, xuống chiếc tàu con. Chiếc thuyền nhỏ vừa gác mái chèo, ép vào chiếc tàu dẫn đường thì cô gái bám ngay thành sắt, nhảy lên mặt boong. Bác hoa tiêu nắm lấy tay cháu gái:
— Có tin gì về nhà bác, phải không cháu ?
Cô gái nói ngay :
— Trận bom hôm qua đánh vào xóm ta, nhưng gia đình bác chẳng hề gì. Anh Hạ cử cháu ra ngau gặp bác để báo cho bác biết, vị trí ẩn náu của tàu VS7 vừa bị đánh bom. Bác đừng cho tàu về đấy nữa.
— Trời, chỗ nấp kín đáo đến thế, bao nhiêu lần tàu của bác neo đậu có bao giờ bị phát hiện đâu? Vậy mà đêm nay, tàu không có mặt ở bến lại bị đánh. Thế là thế nào ?
Cô gái lắc lắc cánh tay người bác họ :
— Bác lạ thật! Thế là may cho bác. Cả người lẫn phương tiện thoát nạn, đáng mừng mới phải chứ ?
Bác hoa tiêu vẫn theo đuổi ý nghĩa riêng của mình:
— Họa là có thằng chỉ điểm ở mặt đất Cô gái phá lên cười:
— Bác thì nhìn đâu cũng thấy địch. Cứ giả dụ, máy bay Mỹ đánh xăm để thăm dò, chẳng may trúng bến đậu của bác thì sao nào ?
Cô gái vẫn chuyện trò với bác mình nhưng từ lúc rời thuyền lên tàu hoa tiêu, đôi mắt cô không rời khỏi Vinh. Thỉnh thoảng cô lại quay mặt nhìn anh, sự quan tâm chẳng cần che giấu. Vinh hơi ngượng vì sự chú ý quá mức và cố tình của cô gái trước đám đông, liền nói khỏa lấp:
— Pháo sáng đầy trời mà cô Liên dám một mình lao ra biển, kể cũng bạo gan đấy. Xứng danh là thanh niên xung phong!
Liên được dịp quay sang nói chuyện với Vinh:
— Từ lúc tàu đi vào vũng Hòn Lăng, ở trên bờ ai cũng lo cho các anh. Suốt đêm, máy bay sục mạnh, đánh thăm dò nhiều nơi. Ở ngoài biển, hẳn các anh thấy rõ. Em cũng nóng ruột lắm. Vì vậy, lúc anh Hạ cần người bơi ra báo tin cho bác em, em liền xin đi ngay.
— Đài thông tin trực suốt, anh Hạ rất có thể báo thẳng cho chúng tôi.
Liên ghé miệng sát tai Vinh, hơi thở nóng hồi phả vào má anh. Giọng Liên hạ thấp hẳn, thoang thoảng bên tai Vinh:
— Anh Hạ bảo máy thông tin của trạm tậm tịt lắm, chờ sửa xong sợ không báo tin kịp cho bác em, vậy nên mới cần có người bơi thuyền ra. Về tài bơi thuyền thì cả trạm này chẳng ai thạo bằng em.
Đúng lúc ấy, từ trên boong tàu lớn, có tiếng gọi trạm phó Vinh. Trước khi trở lên, Vinh còn kịp hỏi bác hoa tiêu :
— Bây giờ bác phải lái tàu về bến dự bị chứ?
— Hẳn là thế. Nhưng tôi hơi ngờ ngợ về vụ máy bay Mỹ đánh xăm trúng bến cũ của tôi. Có khi tôi sẽ cập vào một bến khác. Đoạn bờ biển phía ngoài lắm vách đá lồi lõm, lo gì.
Tàu vẫn nổ máy. Bác hoa tiêu dặn cháu gái:
— Cháu đưa thuyền ra cũng có điều hay. Chốc nữa trở vào bờ thế nào cũng có anh công an vũ trang cùng theo thuyền cháu trở về trạm làm việc.
Bất chợt bác hỏi Liên:
— Lâu nay mày có tin tức gì về thằng Hường không?
— Chao ôi, bác là người của biển cả mà chẳng biết tin gì về anh ấy, huống hồ cháu chỉ biết ngày đêm chúi mũi vào các tuyến đường bộ.
Ngập ngừng một lát, Liên nói tiếp:
— Mà giữa hai đứa đã có gì hẹn ước, gắn bó sâu sắc đâu, bác!
Ông già hoa tiêu nhìn cháu gái có vẻ ái ngại. Trước lúc chia tay Liên, bước vào buồng lái, ông còn cố an ủi cháu :
— Chuyện thời chiến, ai biết được điều gì sẽ xảy đến với mình, thôi cứ chờ xem. Cháu cố gắng yên tâm làm tròn nhiệm vụ.
Chiếc tàu VS7 tách khỏi mạn tàu lớn, vòng một vòng rộng trên mặt nước rồi lao vào bóng đêm. Chiếc thuyền con của Liên áp sát mạn tàu vận tải. Liên leo thang dây lên boong tàu. Vinh đã có mặt bên mạn tàu, đưa tay kéo cô lên khỏi nấc thang cuối cùng. Vinh nói ngay, giọng mừng rỡ:
— May có chiếc thuyền cô Liên ra đây, chúng tôi đỡ lúng túng.
— Có việc gì vậy anh ?
Mắt cô gái ánh lên dưới ánh đèn sáng rực trên tàu, khuôn mặt trái soan tròn đầy sức trẻ của cô sáng ngời. Dường như cử chỉ sốt sắng của Vinh đã khơi dậy một niềm vui bất ngờ trong lòng cô. Cô hỏi vậy cho có cớ mà hỏi, cô biết chắc mình sắp có cơ hội giúp Vinh một việc gì cần lầm. Cô nhìn thẳng vào mặt người sĩ quan biên phòng trẻ tuổi, đôi mắt ấy vốn hiền lành, điềm đạm, giờ đây dường như hứa hẹn với cô nhiều điều.
Vinh nói nhỏ:
— Tôi có việc cần trở về trạm ngay bây giờ.
Vinh giấu không nói cho cô gái biết rằng anh cần vào bờ ngay vì chiếc máy thông tin của tổ công tác trên tàu lại bị ọc ạch, anh em kỳ cạch mãi mà chưa sửa xong. Anh cần vào bờ để báo cáo trực tiếp với cấp trên. Thời gian thì cấp bách mà mọi kế hoạch vận chuyển đang phải ngừng lại vì chuyện thông tin trắc trở.
— Em chở anh vào bờ ngay bây giờ?
Vinh vừa vịn tay vào lan can tàu chực nhảy xuống thì có tiếng máy bay phản lực ào ào rú rít trên không, Một loạt bom nổ rền dưới chân đảo Hòn Lăng. Cùng lúc, những tia lửa từ hòn đảo tung thành bó lên trời, hàng loạt đám sáng bay vút lên không, trông như chùm pháo hoa. Vinh buột miệng rói:, — Chết, tàu VS7 bị lộ chăng? Không biết nó có kịp ẩn vào chân đảo hay không.
Đạn súng phòng không 12 ly 8 từ đảo nhỏ vẫn đan lưới lửa lên trời. Máy bay địch không dám sà thấp xuống, nhưng chúng đã bắt đầu phóng bom lên đảo để chế áp hỏa lực phòng không của bộ đội ta. Tuyệt nhiên, chẳng có chiếc máy bay nào lao xuống chiếc tàu vận tải, một mục tiêu lộ rõ mồn một dưới ánh pháo sáng. Có lệnh thuyền trưởng tàu nước bạn vang lên trên loa phóng thanh Một tốp thuyền viên từ hầm tàu nhô lên, chạy nhào tới mấy khẩu đại liên phủ bạt. Vinh vội rời chỗ đứng, để Liên đứng ngơ ngác một mình. Anh chạy theo đám thuyền viên kịp thời giữ tay họ, khi những người đầu tiên đã dỡ được vải bạt che súng và đứng vào vị trí thao tác xạ kích Anh dùng tiếng nước họ, la to lên trong tiếng bom đạn ầm ầm, ngoài khơi:
— Các bạn không cần thiết phải nổ súng lúc này!
Chẳng ai chịu nghe lời anh Người này mở nắp hòm đạn, nâng lên những băng dạn vàng chóe; người kia chuẩn bị hướng ngắm.
Thuyền phó một thấy Vinh chạy về phía mũi tàu cũng chạy theo anh. Vinh nhắc lại lời mình vừa nói — Thuyền phó tàu bạn phân bua:
— Chúng tôi tới đây là để giúp các bạn chống Mỹ cứu nước, đây là cơ hội bắn trả đế quốc Mỹ, tại sao bạn không để cho chúng tôi hành động vì chính nghĩa?
Vinh đáp:
— Tàu các bạn chở hàng viện trợ đến với chúng tôi là một biểu hiện cao cả của tinh thần chi viện của nhân dân nước các bạn đối với nhân dân Việt Nam trong công cuộc chống Mỹ, cứu nước. Mấy ngày qua cũng như suốt cuộc hành trình các bạn vượt biển xa đến đây, các bạn cũng đã thấy, máy bay Mỹ chưa bắn phá tàu của các bạn, mặc dù chúng bám sát chiếc tàu ngày đêm liên tục. Công tác phòng không ở vùng này đã có các đơn vị đảm nhiệm. Nếu bây giờ các bạn nổ súng thì lập tức máy bay Mỹ sẽ đánh trả. Tôi đề nghị các bạn tận dụng tình thế nhùng nhằng của địch, không thu hút bom đạn vào chiếc tàu này. Điều ấy có lợi cho các bạn, đồng thời cũng có lợi cho chúng tôi.
Thuyền phó một ngần ngừ suy nghĩ một lát rồi quay nhanh về buồng thuyền trưởng. Chỉ một khoảnh khắc sau, ông ta trở lại và ra lệnh cho các thuyền viên thu súng, đậy bạt lại như cũ.
Vinh cũng lùi về chỗ Liên đang đứng chờ.
Lúc này pháo sáng giăng đầy trời. Có thể nhìn những đỉnh núi trên bờ rõ nét. Nhìn thấy cả những đoạn đường xe hơi ngoằn ngoèo đổ xuống dốc. Dải rừng dương ăn ra tận mép nước trông gần hẳn lại. Vinh chưa kịp giục Liên xuống thuyền thì có hai chiếc máy bay rà thấp dưới tầm pháo sáng, từ bụng chúng tuôn ra một hàng dài những vật đen trũi. Trong nháy mắt những cánh đuôi bom xòe ra. Liên thốt lên:
— Bom từ trường !
Mấy chục quả bom từ trường lao xuống giăng một hàng dài ngăn cách chiếc tàu với đất liền. Lại một tốp máy bay khác sà xuống. Bom từ trường và thủy lôi từ tính liên tiếp được thả xuống biển hình thành một hàng rào chắn vòng tròn quanh con tàu ở cự ly non một cây số. Thủy thủ tàu vận tải hình như lần đầu tiên mới chứng kiến một cuộc oanh kích kỳ lạ của không lực Hoa Kỳ, kéo nhau lên boong xem từng loạt bom xòe cánh rơi xuống chầm chậm trên mặt biển cách tàu một quãng vừa phải, trông giống như từng đàn vịt giời nối đuôi nhau đáp xuống mặt nước, sau đó, lặn mất tăm.
Vinh vội vã đi về phía mũi tàu, gặp người chiến sĩ giám hộ đang đứng nguyên tại vị trí được phân công. Anh ta đang hí hoáy đánh dấu trên tấm sơ đồ trải rộng trước mặt. Thấy Vinh đến, người chiến sĩ đứng nghiêm báo cáo:
— Tất cả có 48 quả bom từ trường rơi xuống vùng biển cạn; còn ở mạn ngoài; đếm được 8 quả thủy lôi từ tính.
Nhìn tấm sơ đồ có đánh dấu chi chít điểm rơi của từng quả bom, Vinh im lặng không nói gì. Anh đi tìm thuyền trưởng giữa boong tàu, Liên giữ anh lại:
— Ta xuống thuyền đi thôi, anh Vinh.
— Không kịp nữa rồi, Liên ạ. Thuyền gỗ của cô dù nhỏ bé nhưng không vượt qua cửa ải bom từ trường đâu.
Liên đáp cứng cỏi:
— Nếu anh cần vào bờ gấp, vì nhiệm vụ, em sẵn sàng chở anh đi.
Lần đầu tiên, Vinh cười trước mặt Liên. Anh cố làm giảm nhẹ cảm giác căng thẳng hiện rõ trên gương mặt Liên:
— Nhỡ trúng bom, tan thuyền, tôi không lo lắm cho cái mạng của mình mà lo cho cuộc sống của chính cô, cô gái thanh niên xung phong ạ. Rồi biết lấy cái mà đền?
Quả nhiên, câu nói lững lờ ấy khiến cô gái có khuôn mặt duyên dáng phì cười. Cô trả lời không đắn đo:
— Em không bắt đền anh đâu. Ờ mà sống cùng sống, chết cùng chết. Chẳng may cả hai hy sinh, còn ai mà bắt đền ?
Vinh nhìn thẳng vào mặt Liên, giọng nói đằm hẳn xuống:
— Có cái chết dũng cảm cũng có cái chết ngốc nghếch chỉ vì ta dại dột đùa với nó. Tạm thời, ở lại trên tàu rồi ta tìm cách khác vào bờ, tìm ra một cách thông minh hơn. Đồng ý chứ?
Liên không hề tỏ ra buồn phiền, vì phải ở lại tàu. Trái lại, đối với cô, đây thật là một dịp may tình cờ cô được ở gần chàng trai bộ đội mà cô đã cảm mến ngay từ ngày đầu cô đến trạm cảng đã chiến đón nhận nhiệm vụ đột xuất.
Vinh đã đi khuất vào buồng thuyền trưởng, Liên vẫn đứng một mình ở cạnh vách ca-bin. Một cảm giác là lạ choán hết tâm trí cô. Ấy là cảm giác ngỡ ngàng khi cô đứng trên một con tàu lớn, rất an toàn trong lúc đất trời vang dậy tiếng bom đạn, không gian đầy ắp tiếng máy bay gầm rít. Pháo sáng soi tỏ cả vùng biển lẫn rừng dương trên bờ. Lửa chớp nhoáng nhoáng sau những đợt bom. Tia lửa đạn dày bay vút lên không ở những vị trí có đặt súng phòng không của ta. Tất cả đảo lộn, gào thét, quay cuồng xung quanh chiếc tàu, xung quanh cô. Nhưng ở đây, mọi việc đều yên tĩnh. Chẳng có quả bom nào, chẳng có mảnh đạn nào dính đến chiếc tàu. Trong cuộc đời thanh niên xung phong khá dày dạn của mình, lần đầu tiên, Liên được thấy sự nguy hiểm chết chóc từ trên trời chụp xuống lạ chừa ra một khoảng trống an toàn lạ lùng như thế này. Cô tưởng như mình đang lạc vào một thế giới khác. Thế giới của riêng cô với người ấy.
Ngày ông bác họ làm hoa tiêu gặp cô, trước khi cô về trạm biên phòng, ông đã dí nhẹ ngón tay vào trán cô mà đe rằng :
— Cánh con gái thanh niên xung phong các cháu là hay đùa tếu lắm. Nay các cháu sắp nhận nhiệm vụ ở trạm cảng; bác phải nói trước cho biết là cánh lính biên phòng không thích suồng sã như đám con trai dọc đường vận tải chiến lược đâu. Chúng mày liệu hồn. Riêng cháu là tiểu đội trưởng càng phải cẩn thận hơn. Tay sĩ quan trạm phó nghiêm lắm nhé. Hắn quản chiến sĩ chặt không chê vào đâu được. Chị em mày lơ mơ có khi vấp phải hắn, đừng kêu.
Liên nói với bác, nửa đùa, nửa thật:
- Vậy thì bác là người quen thân của trạm, xin bác giới thiệu trước cháu gái của bác với anh trạm phó ấy đi.
Bác hoa tiêu mắng yêu cháu gái:
— Mày đừng hòng đi bằng đôi chân của bác. Hãy tự tìm hiểu, tự điều chỉnh và tự khẳng định mình trong công việc và trong ứng xử.
Bác còn nheo mắt trêu Liên:
— Chuyện đổ bể của đám chúng mày, tao không lạ. Nhưng, đến địa điểm công tác mới này, tao cấm đấy. Nhiệm vụ nặng nề và khẩn trương, phải làm ăn cho ra trò, đừng đàn đúm lắm rồi mang tiếng cháu ạ.
Con người mà bác đưa ra để đe nẹt Liên, có ý dằn mặt cháu gái, không ngờ lại là người chiếm được cảm tình của cô tiểu đội trưởng thanh niên xung phong ngay hôm đầu tiên đơn vị đến trạm cảng để nhận nhiệm vụ mới.
Anh trạm phó Vinh chấp hành chỉ thị của trạm trưởng đã bố trí chu đáo nơi ăn chốn ở cho các cô thanh niên xung phong. Anh giành cho các cô những căn hầm chữ A vững chãi, rất thuận tiện cho việc tắm giặt; ưu tiên cho chị em được nằm ván gỗ, theo như anh nói: “Phải bảo vệ phụ nữ, vì tuy là một nửa nhân loại, nhưng các cô sáng tạo ra cả nhân loại”. Mấy cô lớp mười trong tiểu đội cứ tấm tắc mãi về câu nói vui của anh sĩ quan trẻ, không hơn tuổi họ bao nhiêu. Khi anh gặp riêng cô tiểu đội trưởng để bàn về công tác quản lý và sinh hoạt của chị em, Liên mới thấy rõ lời bác họ mình là đúng. Anh này chặt chẽ nhưng chu đáo; vẻ mặt cởi mở nhưng tính nghiêm. Tuy có điều này, cô cho rằng bác cô chưa thấy hết: Vinh là một con người có tình cảm chân thật, rất quan tâm và chăm lo cho những người dưới quyền. Thế là chẳng bao lâu, cô tiểu đội trưởng thanh niên xung phong yêu thầm anh trạm phó biên phòng. Nhớ lời bác dặn, cô không dám mảy may bộc lộ tình cảm của mình trước mọi người. Tuy vậy, không có cách gì để nén xuống hoặc che đậy nỗi niềm thầm kín riêng tư. Những lần gặp riêng Vinh, ánh nhìn, khóe mắt của cô bao giờ cũng như có tia lửa ấm, giọng nói của cô vốn dịu dàng cũng trở nên mượt mà hơn. Đáp lại những biểu lộ tình cảm kín đáo của cô; Vinh không lẩn tránh, nhưng bao giờ cũng giữ một khoảng cách. Đôi lúc, Liên đã chớm nản. Cô thường tự hỏi: “Hay là Vinh đã biết chuyện giữa mình với Hường trước đâ?” Nào có gì đâu, câu chuyện đã lùi vào quá khứ ấy. Liên và Hường là người cùng làng. Anh tổ trưởng vận tải đường biển ấy trước chiến tranh là đội trưởng một đội đánh cá lại là cán bộ cơ sở dân quân tự vệ. Hường đến với Liên với tính tình vui vẻ pha chút ngang tàng ít nhiều hấp dẫn. Từ ngày mới bén yêu nhau, Hường đã sắm cho Liên đủ thứ quần áo đắt tiền, đã nhiều lần dẫn Liên lên thị trấn huyện làm quen với cuộc sống nơi vui vẻ, tấp nập. Dần dần, Liên cảm thấy nhịp sống ở nông thôn là tẻ nhạt, cô bắt đầu chú ý đến các mốt áo quần, các kiểu tóc. Ở vào thời chiến, bom đạn tàu phá bao nhiêu xóm làng, con gái con trai chỉ quen với tấm vải dù ngụy trang với màu quần áo giản dị, tự nhiên Liên nổi bật hẳn lên, nhưng cô không hề có cảm giác là mình sống lạc lõng giữa bạn bè cùng lứa tuổi. Tuy cái vỏ bên ngoài có nhiều đổi thay nhưng trong lòng Liên vẫn nguyên vẹn sự tin cậy đối với bạn bè, sự tin cậy ở cuộc đời với những tình cảm trong sáng. Sau mỗi chuyến đi xa về, Hường lại có một món quà tặng Liên. Tuy chưa hẹn hò gì với nhau nhưng đã mấy lần cô để cho Hường ôm hôn. Liên cũng đã từng băn khoăn với cảm giác rằng hình như Hường ngộ nhận về vẻ ngoài dễ dãi của Liên. Anh tưởng cô là một người nhẹ dạ, chịu chiều theo ý anh đi chơi đó đây, đã thật sự là người của anh.
Thực ra, Liên đang ở trong quá trình tìm hiểu. Không khỏi có đôi lúc Liên cảm thấy khó chịu trước những cử chỉ quá sỗ sàng của Hường. Đến một lần, Hường đi quá xa, Liên đã tỏ rõ thái độ phản ứng tuy nhẹ nhàng nhưng kiên quyết. Đó là một buổi chiều hai đứa đi từ bến thuyền về nhà qua rừng dương ven biển. Cảnh vật vắng vẻ. Hai đứa dừng lại nói nốt câu chuyện bỏ dở. Liên tựa lưng vào một cây dương, đang cúi đầu thầm thì, bất chợt Hường ôm choàng lấy cô, hôn như mưa khắp má khắp môi cô. Trong hơi thở dồn dập đến ngột ngạt, trong vòng tay của Hường, Liên bỗng giật mình khi thấy hàng khuy áo sơ mi của mình bị bật tung. Bàn tay Hường giật ngược chiếc xu- chiêng của cô và chụp cứng lấy một bên ngực để trần của cô. Liên kịp chộp lấy bàn tay thô ráp của Hường, im lặng và nhẹ nhàng gỡ ra. Hường sa đà, càng riết mạnh hơn. Nhưng Liên đã kịp xoay mình khiến Hường bị tuột tay. Rồi, chẳng nói một lời, Liên đỏ bừng mặt, nhìn chằm chằm vào mặt Hường, đôi mắt anh ta lúc ấy trông đờ dại hẳn đi. Mặc cho Hường đứng như trời trồng ở đó, Liên lặng lẽ sửa lại yếm áo, rời gót ra khỏi rừng dương. Anh chàng Hường dường như chưa hết ngạc nhiên về sự phản ứng im lặng mà kiên quyết cũng như sức mạnh không ngờ của Liên, chờ cho Liên đi xa một quãng mới lủi thủi theo sau. Từ đó, hai người vẫn gặp nhau bình thường, không ai nhắc một tiếng nào đến chuyện xảy ra trong rừng dương. Thực ra, Liên đã cảm thấy con người ấy có điều gì chưa phù hợp với Liên. Cô không thích sự chiếm đoạt sỗ sàng. Có lẽ vì vậy mà sau này, mấy lần Hường nài nỉ một lời hẹn ước dứt khoát, Liên vẫn làm thinh. Câu chuyện đang dở dang thì Hường bị tàu biệt kích bắt trong một chuyến đi biển cùng nhiều bà con ngư dân khác. Sau đó, Liên tình nguyện đi thanh niên xung phong phục vụ các tuyến vận tải trong tỉnh. Trong cuộc sống lăn lộn vất vả trên các trọng điểm giao thông, cái chết có thể xảy ra bất kỳ khoảnh khắc nào, Liên càng gắn bó với tập thể, với chị em. Cô đã nhận ra con người ích kỷ, nông cạn, đua đòi ngày trước ở bản thân cô, và mối tình phù phiếm đã qua đối với Hường. Liên muốn quên hẳn những ngày phất phơ hồi cô còn ở làng. Cô luôn luôn mơ ước một cái gì tốt đẹp sẽ đến với cô trong cuộc sống thanh niên xung phong. Cái mới là sự xả thân không tính toán, là sự hy sinh thầm lặng, là tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong gian khổ và hiểm nguy. Liên những tưởng khi con người đã lăn vào bom đạn, phải dồn hết sức mình để vượt qua những giờ phút căng thẳng, khi lớp con gái như cô chẳng phải lo toan gì ngoài cái đói ngủ, thiếu ăn thì mọi điều riêng tư đều dẹp biến. Thực tế đã mách bảo cô rằng mình nhầm.
Chính trong cuộc sống xô bồ tưởng như căng cứng ấy, rồi khao khát tình cảm riêng tư của giới tính càng diết. Mối quan hệ giao tiếp mở rộng theo chiều dài thời gian và không gian đã để lại trong lòng mỗi người ít nhiều dấu ấn đậm nét. Cuộc sống chuyển động, môi trường công tác chuyển động, con người quen dần với những cuộc làm quen bất chợt. Từ đó nảy sinh những mối tình chớp nhoáng, trong đó người đi đến đích không nhiều, người gặp vấp váp ngang trái không hiếm. “Chuyện đổ bể của đám chúng mày, tao không lạ”, nhớ lại lời nói của ông bác họ, Liên thấy bác mang nặng thành kiến phũ phàng đối với chị em đi thanh niên xung phong, nhưng nghĩ cho cùng, cô cũng phải công nhận điều bác nhận xét là có thật. Riêng cô là tiểu đội trưởng một đơn vị nữ cũng đã vài ba lần phải tham gia giải quyết những vụ phức tạp về quan hệ nam nữ của chị em, có lần phải giúp đỡ bạn bè khi có “chuyện đổ bể” xảy ra. Nhiều khi cô cũng tự cười thầm vì sự việc xảy ra giữa Hường và cô trước đây, sự việc mà cô có thái độ kiên quyết phản đối, nếu đem so với những chuyện sau này cô được nghe hoặc chứng kiến ở đơn vị công tác thật ra chỉ bằng cái móng tay. Dù sao, cô cũng mưng thầm cho mình nhờ có sự cảnh tỉnh quá khe khắt từ trước, cô đã tránh được nhiều quan hệ phiền toái. Nhưng từ ngày gặp Vinh, cô cảm thấy mình bị cuốn hút vào một con lốc tình cảm thầm kín và mãnh liệt. Sự tỉnh tháo thường có ở người con gái mới lớn lên đã từng gặp một lần hoảng sợ dường như biến tan đâu mất. Cô mơ ước, khao khát sự gần gũi Vinh, những khoảnh khắc được trò chuyện với anh, không gì nữa cũng được nhìn anh chốc lát.
Thật là chuyện tình cờ mà cùng một lúc, hai người bị giam chân trên một con tàu xa lạ của nước ngoài.
giữa cảnh bom đạn ầm ầm vây quanh. Được ở gần Vinh là niềm vui không hẹn, niềm vui không cần giấu giếm, khiến cô quên hẳn hoàn cảnh nguy hiểm mình đang rơi vào, quên cả những nguy hiểm đang chờ đón cô trên đường trở vào bờ. Chợt thấy Vinh từ buồng thuyền trưởng đi ra, đang vội vã, Liên buột miệng reo lên:
— Anh Vinh! Em vẫn chờ anh ở đây.
Vinh tất bật đi về phía mũi tàu, chỉ kịp quay mặt lại với Liên, giơ cao bàn tay vẫy vẫy. Một cái vẫy tay, một nụ cười kèm theo, Liên chỉ cần có thế cũng đủ ấm áp trong lòng rồi. “Anh ấy làm việc xong với thuyền trưởng tàu bạn, chắc đang đến gặp tổ công tác giám hộ trên tàu”. Chỉ một chốc, Vinh xuất hiện trên boong tàu, đi nhanh về phía Liên. Cô nhướn đôi mắt lá răm, đón Vinh bằng cái nhìn vui vẻ có ý dò hỏi, Dường như đoán được nỗi sốt ruột của Liên, Vinh nói ngay:
— Thuyền trưởng sẵn sàng cho mượn xuồng cứu sinh, nhưng khốn nỗi bom từ trường không chê cả thuyền lẫn xuồng.
Liên bạo dạn đáp:
— Người ta bảo bộ đội dũng cảm lắm, sao anh không dám xông pha một chuyến?
Sắc mặt Vinh chợt rắn lại khiến Liên chột dạ: “Chắc anh ấy khó chịu khi nghe kiểu nói của cánh thanh niên xung phong…Ừ, hai tiếng “xông pha” ngộ thật”. Cô vội chữa lại ngay:
— Là em bảo, chúng ta phải mạo hiểm một chuyến...
— À ra thế... Tôi đã nhiều lần thấy thuyền ván không thoát khỏi bom từ trường, thú thật không dám mạo hiểm.
Ngẫm nghĩ một lát, Vinh chép miệng :
— Giá như chiếc thuyền của cô là thuyền nan thì tôi giám mạo hiểm ngay lập tức.
Liên reo khẽ:
— Thuyền nan? Nếu cần thuyền nan thì em biết một nơi có thuyền nan.
— Ở đâu ?
— Ở chân đảo Hòn Lăng chứ ở đâu! Từ tàu tới chân đảo chưa tới năm trăm mét, có phải không ?
— Không đến năm trăm mét. Nhưng thuyền nào mới được chứ?
— Chắc chăn có. Thế mà em không sớm nhớ ra. Đó là thuyền của ông bác em làm nghề câu mực. Vụ cá xuân đầu năm nay hợp tác xã quê em huy động nhiều người câu thuyền tham gia chiến dịch đánh bắt ngoài khơi. Bác em đi chuyến ấy, để thuyền nan lại, ghếch lên chân đảo Hòn Lăng. Chuyến ấy, bác em bị tàu biệt kích vây bắt ngoài khơi cùng nhiều bạn nghề khác, đến nay vẫn chưa có tin tức gì. Còn chỗ giấu thuyền thì em biết rõ vì một vài bần trước đây em đã theo bác em từ bến quê ra tận Hòn Lăng.
— Cô nói là thuyền của ông bác để lại từ mùa xuân năm nay. Chắc gì bây giờ vẫn còn?
— Anh nói lạ! Sao lại không còn?
— Để giữa trời giữa đất thế kia, qua bao nhiêu ngày tháng...
— Trời, vào thời chiến, có ai tham lam đi lấy chiếc thuyền nan. Vả lại, con người bây giờ tốt hơn trước.
Dưới ánh đèn tỏa sáng từ tầng cao rọi xuống, Vinh bất giác nhìn Liên chăm chú. Dường như anh vừa phát hiện ở cô một con người khác lạ. Đôi mắt anh trở nên gần gũi, dịu dàng. Liên cầm tay anh, kéo anh sang bên kia mạn tàu, chỉ vào một góc đảo:
— Đấy, đúng chỗ ấy. Anh có bơi nổi năm trăm mét không ?
— Thế còn cô ?
— Vượt qua một mạch là cái chắc...
Giọng Liên rở nên hoạt bát, bạo dạn:
— Nếu anh bơi kém, em còn có thể dìu anh đấy!
Vinh mỉm cười:
— Không cần thiết. Thế này nhé, cách tàu ta một trăm năm mươi mét về hướng đông có một dải đá ngầm, nước ngập đến cổ. Tiếp đó là một lưỡi cát ngầm sâu tới ngực từ chân đảo ăn ra vùng biển này. Giờ này, thủy triều đang xuống, chúng ta có thể vào chân đảo. Chỉ cần bơi một trăm năm mươi mét. Được không ? Sau đó, lội bộ ba trăm mét nữa là chuyện không đáng gì.
Liên vui vì niềm vui của Vinh. Cô lặng lẽ gật đầu rồi không chờ Vinh bảo gì hơn, cô xắn ống quần quá đầu gối. Đôi bắp chân tròn và trắng của Liên bất ngờ đập vào mắt Vinh, khiến anh sững sờ giây lát. Nhưng nhớ tới việc đi tìm con thuyền, anh thoắt chạy vào buồng nghỉ lấy ra 2 tấm ni lông. Theo một sự tính toán nhanh nhạy, anh trao cho Liên một tấm ni lông. Tấm còn lại anh dùng để gói gọn bộ quân phục anh vừa cởi ra, sau khi đã để lại khẩu súng, để lại cả chiếc thắt lưng nhựa có khóa cài bằng sắt. Liên chẳng có áo quần gói buộc nên túm tấm ni lông làm phao. Vinh mặc quần áo lót, ôm bọc ni lông xuống thang dây trước. Liên tụt xuống sau. Họ hành động ăn ý nhau, chẳng cần một lời nhắc nhở hay hỏi nhau thêm. Bóng hai người ôm phao xa dần con tàu. Chẳng mấy chốc Liên bơi trước, chạm chân vào nền đá. Họ lội mò mẫm bên nhau. Bỗng Liên kêu lên:
— Chết em rồi, vỏ hà bám vào rạn đá cứa bàn chân, xót quá.
Cô lội chậm hẳn lại; nhìn đầu tóc cô lắc lư trên mặt nước, Vinh đoán chắc cô đi khập khiễng do hà cắt da bàn chân. Anh nắm lấy tay Liên dìu cô đi. Nhưng chỉ một chốc, Liên không kìm nổi tiếng xuýt xoa. Vinh tìm cách nói vui cho cô quên cái xót đang làm cho cô khổ sở.
— Con gái thanh niên xung phong nổi tiếng chân cứng đá mềm, đến mảnh bom cũng mềm cơ mà. Nào dũng cảm xông pha, tiến lên!
Đến lượt Vinh cũng thấy nhói một cái dưới bàn chân. Vết cắt sắc và ngọt như không. Anh cố nén cảm giác tê buốt, vẫn bước đều đều, nhưng vẫn không giấu nổi Liên. Chợt thấy bàn tay anh nắm chặt hơn cô hỏi ngay:
— Anh cũng bị à ?
— Không hề gì - Vinh đáp thản nhiên.
— Bọn em suốt ngày đêm ở hiện trường đều mang giày dép quen đi rồi. Lần này, em bị hà cắn là lần đầu, xót buốt tận óc.
Một luồng thông cảm run rẩy truyền qua hơi bàn tay. Anh sĩ quan trẻ mới rời ghế trường quân chính chưa bao lâu, lần đầu tiên nắm lấy tay người con gái lâu đến thế này, cảm thấy ngượng, đôi lần muốn rút tay ra, nhưng bàn tay kia chẳng chịu rời. Lội được hơn một trăm mét vẫn chưa qua khỏi dải đá rạn. Bước chân của Liên chuệnh choạng hẳn vì những vết cắt mới. Không chịu dừng lại, nhưng cũng không nén được cái đau rát ở gan bàn chân, cô rời bàn tay Vinh, quàng hẳn cánh tay lên vai anh. Bắp tay tròn lẳn áp chặt vào tấm lưng trần làm cho Vinh thấy ấm hẳn một bên vai. Để che lấp nỗi ngượng ngùng, anh dìu Liên lội đi nhanh hơn. Không biết có phải vì sức nặng con người Liên đáng lẽ dồn lên những tảng đá sắc cạnh nay có chỗ tựa, được vơi đi nhờ có vai người bạn đường hay không, hay vì một niềm vui phấn chấn bên trong. Liên bước rảo hơn. Chẳng mấy chốc, chân đã chạm nền cát. Nước chỉ còn ngập ngang ngực. Cát dưới chân êm dịu. Họ đã tới bờ. Tìm được chiếc thuyền nan trát dầu rái. Vinh mừng quá, bắt tay Liên một cái thật chặt;
— Thế là công việc đêm nay trót lọt rồi.
Hai người nhấc chiếc thuyền đặt xuống nước, đẩy thuyền men theo bờ cát chân đảo một quãng khá xa. Tiếng máy bay thỉnh thoảng rèn rẹt trên đầu, họ chẳng quan tâm lắm. Một chùm pháo sáng bùng lên giữa khoảng trời vũng Hòn Lăng. Vinh bảo:
— Chúng ta cho thuyền đi xa khu vực trọng điểm như thế này là để bớt nguy hiểm trên đường vào bờ.
Khi bóng chiếc tàu thủy đã khuất sau một ngách núi, họ đẩy thuyền ra xa. Hai mái đầm khuấy nước nhịp nhàng. Trên con dường vòng chếch về phía bắc mà họ đã chọn, chiếc thuyền đi sát bờ một hòn đảo đất trơ trụi gần rất liền. Vượt qua hòn đảo đó đã có thể nhận ra dải bọt sóng trăng xóa dạt vào bờ cát ở đất liền. Một ánh chớp pháo sáng bùng lên trên vũng Hòn Lăng. Quầng sáng lạnh lẽo, ma quái soi tỏ lòng thuyền. Hai người vẫn mải miết chèo. Họ ngồi quay mặt lại với nhau, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng, chẳng ai nói với ai lời nào. Vinh chưa hết bỡ ngỡ về chuyện hai người dắt díu nhau đi trên dải đá rạn ngầm “Giá như không phải là thời chiến, thì làm gì có những giây phút gần gũi bất ngờ như thế. Những giây phút rung động, cố nén thở nhưng mạch máu giần giật khắp cơ thể”.Trong ánh pháo sáng, anh ngước nhìn Liên.Bây giờ anh mới chú ý ngắm khuôn mặt cô, vẻ tươi trẻ rạng rỡ hiện lên trong đôi mắt đằm thắm của cô dường như mách bảo với anh điều gì đó. Cô gái tự nhiên đảo nhanh mái dầm, chiếc thuyền dấn mạnh hơn, chuyển động đột ngột của nó làm cho dáng người của Vinh cũng lắc lư theo. Chỉ một thoáng thay đổi tư thế ấy cũng đủ để Vinh hiểu rằng trong lúc này, hai người cùng đang nghĩ về nhau. Chợt Liên kêu lên, vẻ ngạc nhiên:
— Ơ kìa, hai bàn chân anh Vinh còn bị hà cứa đứt nhiều hơn em. Thế mà...
Vinh không trả lời thẳng. Anh nói khơi xa:
— Nhẽ ra, chúng ta gói cả dép vào bọc ni lông thì đâu đến nỗi.
Liên mở mắt tròn xoe hỏi lại ngay, giọng nói không giấu sự lo lắng :
— Anh bảo đến nỗi gì ?
— Rõ quá đi, còn gì nữa ? Da chân con gái mỏng manh thế kia bị hà cắt ngọt xớt. Liên không xót xa chắc ?
Liên cười cởi mở :
— À, em cứ tưởng... Vậy mà anh đã sớm khen con gái thanh niên xung phong chân cứng đá mềm.
Cô chợt chuyển giọng, nghe trầm hẳn xuống:
— Này, em hỏi thật anh Vinh nhé!
Vinh giật mình:
— Có chuyện gì vậy!
— Có phải anh ghét cánh con gái thanh niên xung phong chúng em lắm phải không ?
— Sao Liên lại nói thế? Hay là đơn vị chúng tôi có điều gì sơ suất đối với chị em ?
— Em không nói đơn vị — Chúng em về đây được các anh chăm sóc chu đáo lắm rồi. Đây là em hỏi riêng anh thôi.
— Thế thì cô đánh giá oan cho tôi rồi. Tôi kính trọng những con người dũng cảm, nhất là trong giới nữ các cô.
— Và anh luôn luôn tránh mặt chị em, ngoài công việc. Cả tiểu đội chúng em đều nhất trí về điểm nhận xét ấy dấy.
— Xin cám ơn Liên đã nói thẳng. Quả tình, tôi rất sợ mồm miệng của các bạn. Vả lại, Liên thông cảm, anh cán bộ ở đơn vị bao giờ cũng ở vào cái tư thế căng cứng, luôn luôn sợ “quan trên trông xuống, người ta trông vào”.
Liên reo lên:
— Đấy nhé! Chị em chứng tôi đa từng có nhận xét về các ông chỉ huy bộ đội, bất cứ ở cấp nào, rằng các vị không dám sống như con người thật của các vị, bao giờ cũng có trưng ra bề ngoài cái vẻ nghiêm chỉnh giả tạo và cố che kín con người thật của mình.
— Tôi không ngờ cô thích triết lý đến như vậy — Vinh chống chế.
— Xin anh hãy trả lời thẳng: Điều ấy có đúng không ?
— Có đấy. Vậy mà người ta cứ bảo là các cô thanh niên xung phong sống hời hợt. Xin chịu các cô. Tôi xin thú thực là ít hiểu giới nữ.
— Thì chính chúng em cũng chưa phải ngay một lúc mà hiểu nhau. Anh tính xem, cuộc đánh Mỹ này cuốn hút chị em lên đường, đến với những nơi nguy hiểm nhất. Cuộc sống lao động chiến đấu khẩn trương liên tục tưởng xóa đi mọi nét khác biệt ở mỗi con người, nhưng thực ra, cuộc sống bên trong của mỗi người có dáng vẻ riêng. Nói chung, chiến tranh làm xáo trộn đời sống của giới nữ hơn giới nam. Hẳn anh biết điều ấy, — Chỉ mới có cảm giác là như vậy thôi.
— Có người ra đi nhẹ nhàng như chim cất cánh bay, có người lao vào cuộc chiến đấu sôi động để khỏa lấp những nỗi niềm riêng ít nhiều trống vắng.
Liên dừng lời. Một lần nữa, Vinh đăm đăm nhìn cô, như vừa phát hiện ra một con người khác người tiểu đội trưởng đội vận tải nữ mà anh từng biết. Anh không muốn vội hỏi sâu về cuộc đời của Liên trước khi cô tham gia thanh niên xung phong. Nhưng rõ ràng ở cô, tính tình cởi mở, thẳng thắn cùng những lời nói có chiều sâu suy nghĩ vừa làm cho anh ngạc nhiên, vừa có sức cuốn hút anh. Anh không ngờ cô gái có vẻ ngoài dè dặt lúc gặp anh bên cạnh ông già hoa tiêu lại bạo dạn bộc lộ mọi ý nghĩ của mình một cách rành mạch đến thê. Khuôn mặt xinh đẹp, đôi mắt sâu thẳm, cử chỉ và lời nói hồn nhiên thoải mái, đó là những ấn tượng về cô gái vừa kết đọng trong tâm trí anh và anh biết rằng, từ chuyến đi đêm nay, đối với anh cô không còn là người xa lạ nữa.
Chiếc thuyền bé nhỏ, gần đến bờ bị những ngọn sóng phản hồi cản mạnh; nó dồi nên, chúi xuống không ngừng. Bóng thuyền lẫn vào bóng sóng, khi cách bờ chưa đầy một trăm mét nữa, Vinh bỗng chột dạ vì tiếng bom, tiếng súng rộ lên ở đoạn bờ biển phía bắc. Vùng trời phía ấy lóa rực ánh pháo sáng. Những luồng lửa đạn phòng không bay vút lên trời, trông xa như những đàn đom đóm lửa nối đuôi nhau bay vào khoảng không rồi biến mất ở nơi vô tận. Vinh kêu lên:
— Không khéo chiếc tàu VS7 bị đánh trên đường đi đến bến sơ tán rồi.
Chưa dứt lời, đã thấy máy bay địch rèn rẹt trên đầu. Một chùm pháo sáng bung ra, bay lửng lơ trên đường chiến lược phía trước. Vinh vừa dấn tay dầm chống chọi với những lườn sóng ven bờ dội ra vừa cố phán đoán xem máy bay địch đang soi tìm mục tiêu gì trên tuyến đường vận tải. Bỗng một ánh chớp nhoáng nhoáng lóe lên đôi mắt. Vinh chỉ nhìn thấy một cột nước trắng lóa phủ lên con thuyền. Chiếc thuyền lật nhào và anh bị hất tung xuống nước. Tất cả chỉ diễn ra trong nháy mắt. Anh không kịp nhận biết rằng mình bị bắn tung xuống biển. Liên cũng ở trong một hoàn cảnh giống Vinh. Cô cũng bị bắn tung khỏi chiếc thuyền nan nhưng không hiểu vì do bản năng, giống như con mèo dù bị ném mạnh bất cứ đang ở tư thế nào cũng rơi bốn chân xuống đất trước, hay do may mắn, cô nhào xuống biển chẳng khác gì một vận động viên nhảy từ sàn cao xuống nước; cô nhẹ nhàng trồi lên khỏi mặt sóng. Sau những nhịp thở lấy sức đầu tiên, cô phán đoán rất nhanh rằng chiếc thuyền đã bị một loạt rốc két nổ gần sát, cô không chết là may. Nhưng còn anh Vinh? Liên lo lắng thực sự và việc đầu tiên sau khi tĩnh trí là cô nhào đi tìm Vinh trên mặt nước. Cô không hề để ý rằng những áo, yếm của cô đã bị hơi nổ giật tung. Cô nhoài người trên sóng, ngó ngang ngó dọc chẳng thấy gì ngoài con thuyền nan bị lật úp đã bị sóng dồn vào bờ. Bơi quanh quẩn một lúc, tay Liên quơ trúng chiếc dầm gỗ nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Một tia hy vọng lóe lên. Liên mở rộng vòng bơi, sục kỹ xung quanh chiếc dầm. Đúng như cô dự đoán, chân cô khoắng sâu dưới nước bỗng chạm phải một vật thể mềm mềm. Nước chỉ sâu chưa đến một đầu một với; Liên hụp nhanh xuống nước đẩy được Vinh trồi lên. Cứ như vậy, khi ngoi lên thở, khi lặn xuống nâng Vinh, Liên đẩy dần người bị nạn vào chỗ cạn. Cô cảm thấy thân hình Vinh bất động, tự nhiên trong lòng quặn thắt khi nghĩ rằng con người vừa vui vẻ trò chuyện với mình dăm ba phút trước đây giờ đã hy sinh. Chẳng hiểu sức mạnh nào đã giúp cô sau một hồi vật lộn với sóng, nước, vẫn có thể cõng Vinh Vượt qua bãi cát ven bờ vào tận mép rừng dương. Cô đặt Vinh nằm xuống bờ cao của một đường hào giao thông, hai tay run rảy, nước mắt muốn trào ra. Nhớ lại bài học cấp cứu người chết đuối của dân miền biển, Liên dóc ngược hai chân của Vinh, tựa thân hình anh vào mép hào, xốc nước xong, cô đặt anh nằm xuống. Bây giờ cô mới kịp sờ mó thân thể Vinh, lắng nghe hơi thở, dò nhịp tim đập. Nỗi lo thắt ruột của Liên vơi hẳn đi một nửa khi cô nhận ra dấu hiệu sự sống còn nhiều hy vọng trên cơ thể của Vinh. Không một chút chần chừ, Liên làm hô hấp nhân tạo rồi luôn tay xoa xát trên ngực người bị nạn. Cho đến khi nghe hơi thở của Vinh dồn đều và mạnh tim đập rõ rệt, biết chắc anh được cứu sống, Liên bỗng ngồi phịch xuống cát, đầu ngục xuống hai đầu gối bó chặt trong đôi cánh tay rã rời và cứ thế cô khóc nức nở. Khóc cho vơi bớt nỗi lo thắt một khoảnh khắc vừa qua, khóc vì vui sướng đã giành giật được với cái chết không những cuộc sống của Vinh mà cả niềm hạnh phúc mơ hồ của chính bản thân cô.
Liên cứ ngồi bó gối, thút thít một mình. Lúc này, tâm trí cô không vương vấn một ý nghĩ nào hết, kể cả về bản thân mình mà tập trung vào việc cứu chữa cho Vinh. Nghỉ tay một lát cô lại tiếp tục xoa bóp cho người bị nạn. Cô vuốt nước khỏi mái tóc uớt sũng của Vinh, quờ những nắm lá dương lau khô người Vinh. Khi Liên nâng gót chân Vinh lên đề xát, cô chợt nghe Vinh rên lên một tiếng, bàn chân anh giẫy giẫy. Liên mừng rỡ lay mạnh hai vai Vinh, giọng mếu máo:
— Anh Vinh! Anh sống lại rồi ư?
Trong bóng đêm, cô nghe tiếng Vinh cất lên yếu ớt:
— Chân đau... tức thở...
Liên cuống lên, không biết nên xoa ngực hay bóp chân cho anh. Cô mừng quá, ôm chầm lấy Vinh, cụng trán mình vào trán anh, hôn lên mặt, lên mũi anh nỗi mừng không nói hết. Bây giờ, cô mới nghĩ đến chặng đường cõng tiếp anh về trạm biên phòng. Con đường gần nhất từ đảo Hòn Lăng vào bờ đã dẫn họ đến khoảnh rừng dương xa trạm nhất về phía Bắc, khoảng cách phải đến vài kilômét. Nơi này, chân núi ăn ra sát biển, thực sự hoang vắng. Liên ước gì có một chùm đèn dù bùng lên lúc này để nhìn rõ mặt Vinh. Chợt bàn tay Vinh quờ trúng bàn tay Liên đang xoa ngực anh. Vinh nắm giữ bàn tay ấy, hỏi khẽ:
— Ai đây ?
— Em đây, Liên cùng đi với anh từ Hòn Lăng vào đây mà, Liên có giỏng tai đợi Vinh nói tiếp. Chỉ có im lặng. Cô lại lay bàn tay Vinh. Chỉ có tiếng sóng biển nhè nhẹ xoải vảo bờ cát trả lời cô. Chợt từ mạn rừng dương phía Nam vọng lại tiếng người lao xao, lúc đầu Liên ngỡ là tiếng lá dương reo trong đêm. Tiếng người rõ dần. Liên vụt đứng dậy, hú lên một hồi dài. Có tiếng hú đáp lại. Liên mừng rỡ chạy tới đón những người đến cứu. Một chùm đèn sáng bùng lên đỉnh núi bên phải. Cả rừng dương bừng lên, lóa mắt. Liên mới chạy được mươi bước chợt sững lại. Dưới ánh pháo sáng trắng lóa,cô giật mình khi nhận ra rằng trên thân thể cô chẳng còn một mảnh áo yếm nào cả. Hai má Liên đỏ bừng. Bóng người mới đến đã lô nhô thoáng hiện dưới rừng dương. Liên bất giác khép hai cánh tay che kín bộ ngực trần và quay phắt lại, cô cắm đầu chạy. Cố vượt qua chỗ Vinh nằm, không kịp nhìn đến anh. Chỉ đến khi bắt gặp một cái hố cá nhân nông choèn có bụi cây lúp xúp trùm lên bên trên, cô nhảy phốc xuống đó.
Ngồi theo tư thế hai tay bó gối, cô nhìn chằm chằm trở lại chỗ Vinh nằm. Một toán sáu người xuất hiện, Liên nhận ra bốn chị em trong tiểu đội, một y tá của trạm và một sĩ quan biên phòng. Họ nói với nhau những gì cô không nghe lọt. Đám người xúm lại quanh chỗ Vinh nằm. Đồng chí y tá tiêm cho Vinh mấy mũi thuốc rồi họ đỡ Vinh ngồi dậy. Theo ngón tay chỉ của Vinh, chẳng xác định rõ hướng nào, bốn cô thanh niên xung phong choàng áo ngụy trang tỏa ra khắp rừng dương, gọi to:
— Chị Liên ơi, chị Liên!
— Chị Liên ở đâu?
Lại có tiếng hú cất lên. Liên nghe tiếng gọi, tiếng hú nhưng không thể đáp lại. Giá như đội cứu thương toàn là nữ thì mọi chuyện trở nên đơn giản. Dưới ánh đèn dù đã nhạt dần, Liên cúi nhìn thân thể hở hang của mình, cảm giác ngượng ngập nóng bừng trên đôi má bầu bĩnh của cô. Đã thấy một cô gái từ bờ biển đi trở lên rừng dương khóc tấm tức. Ở mép hào giao thông, anh sĩ quan biên phòng cùng người y tá đã kịp kết áo choàng ngụy trang làm thành chiếc võng. Họ rực Vinh dậy, đặt anh nằm lên chốc võng dã chiến. Người chỉ huy nói điều gì với một cô gái mà Liên nhận ra là cái Hồng; cô em út của tiểu đội Liên. Khi mọi người xóm tay nhấc chiếc võng mang Vinh đi rồi. Hồng vẫn ở lại, ngơ ngấc nhìn quanh, như có ý tìm tòi. Liên gọi to:
— Hồng ơi, lại đây !
Cô gái nghe tiếng gọi, ngơ ngác một lúc rồi nhận ra hướng tìm kiếm, cô lao nhanh về phía Liên, miệng gào to:
— Chị Liên! Chị ở đâu ?
Trong lúc cô chạy ngang chỗ Liên nấp, Liên rụt đứng dậy:
— Lại đây, mình ở đây cơ mà.
Hồng dừng lại nhìn Liên, miệng há hốc vì ngạc nhiên hay vì mừng rỡ không hiểu, cô chẳng thốt lên một lời nào. Liên nhào tới ôm chầm lấy bạn. Hồng nắm lấy hai vai Liên, khẽ đẩy ra một chút:
-Trời, chị ở đây mà bọn em gọi mãi không thưa. Mà sao chị cởi tuốt tuột thế này. Còn độc mỗi chiếc quần trên người.
“Sao nữa, Hồng chưa gặp trường hợp ở tuyến trọng điểm, nhiều người chết bom, quần áo bay sạch hay sao ?
Vừa nói, Liên vừa gỡ nút buộc chiếc áo choàng ngụy trang quanh cổ Hồng:
— Để im mình tháo. Chỉ vì thiếu chừng này mà mình không dám lên tiếng trả lời các bạn, mặc dù mình thấy hết, nghe hết.
Hồng giật tấm vải dù, không chờ Liên tháo nốt mối buộc cuối cùng:
— Để em quàng cho chị. Trời, chị Liên có nước da trắng mịn, cứ là mát tay, mát mắt.
— Nhanh tay lên, còn kịp đi về, cô ạ.
Rồi Liên cố lấy giọng thản nhiên như không:
— Này, anh Vinh ra sao rồi, mình ở xa chỉ thấy loảng thoáng.
— Tỉnh hoàn toàn. Chân bị bong gân ở mắt cá, ngực khó thở. Thế thôi, À, anh ấy gọi tên chị và bảo anh chỉ huy đi tìm chị. Thế chị đi trốn từ lúc nào?
— Đừng hỏi nữa, nỡm ạ. Quấn quáng quàng lên cho tôi nhờ, cô em út.
Cô bé tinh nghịch chưa chịu tha tiểu đội trưởng. Khi đưa mép vải ngụy trang vòng qua mình Liên, cô còn vuốt nhẹ một đường ngang ngực bà chị:
— Úi giời ơi, chị giành hết phần xinh đẹp của cả tiểu đội ta rồi. Chỉ tội cái ông Hường, mới bóc cố một tí, bà chị đã quật cho một con phăng teo. Chính chị mới đáng bị phạt nhé.
Liên trừng mắt nhìn Hồng, nét mặt đanh hẳn lại, bất ngờ.
— Hồng này, từ nay đừng nói chuyện anh Hường với mình nữa nhé!
Hồng sững người:
— Lại vấn cả tội sang em nữa à.
— Cấm thật đấy.
Chợt Hồng phá lên cười như nắc nẻ:
— Em biết rồi, xin lỗi chị vậy!
Rồi cô ôm lấy tiểu đội trưởng, xoay đủ một vòng trên cát:
— Trách gì người ta vừa hồi sức, chẳng lo cho mình lại lo cho đồng đội mất tích.
Liên gỡ vòng tay của Hồng ra, giọng nói không còn vẻ gay gắt:
— Người ta nào? Cô chỉ nói nhảm. Thôi quay về nhanh kẻo họ chờ ở nhà.
Hồng chưa chịu buông tha:
— Bà chị thân mến ơi! Coi chừng dí lửa vào thùng thuốc súng đấy!
Bọn này đã khẳng định rằng mấy ông chỉ huy biên phòng ở trạm này “bôn sệt” hết chỗ nói.
Nửa giờ sau khi xe cấp cứu chở Vinh về bệnh xá tỉnh, chỉ huy trưởng Giáp đã đến thăm anh. Cùng đi có trạm trưởng Hạ vừa theo xe lên gặp cấp trên để nhận chỉ thị công tác.
Vinh đã tỉnh hẳn. Nhờ có thể lực tốt, anh hồi phục nhanh chóng. Lúc loạt rốc két nổ và hất tung chiếc thuyền, Vinh bị thanh dầm quật vào cổ chân, đồng thời vì sức ép mạnh nên sau khi bị quăng xuống nước, anh không đủ sức trồi lên. Bác sĩ bảo anh chỉ bị bong gân ở cổ chân và đau tức vùng cơ ngực; kiểm tra phổi không có triệu chứng tổn thương. Điều nguy hiểm nhất đối với tính mạng của anh là chết ngạt dưới nước thì đã vượt qua được do công tác cấp cứu kịp thời. Trung tá Giáp nói:
— Thanh niên xung phong họ lắm từng trải nên biết cách cứu người chết đuối.
Quay sang Hạ, ông bảo:
— Trạm các anh được tăng cường một tiểu đội nữ dày dạn bom đạn, có chất lượng và nhiều kinh nghiệm công tác, cần phải tạo điều kiện tốt cho chị em hoàn thành nhiệm vụ.
— Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi bố trí cho chị em nơi ăn chốn ở khá chu đáo. Hiềm rằng...
Giáp ngẩng phắt đầu lên nhìn Hạ, hỏi gặng:
— Có việc gì ?
- Báo cáo, tôi đang lo, bố trí một chục cô gái ở cạnh đơn vị, e khó ngăn được những điều phức tạp không lường hết.
— Đồng chí trạm trưởng kiêm bí thư chi bộ có nặng thành kiến với chị em không đấy? Tại sao lúc nói về chị em thanh niên xung phong, đồng chí chỉ nghĩ về mối quan hệ nam nữ?
— Không phải tôi đâu ạ!
Chỉ huy trưởng bật cười:
- Tất nhiên tôi không nói về việc anh có quan hệ hay không. Cái chính phải xác định họ là một lực lượng lao động và chiến đấu ở tuyến lửa, họ là những chiến sĩ xung kích, đồng ý không nào?
— Thì chính tôi cũng đã từng nói với cấp dưới những điều thủ trưởng vừa nói.
Hạ biết tính chỉ huy trưởng, lúc nào ông chuyển cách xưng hô từ “Anh” sang “đồng chí” là câu chuyện của ông đã chuyển sang dạng nghiêm túc rồi. Giáp quay sang Vinh đang ngồi tựa lưng vào tường:
— Đồng chí bí thư tỉnh ủy sau khi nhận được báo cáo về chuyến đi của Vinh, rất quan tâm đến chi tiết sử dụng thuyền thúng. Tôi xin chuyển lời biểu dương của đồng chí tới cậu.
Vinh mở to mắt, hỏi lại người chỉ huy:
— Về việc gì ạ ?
— Chuyện đơn giản thế mà gỡ được cái bí, rất bí lúc rày.
Giáp nói lại cho Vinh rõ, trước đây, ủy ban tỉnh chuẩn bị đầy đủ nhân lực và phương tiện để bốc dỡ chuyến tàu hàng. Cũng đã tính đến tình huống phải đối phó với bom từ trường. Nhưng không ngờ địch thả dày đến thế. Hàng trăm chiếc thuyền gỗ được huy động đầy đủ, nay trở lên vô dụng. Chiến trường đòi hỏi nguồn tiếp tế liên tục, gấp rút, không thể trì hoãn việc bốc dỡ hàng. Việc Vinh dùng thuyền thúng trở về trót lọt đã gợi ra cho cấp trên một phương án vận tải mới, tránh được bom từ trường.
Chỉ huy trưởng quay sang nói với Hạ:
“Vấn đề nan giải còn lại là phải tăng số người vận tải thuyền lên gấp đôi, có thể hơn nữa.
— Lấy đâu ra người ạ? Bên giao thông đã báo cho ban chỉ huy chiến dịch vận tải biết rằng hai chục người vừa bổ sung cho trạm là đợt vét cuối cùng, phải vét nhân lực từ hai tuyến vận tải đường sông ở miền tây. Thủ trưởng còn nhớ chứ!
— Tôi biết. Nhưng trên tỉnh đã tính cả rồi. Ba chiếc thuyền nan mới thay được một chiếc thuyền gỗ. Lúc tôi báo cáo về chuyến đi của cậu Vinh xong, đồng chí bí thư tính ủy đã tính ngay đến phương án dùng thuyền thúng và cũng thông báo ngay cho tôi biết rằng đồng chí trưởng ty giao thông đang có mặt ở văn phòng tỉnh ủy đã hứa khắc phục khó khăn, bổ sung nhân lực cho chiến dịch vận tải đột xuất. Về phía các anh ở trạm, cần bắt tay ngay vào công tác tăng cường hầm hào trú ẩn và bố trí hợp lý vị trí xuất phát của từng tổ, đội. Ban tham mưu sẽ có chỉ thị cụ thể tổ chức thực hiện kế hoạch mới. Toàn bộ công tác phòng không và bố phòng vùng trọng điểm đã có ban chỉ huy chiến dịch đảm nhiệm. Chiến dịch bốc dỡ hàng được triển khai trước khi huy động được một nửa số thuyền nan theo kế hoạch.
Ban chỉ huy chiến dịch tranh thủ thời tiết xập xùi, giữa vụ thu trên biển bỗng dưng mây mù giăng kín mặt vũng Hòn Lăng. Hàng đàn thuyền lá tre xuất phát từ nhiều bến khác nhau tỏa ra biển, chia thành tám tuyến bốc dỡ, hoạt động đều răm rắp. Trên tàu bạn đội công nhân chuyển tải chia kíp cùng một lúc rót hàng ở tám dây ròng rọc bố trí hai bên mạn tàu. Mỗi chiếc thuyền nan chở không quá năm tạ hàng, mỗi chuyến vận tải gần hai tiếng nhưng đàn kiến nổi ngay đêm đầu tiên đã tha được ba trăm tấn hàng. Hàng cập bến, lập tức có các tổ bốc dỡ tuyến nào theo tuyến ấy, khuân vào kho tạm. Sáng ngày, chẳng còn thấy bóng một chiếc thuyền nào trên biển. Tám luồng người đi trên cát chẳng để lại dấu vết gì kể cả dấu chân người cũng được những công nhân phụ trách công tác ngụy trang xóa sạch. Ba đêm đầu tiên, yếu tố bất ngờ đã phát huy tác dụng. Kẻ địch dựa vào hàng rào bom từ trường và thủy lôi rải dày đặc vây quanh chiếc tàu lớn, dựa vào các không ảnh, ngừng hẳn việc rải đèn dù. Hoạt động của máy bay phản lực không thay đổi so với trước. Có thể nói hai ngàn tấn hàng đầu tiên được bốc dỡ chóng vánh, vượt kế hoạch, không xảy ra một trường hợp thương vong nào. Lợi dụng mây mù, có nhiều đợt, các tổ xung kích vận tải mạo hiểm đi cả ban ngày, tăng năng suất gấp rưỡi; nhưng chỉ được thời gian đầu. Buổi sáng ngày thứ năm, trái với thường lệ, trời nổi gió dông, mây mù tan sớm. Khi ánh mặt trời đã tỏ rạng, hai chục chiếc thuyền nan còn chơi vơi trên mặt vũng Hòn Lăng. Máy bay trinh sát vũ trang của địch nhào xuống đáng liền. Đám thuyền tản mác, giãn nhanh đội hình nhưng vẫn không thoát khỏi trận bắn phá tơi bời. Đứng trên bờ nhìn ra, người chỉ huy bình tĩnh nhất cũng phải xót ruột. Những chiếc thuyền nan trông bé như chiếc bèo cát bị hất tung lên khỏi mặt nước, sau đó mất tăm bóng dáng thủy thủ, chỉ còn thấy xác thuyền nổi vật vờ, lềnh bềnh như chiếc nón trôi sông. Hỏa lực cao xạ của bộ đội phòng không bố trí trên sườn núi phía đông, hướng ra biển đã kịp thời lên tiếng, bắn mạnh, buộc những chiếc máy bay phản lực phải vọt lên tầm cao. Chính sự chi viện mạnh mẽ ấy đã cứu được nhiều tổ thuyền viên vì điều họ lo sợ nhất trên biển không phải là bom mà là đạn rốc két và pháo 20 ly, loại vũ khí ít khi nhắm chệch những mục tiêu nhỏ trên biển. Vốn là dân thạo nghề sông nước, lần lượt các công nhân vận tải nhảy xuống biển, hoặc bám lấy hàng và thuyền, đẩy phương tiện vào bờ, hoặc rời thuyền bơi bộ để tránh nạn. Trên không, máy bay địch cứ gầm rít, trên biển bom nổ từng chùm bắn tung lên những cột nước trắng xóa; trên bờ súng phòng không của ta giăng lưới lửa bủa vây vùng trời... Cuộc chiến đấu thực sự ác liệt khi bọn giặc lái trinh sát gọi được bầy phản lực cường kích tối tiếp sức. Bom nổ trên núi, bom nổ trên bãi cát, bom nổ phát ngã từng mảng rừng dương. Trận đầu tiên nổ súng bất ngờ, pháo phòng không đã quật ngã một chiếc F.105 trong số tám chiếc tham gia cuộc oanh tạc. Hai tên giặc lái rơi xuống biển, cách đảo Hòn Lăng năm hải lý đã thu hút cả một bầy phản lực và mấy chiếc trực thăng đến quần đảo rối rít ngoài khơi.
Bên ta, hy sinh bốn công nhân vận tải bị thương hai người, mất hai tấn hàng và bốn chiếc thuyền. Một ngày sau, những chiếc thuyền rách nát cùng những bao bì ni lông đựng hàng nhẹ đều theo sóng thủy triều giạt vào bờ. Ban chỉ huy chiến dịch đánh giá đợt đầu tiên bộ máy tổ chức hoạt động có hiệu quả, từ khâu bốc dỡ, chuyển tải đến khâu tập kết chân hàng và giải tỏa hàng ra khỏi vùng trọng điểm đều ăn khớp với kế hoạch. Hỏa lực phòng không đã chi viện kịp thời cho lực lượng vận chuyển. Trạm biên phòng được biểu dương trong việc điều hành trật tự và tiến độ chuyển hàng, làm tốt việc mai táng và sơ cứu những người bị thương vong. Công tác bảo vệ chiến dịch tại trọng điểm đặc biệt được xác nhận là chu đáo và chặt chẽ. Hai thông tin mới được phân tích, nghiên cứu tỉ mỉ. Một là, có bảy chiếc thuyền rời tàu lớn chưa đầy ba trăm mét, mặc dù phơi mình trên mặt biển vẫn không bị bắn phá. Nhìn chung, không có một quả bom nào rơi gần con tàu trong phạm vi bán kính ba trăm mét. Hai là những bao bì ni long sau khi bi hất xuống nước, sớm hay muộn cũng giạt vào bờ. Ngoài ra, việc địch trút nhiều bom đạn xuống dải rừng dương ven biển chứng minh việc ta kiên quyết không bố trí kho hàng, cũng như không đặt trạm chỉ huy ở đây là đúng. Từ những thông tin quan trọng ấy, đã rút ra được nhiều biện pháp xử lý mới. Việc lắp ráp những chiếc mảng lớn bằng luồng áp sát mạn tàu, ngày đêm hàng được chuyển sẵn xuống đó chờ thuyền đến bốc tiếp là một ví dụ về việc cải tiến thao tác bốc dỡ, tiết kiệm thời gian.
Sau trận bom đầu tiên, năng suất chuyển hàng giảm đi rõ rệt. Thời gian khai thác bị hạn chế. Ta phải tranh chấp với địch từng giờ, chủ yếu thuyền hoạt động ban đêm. Số thuyền bị đánh cùng số thương vong tăng lên. Có đêm, không một chiếc thuyền nào dám rời bến. Địch thả đèn dù dày hơn và máy bay trinh sát trực canh đều đặn gây trở ngại cho hoạt động của ta trên mặt biển. Điều đáng lo ngại là một số ngư dân tham gia chiến dịch lấy lý do sức khỏe không bảo đảm hoặc có chuyện gia đình xin trở về quê. Nhiều người khiêng cả thuyền nan trốn đi. Nhân lực bổ sung không kịp.
Trong tình hình ấy, tiểu đội nữ thanh niên xung phong của Liên vốn đảm nhiệm việc chuyển hàng trên bờ, làm đơn tình nguyện đi chở thuyền. Họ được Ban chỉ huy hoan nghênh. Trong mấy ngày chuẩn bị chuyển vị trí đóng quân và công tác, Liên xin phép tranh thủ đi theo một chuyến xe tải vào thị xã.
Vinh đang ngồi đọc báo trên giường bệnh, nghe tiếng kẹt cửa, tưởng cô y tá đến giục đi tiêm thuốc, vội vã lên tiếng:
— Xin lỗi, tôi sang ngay bây giờ.
Anh đặt tờ báo xuống chiếu, xoay người lại, chợt thấy Liên đang đứng tần ngần ở cửa ra vào, bất giác reo lên:
— Em!
Tiếng em bất ngờ ấy, khiến Liên sững sờ vì vui sướng, giọt nước mắt ong óng ở khỏe mắt chực vỡ ra. cô chớp mắt mấy lần, chẳng nói được câu nào.
“Trông em gầy quá.
Vinh bước tới, nắm lấy tay Liên. Cô gái lặng lẽ nhìn đăm đăm vào mắt Vinh. Cái nhìn thu nhận một niềm tin yêu đồng thời cũng ngời sáng tình yêu cháy bỏng. Vinh nhấc ghế mời Liên ngồi, xin lỗi Liên chờ anh đi tiêm thuốc dăm phút. Anh trở về buồng bệnh thấy các bệnh nhân khác đang ngấp nghé ngoài cửa sổ. Trên chiếc tủ thấp kê đầu giường, Liên đã bày sẵn một nải chuối cùng hàng chục quả trứng gà. Vẻ lúng túng ban đầu không còn nữa. Cô nói với Vinh như nói với một người thân trong nhà:
— Ngày mai chúng em chuyển sang công tác đi thuyền — Hết người rồi hay sao? Chủ trương ban đầu là để phụ nữ làm việc trên bờ.
Chúng em xung phong đấy chứ. Vả lại, thiếu người ghê quá. Thương vong không nhiều lắm nhưng số người bỏ cuộc không phải ít.
Nét mặt Vinh thoáng vẻ lo âu:
— Ở bệnh xá này đã có mười người bị thương được chuyển đến. Nghe nói dưới bệnh viện còn hàng chục ca nặng hơn.
Liên hiểu nỗi lo của Vinh, đáp ngay :
— Tính ra, người ở trên bờ bị nhiều hơn người ra biển. Ở đâu cũng thế. Cả tiểu đội em cùng ký vào đơn đấy.
- Khối lượng vận chuyển có khá không ? — Vinh lái câu chuyện sang hướng khác.
— Tổ chức khá nên tránh bớt được thương vong.
Nhưng khối lượng hàng chưa được một nửa. Một vạt rừng dương dài là thế, bom đánh trọc hết.
Liên kể vắn tắt cho Vinh nghe tình hình chuyển hàng ở trạm cảng dã chiến. Nghe nói đến những chiếc mảng kết bằng cây luồng, mắt Vinh sáng hẳn lên:
— Hay quá nhỉ. Mà Liên này, em có nhớ con đường vòng chúng mình đi từ tàu vận tải vào bờ không ?
Hai tiếng “chúng mình” nghe lạ tai nhưng ấm áp biết bao. Liên mở tròn mắt, sững đi giây lát như bất chợt vừa nghe một khúc hát quê nhà. Mãi, cô mới trả lời lí nhí:
— Em quên sao được, anh.
— Thế này nhé. Ta thử xoay ngược hành trình của các chuyến bốc dỡ hàng. Đáng lẽ, đường về hướng thẳng vào bãi ngang như hiện nay, ta đi vòng một chút. Từ tàu nước bạn, ta chuyển hàng ra Hòn Lăng, cự ly năm trăm mét. Từ Hòn Lăng ta đi chếch hướng tây bắc sang Hòn Cốc, cự ly năm trăm mét. Sau đó ta vào Hòn Gió rồi vào bờ. Các khoảng cách đều nhau Ta không dùng thuyền chở mỗi chuyến dăm ba tạ mà dùng hẳn những chiếc mảng chở hàng tấn. Chúng ta sẽ kéo mảng bằng dây ni lông rải sẵn ở các xóm ngư dân. Trên mỗi vị trí nằm sát chân đảo chúng ta cấu trúc hầm hố chu đáo, bố trí nhiều đội kéo mảng. Như vậy chỉ cần mấy chiếc thuyền đi rải dây. Phương thức này hơi cầu kỳ nhưng đảm bảo an toàn và bảo vệ được tính mạng người công nhan vận tải gấp mấy lần phương thức cũ. Em thấy sao?
—Ôi, chuyện lớn tày đình thế kia em làm sao nghĩ kịp!
Vinh chậc lưỡi, ca cẩm :
— Anh đa thấy khỏe trong người, nhưng xin ra viện chưa được. Bác sĩ bảo phổi anh còn bị ảnh hưởng của sức ép. Giá như...
Liên cười:
— Em lên đây để thăm sức khỏe của anh. Anh cứ yên tâm điều trị. Chẳng rồi lại mang tiếng em lên đây để kéo anh về.
— Mang tiếng với ai nào? Về nơi tuyến lửa chử có phải về rong chơi đâu mà em ngại?
Liên ngước nhìn Vinh qua hai hàng mí dài và cong. Những câu trao đổi chân tình như chắp cánh cho cô bay theo những ước mơ thầm kín. Lòng cô lâng lâng niềm thương mến người bạn trai tuy mới gặp nhưng đã gắn bó tình cảm đối với cô.
Thấy Liên im lặng, Vinh tưởng cô đang băn khoăn về câu anh vừa nói, Liên thanh minh:
— Xin lỗi Liên nhé, em đến thăm anh, anh mừng quá nói lung tung. Đáng lẽ phải hỏi thăm nhiều về em, anh lại đem công việc ra quấy rầy em.
— Chẳng phải thế đâu anh. Chẳng qua là em ngỡ ngàng.
— Ngỡ ngàng về chuyện gì ?
— Em khó nói lắm.
— Anh hiểu rồi.
Một phút im lặng ngọt ngào trôi qua. Giữa lúc câu chuyện đang bỏ lửng thì ngoài cổng bệnh xá nổi lên tiếng còi ô tô giục gia. Liên vụt đứng dậy:
— Xe đến rồi, em phải về đây. Tiếc rằng chưa nói được với anh điều gì.
Vinh nắm chặt lấy bàn tay Liên, nói vội vã như sợ tiếng còi kéo Liên đi mất:
— Em chẳng cần phải nói nữa. Chính anh cũng ngỡ ngàng về niềm vui hạnh phúc được gặp em, hiểu em từ chuyến đi đáng nhớ trên chiếc thuyền nan. Thú thật với em, những ngày nằm ở bệnh xá, anh cảm thấy thiếu vắng em ghê gớm Em có hiểu không?
— Em cũng nhớ anh không kém.
Tiếng còi lại vang lên toe toe ở ngoài cổng. Liên nắm chặt tay Vinh, bóp một cái rõ mạnh rồi chạy vụt ra của.
Khi xe đã nổ máy chạy đi rồi, Vinh lững thững trở về giường, nét mặt thẫn thờ như vừa tỉnh giấc mơ. Một lúc sau, anh bất giác vỗ tay lên trán, tự mắng thầm:
“Suốt buổi trò chuyện có mấy tiếng “Anh yêu em” bao nhiêu lâu đoán chắc sẽ thốt lên khi gặp lại Liên, thế mà vẫn không dám mở miệng nói ra. Biết đến bao giờ nữa đây. Lỡ thời cơ mất rồi”.
★
Tên cố vấn Mỹ ngồi lên một góc bàn làm việc, ghếch chân lên chiếc ghế đặt bên cạnh, nhấc chiếc tẩu thuốc ra khỏi miệng, hất hàm hỏi đại úy Hưng, tên chỉ huy đội biệt hải Đà Nẵng:
— Ông đánh giá A 12 ra sao?
Hưng đang hý hoáy đọc tập hồ sơ, ngửng đầu lên đáp:
— Một cộng tác viên hữu hiệu, thưa ngài thiếu tá. Hắn đã báo tin chính xác căn cứ ẩn nấp của chiếc VS7 ở Ghềnh Đá và không lực Hoa Kỳ đã đánh trúng căn cứ này của Bắc Việt.
Hắn đã kịp thời báo tin chiếc tàu vận tải di chuyển vào vũng Hòn Lăng. Điều này, chính ngài thiếu tá không lường đến trong bản dự thảo kế hoạch. Phải không ạ?
— Ông cứ nói tiếp đi.
— Việc thứ ba là hắn đã báo chính xác vị trí những chân hàng ở rừng dương ven biển và không lực Hoa Kỳ đã phá hủy toàn bộ khu vực đặt kho ấy. Sự đánh giá của tôi có điều gì quá đáng không ạ ?
Tên cố văn gõ gõ chiếc tẩu lên mặt bàn, nói:
— Những tin hắn báo cáo, tôi ghi nhận là có phần đáp ứng yêu cầu chiến dịch của chúng ta. Nhưng độ chính xác không cao, ông đã nghiên cứu không ảnh, chắc phải đồng ý với tôi hai điều. Một là chiếc VS7 không có dấu hiệu hiệu gì tỏ ra là đã bị phá hủy trong trận oanh kích. Hai là những kho hàng mà hắn báo là được thiết lập ở giải rừng dương ven biển, chỉ là những kho giả.
Hưng trố mắt nhìn tên cố vấn, hỏi lại:
— Thì chính đài tiếng nói Hoa Kỳ đã loan tin về vụ này.
— Ông đại úy ngây thơ quá. Tuyên truyền là một việc, nghiệp vụ là việc khác. Những không ảnh mới nhất cho biết hàng bao bì bằng vải nhựa là gạo. Những bao gạo bị máy bay trực thăng bắn xăm trên biển, trông dễ nhận lắm. Còn những kho hàng bị đánh tan trong rừng dương chỉ là những bao cát, ông có biết không! Bọn Bắc Việt ranh ma lắm, đánh lừa được cộng tác viên tại chỗ của ta. Còn tin báo về sự di chuyển của chiếc tàu, quả là giới tình báo chúng ta không lường được chiếc tàu vận tải dám mạo hiểm băng qua hàng rào mìn và thủy lôi rải dày, có thể nói là gần như bịt kín ngõ vào vũng nhỏ phía trong.
— Thưa thiếu tá, có thể rút ra hai kết luận: Một là công việc ngụy trang và bảo vệ mục tiêu của đối phương được thực thi rất chu đáo và chặt chẽ, H12 không xâm nhập sâu được.
— Ô kê!
- Hai là, đối phương theo dõi rất sát từng đợt thả mìn và bom của không lực Hoa Kỳ, có đánh dấu và lên sơ đồ hẳn hoi, dựa vào sơ đồ ấy, chúng đã táo bạo vạch ra một hành trình an toàn cho chiếc tàu.
Tên cố vấn ngắt lời Hưng :
— Giá như H 12 báo tin đúng lúc chiếc VS7 còn ẩn nấp tại căn cứ thì không những nó không còn tồn tại mà chiếc tàu vận tải kia cũng không thể vào sâu trong vũng Hòa Lăng. Thôi được, trong chiến tranh, đó là lẽ thường... Yếu tố thời gian, biết sao được.
— Ngài thiếu tá hiểu cho, H.12 vẫn dùng điện đài cũ, liên lạc theo phiên định kỳ, dù có tin cũng phải chờ đến phiên, do đó tin chậm là không thể trách cứ.
— Tôi đồng ý với ông. Trước chiến dịch là như thế. Chính vì vậy mà chúng ta gửi bổ sung cho hắn chiếc máy đàm thoại vô tuyến Sanyo để phục vụ chiến dịch. Tôi rất nóng lòng chờ đợi giờ phút hắn nhận được phương tiện mới. Chẳng hay ông có tin gì thêm về H. 24 không?
— Thưa ngài chưa! nhưng tôi tin chắc H. 24 sẽ lọt được vào khu vực trọng điểm. Hắn sẽ có vị trí cao hơn H.12 ở Bắc Việt. Hôm tiễn hắn xuống thuyền vào bờ trong chuyến chúng ta thả ngư dân Bắc Việt, tôi đã trực tiếp quan sát và rất yên tâm về bước khởi đầu. Cả toán ngư dân được thả hôm ấy lộ vẻ tôn sùng tên Hường, kể cả ông già tóc đốm bạc mà chúng ta nghi là người của công an Bắc Việt cài vào.
Tên cố vấn rút trong túi ra mấy tấm ảnh phóng to, chìa cho Hưng xem:
— Bên tình báo đánh giá chiếc tàu vận tải đã bốc dỡ được một nửa số hàng. Ông hãy so sánh món nước ở hai tấm ảnh này. Bây giờ có thể khẳng định chiếc tàu chở gạo và vũ khí, cụ thể và vũ khí tập thể. Ông xem, nào bao bì, nào hòm, kích tấc rõ nét.
Hưng xem xong, không hỏi chuyện hàng mà chỉ cho tên cố vấn tấm vải bạt cồm cộm ở mũi tàu:
— Họ không cần giở vải bạt che mấy khẩu đại liên. Phải chăng họ biết chắc hay được đảm bảo trước rằng Hoa Kỳ không dám đụng chạm đến họ ?
— Chúng ta hành động theo mệnh lệnh, không nên bình phẩm chuyện chính trị.
— Còn những màng tre bâu lấy chiếc tàu này, màng nào cũng chất đầy hàng; chẳng nhẽ họ cũng được thông báo rằng máy bay Hoa Kỳ được lệnh không xâm phạm vùng cấm bao quanh chiếc tàu.
— Đó lại là chuyện khác, ông đại úy ạ. Đối phương của chúng ta khai thác triệt để mọi cơ hội do hoàn cảnh tạo ra.
— Vậy là không lực đồng minh chỉ làm cái việc chặt ngọn mà không dám đụng đến gốc.
Tên cố vấn chém tay vào không khí:
— Cái gốc cần giải quyết là khu kho tập kết lương thực và vũ khí của kẻ thù. Thử hỏi mấy ngàn tấn hàng vừa bốc dỡ xong, chúng giấu ở đâu ? Ở đâu ? Cộng tác viên của chúng ta phải trả lời cho được câu hỏi này rồi sau đó không lực sẽ can thiệp. Đến bao giờ H 24 mới bắt được liên lạc với H.12 ? Thời gian không còn nhiều... Ông đại úy biết đấy. Đã có mấy trăm phi vụ các phản lực cơ xuất kích, nhưng chúng ta chưa giải quyết được vấn đề. Ông thấy chưa, bom mìn từ tính không ngăn chặn được luồng vận chuyển trên biển.
- Tôi hiểu. Nhưng rõ ràng kẻ thù cũng đã phải trả giá đắt. Chúng tôi đã thống kê được mười bảy ngôi mộ mới; tỷ lệ người bị thương cứ cho là hai trên một, thì ít nhất cũng đã có năm chục ten bị loại khỏi vòng chiến đấu.
— Cái giá ấy không đắt nếu đem so với trên nửa vạn tấn hàng tiếp liệu đến tay Việt Cộng ở phần đất Việt Nam Cộng hòa.
Ngừng một lát, lên cố vấn Mỹ nói tiếp:
— Cái nút của vấn đề là phát hiện được chân hàng, mà phải thật chính xác. Đã bao nhiêu đêm, máy bay trực thăng của trạm Y-ăng-ki bay trên vùng Hòn Lăng, phát tín hiệu liên lạc, nhưng chưa hề nhận được trả lời. Tôi nghĩ rằng dọc các sườn núi nhìn ra biển, ngay cạnh đường ô tô, thế nào bọn Bắc Việt cũng xây dựng kho ngầm khoét sâu vào vách núi. Giả thử, điều phán đoán ấy được minh chứng là đúng thì sự can thiệp của không quán là vô hiệu Trong trường hợp ấy, ông đại úy phải chuẩn bị một đội biệt hải có tầm vóc. Ông bắt tay ngay vào công việc là vừa.
Bốp nói xong, rút luôn trong túi một bản mệnh lệnh có ký tên đóng dấu, nói với tên đại úy:
— Tôi có bản sao mệnh lệnh của cấp trên ông đây. Sớm muộn rồi ông sẽ nhận được bản chính thức. Ông xem qua cho biết.
— Chúng tôi luôn luôn sẵn sàng, thưa ngài thiếu tá.
— Ôkê! Tôi nóng lòng chờ H.24 bắt liên lạc. Hắn sẽ đóng vai trò hướng dẫn viên cho toán biệt hải của ông; khi cần thiết phải tung toán này ra Vũng Hòn Lăng. Chỉ nay mai thôi, không lực Hoa Kỳ sẽ vô hiệu hóa mấy cụm pháo phòng không Bắc Việt ở vùng trọng điểm ấy rồi các ông sẽ được sự yểm trợ đường không hữu hiệu hơn.
Còn một điểm quan trọng nữa tôi yêu cầu ông đại úy chú ý. Đó là một khi H.24 đã móc nối được với Liên, người yêu của hán thì vì yêu cầu giữ bí mật cho chính bản thân hắn, hắn không trực tiếp làm công việc huấn luyện. Việc này phải do chính ông đại úy đảm trách. Được không ?
Đại úy Hưng trố mắt ngạc nhiên, lúng túng hỏi lại:
— Nhưng chúng ta đã thẩm tra được tí gì về cô Liên đâu. Tại sao ngài không gọi đích thân tên Hường về trực tiếp báo cáo ?
— Vì yêu cầu của chiến dịch đặc biệt, trong đó H.24 sẽ đóng vai trò hướng dẫn viên, tôi thay đổi ý định ban đầu và rút cô Liên ra. Trò mạo hiểm này không lỗ vốn. Ta kéo người liên lạc ra, không đưa về căn cứ này mà giữ lại trên tàu. Mọi công việc kiểm tra, huấn luyện đều làm ở trên tàu, chúng ta giao nhiệm vụ nhanh rồi bí mật thả về, giao cho H.24 sử dụng. H.24 đã nắm vững nguyên tắc làm việc với mật báo viên, tôi tin rằng hắn ta sẽ móc nối được với người yêu của hắn. Sẽ có lúc tôi mời ông đại úy cùng ngồi trên một chiếc trực thăng bay trên Hòn Lăng, chúng ta sẽ cùng đàm thoại trực tiếp với H.12 hoặc H.24.
— Rất hắn hạnh thưa ngài thiếu tá cố vấn. Tôi cũng đang sốt ruột chờ tín hiệu liên lạc của H.24.
*
Đúng như địch dự đoán, Hường được thả cùng chuyến với hai mươi ngư dân bị bắt cóc trên biển trước đây, và đã vào bờ yên ổn. Ông già có mái tóc đốm bạc da tường trình cùng chính quyền địa phương toàn bộ tình hình về đoàn ngư dân bị bắt trong thời gian ở trại Cù Lao Chàm. Ông nhấn mạnh khí thế đấu tranh đòi trở về quê của bà con, đặc biệt thuật lại một số vụ biểu hiện ý chí vững vàng không chịu khuất phục trước cường quyền của Mỹ — ngụy, trong những vụ ấy, ông khen ngợi Hường hết lời, ông nói với đồng chí công an xã:
— Ngay khi rời tàu lớn xuống thuyền, cậu ta đã mắng một tên lính thủy ngụy dám ngang nhiên giật điếu thuốc lá cậu ta đang hút dở để mồi thuốc của hẳn. Nếu bà con không can ngăn, chắc chắn trận ẩu đả không tránh khỏi.
“Ờ, dân biển quê mình quen ăn sóng nói gió, cứng đầu cứng cổ, dễ gì ai bắt nạt nổi — đồng chí công an xã cười tán thưởng.
Các thủ tục trình báo đối với từng người được thả về cũng được làm nhẹ nhàng, chóng vánh. Hường về lại gia đình nơi sơ tán phòng không, đi thăm hết bà con, bạn bè. Hắn biết được nhiều người đã đi phục vụ công tác vận chuyển ở Hòn Lăng. Hắn dò hỏi tin tức về Liên thì được biết sau ngày hắn bị bắt, cô đã đi thanh niên xung phong ở tận miền Tây. Chỉ sau vài ngày trở về quê cũ, hắn đã xách xe đạp đi chơi, gọi là đi thăm bà con xa; thực ra, hắn đạp thẳng theo đường ô tô hướng về phía Bắc. Những tưởng việc tìm gặp H.12 là chuyện dễ như trở bàn tay, hắn không ngờ chưa đến ngoại vi khu vực trọng điểm đã có trạm gác dân quân. Mặc hắn viện đủ lý do, nào về thăm bố mẹ đau ốm, nào thời gian xin phép đội sản xuất rất eo hẹp, người ta cũng không cho hắn đi tiếp. Không hề chán nản, hắn dắt xe đạp băng qua bãi cát, đi theo đường làng. Hắn đi thử mấy lần đều gặp các tổ kiểm soát. Hắn đành quay về nhà, băn khoăn bứt rứt không dứt vì chuyện chưa bắt được liên lạc. Đang lúc hắn bồn chồn sốt ruột vì cảnh ngộ trắc trở thì những người trong làng đi phục vụ ở vũng Hòn Lăng ùn ùn kéo nhau về, giữa lúc nửa đêm. Họ mang về theo những chiếc thuyền gỗ, vội vã kéo thuyền lên gối bãi rồi ai về nhà nấy. Hắn hỏi thăm được biết người ta không dùng thuyền gỗ nữa mà chuyển sang dùng thuyền nan để tránh tai nạn vướng bom từ trường. Hôm sau, Ủy ban xã thông báo huy động thuyền nan, hắn nghe tin, mừng quá là mừng. Nhà hắn có thuyền nan, hắn đãng ký xung phong đi. Cả nhà hắn giữ hắn lại, lấy lý do là hắn mới được thả về, cần nghỉ cho lại sức. Thực ra, ai cũng lo cho hắn; xông vào nơi bom đạn, chết như bỡn. Thế nhưng đợt huy động thuyền nan đầu tiên, xã không lấy những ngư dân mới được trở về làng. Hắn lại thất vọng. Hắn đang tính một chuyến đạp xe lên miền tây tìm Liên, đến nơi mà hắn đã hỏi ra địa chỉ thì đùng một cái, lại thấy người làng lẻ tẻ từ vũng Hòn Lăng quay về. Họ chẳng cần dìu thuyền nan theo mép nước, thuyền nan vốn nhẹ, cứ hai người đội một chiếc, họ về làng chẳng thành toán thành đội gì cả. Từ hôm ấy, tin đồn về những vụ thuyền bị bom, về người chết, kẻ bị thương lan khắp xóm .. Vì vậy, khi ủy ban xã động viên một đợt đột xuất đi phục vụ tuyến lửa, số người xung phong giảm rõ. Cán bộ kêu gọi giải thích mãi mới rút được một số nhân lực trong đó có nhiều ngư dân vừa mới được thả về. Phần hắn, hắn không đợi người ta gọi tên. Hắn xung phong tham gia đợt bổ sung, cả phương tiện của nhà cũng mang theo, ông già tóc đốm bạc cũng đi trong đợt này. Chính tên thực của ông là Nghịu, cái tên khó gọi, khó nhớ ấy chỉ có người làng quen gọi; còn người xa cứ lấy đặc điểm mái tóc bạc loe hoe của ông mà đặt tên, lâu ngày thành quen. Ông cụ là dân quân từ hồi chống Pháp. Đến thời chống Mỹ từ những ngày đầu bom đạn ác liệt, ông là một trong những người đầu tiên gan dạ, mở đường làm ăn trên biển. Địch bắt đầu giở trò cho toán biệt kích bắt cóc ngư dân mang về căn cứ khai thác, cán bộ địa phương có chủ trương bồi dưỡng một số nòng cốt trong công tác chống âm mưu địch khai thác tình báo và mua chuộc lôi kéo những người nhẹ dạ theo chúng. Ông Nghịu là một trong những người được chọn lựa. Chính vì vậy mà sau chuyến đoàn ngư dân được thả về cùng một lần với ông, bản tường trình của ông có sức nặng về độ tin cậy. Hường đã tạo được vỏ bọc yên ổn sau khi về làng, một phần cũng do có bản tường trình ấy. Trong chuyến đi ra vùng Hòn Lăng kỳ này, hắn nghiễm nhiên được bố trí làm tổ trưởng một tổ vận tải; hắn vốn là đội trưởng sản xuất nghề cá kiêm cán bộ phụ trách dân quân, nay chỉ huy một tổ vận tải ở tuyến lửa, ai cũng cho là chuyện bình thường.
Ngay đêm đầu tiên xuất phát, tổ thuyền của hắn đã lập được thành tích vượt cung đường, sau này đến khu vực tập kết được đội trưởng biểu dương về tinh thần hăng hái phục vụ chiến dịch. Chẳng ai hiểu được ý đồ của hắn. Hắn đã tính trước, đến điểm dừng chân đêm thứ hai, tổ của hắn được bố trí nơi nghỉ, theo kế hoạch, tại một điểm sát chân núi, từ đó chỉ mươi bước chân là hắn có thể tìm đến nhà H.12, một gia đình có nghề đẽo đá xây — Khi tới điểm dừng chân đêm đầu, vào lúc chưa đến nửa đêm, hắn thấy xóm vắng, cây cối lơ thơ bèn nói cho các tổ viên thấy sự nguy hiểm của việc trú quân ban ngày ở đó; hắn tính toán thời gian vượt cung thứ hai, lại nêu lên những yếu tố đảm bảo an toàn ở đó, mọi người thấy là hợp lý, đồng ý luôn. Ông đội trưởng lúc đầu cũng phân vân, có phần ngạc nhiên là khác, nhưng khi thấy cả tổ của hắn đều hăng hái xin đi tiếp, ông chỉ còn biết hoan nghênh nhiệt tình của họ. Quả nhiên, lúc gà mới gáy canh ba, họ đã vượt qua cung đường thứ hai. Và cũng đúng như hắn đã nói trước, ở đây hầm hố an toàn, dựa vào thế núi; Cả người lẫn phương tiện đều được che chắn đảm bảo. Hắn tính toán chi li từng phút, bố trí nhanh chóng vị trí nghỉ ban ngày cho từng cặp dân công. Mọi người chưa yên nằm, bắn đã xăng xái di kiểm tra một vòng, dặn dò từng người một những điều cần thiết. Quả là một anh tổ trưởng xốc vác, năng nổ, mọi người đều nói thế. Đi hết một tua, bắn rảo nhanh theo mép núi, rẽ vào lối nhà H.12, tên thật là Gia. Ngôi nhà hiện ra đúng như trong tấm ảnh hắn đã được xem lúc ở trên tàu. Hố khai thác đá chất đống đá dăm vụn, có vẻ như đã ngừng hoạt động. Chẳng thấy có một tấm dá đẽo dở, cung chẳng có một tảng đá nào nằm chờ bàn tay đục đẽo. Hắn đã hơi lo Gia không còn ở đây nữa. Hắn bước đi tới gõ vào cửa liếp nhịp hai, tiếp nhịp ba. Phải đến ba lần như vậy, hắn mới nghe tiếng kẹt cửa :
— Ai đó ? — Tiếng bên trong hỏi ra.
— Dân công hỏa tuyến mới đến, xin ông bát nước.
— Nước uống thì có, còn nước cay không có đâu.
— Chỉ xin ngụm nước trắng thôi.
Cánh cửa tự nhiên mở rộng. Hắn lờ mờ nhận ra một dáng người lòng khòng, nhưng nhanh nhẹn, liền cất tiếng chào:
-Xin chào H.12!
Người kia làm như không nghe lời chào ấy, nói nhỏ :
— Xin mời bác vào nhà.
Hắn chột dạ ngỡ rằng H.12 chưa tin ở những ám hiệu trao đổi vừa qua. Nhưng hắn cũng yên tâm vì cái dáng người này, hắn đã nhớ thuộc lòng.
Người kia châm ngọn đèn phòng không, dơ lên sát mặt hắn, có ý quan sát, một lúc sau mới nói, giọng khề khà:
— Chà, bác đợi một lát, tôi phải đi đun nước đã.
Hắn ngăn lại :
— Đây, thư và quà người ta gửi cho anh đây, anh Gia ạ.
Hắn đưa ra tấm ảnh xé nửa của một cô gái. Người kia thản nhiên cầm lấy, soi một lát, chẳng cần đối chiếu, bỏ ngay tấm ảnh rách vào túi. Bây giờ lão mới nắm lấy tay Hường:
— H.24, tôi ngóng chờ ông từng ngày.
“Đừng gọi tôi bằng bác hoặc bằng ông. Cứ gọi anh cho quen đi!
— Vâng tôi biết!
Hường mở túi đựng lương thực mang bên mình, lấy ra mấy gói nhỏ và một gói dài bọc vải kín trông như gói cơm, nói nhỏ:
— Tiền lương, tiền thưởng tính bằng vàng và máy bộ đàm do trung tâm gửi cho anh đây.
Hắn truyền đạt tóm tắt nhiệm vụ cho H.12 cùng nhũng quy tắc liên lạc mới. Hắn nghe H.12 báo cáo tình hình quan sát ở vùng Hòn Lăng. Chỉ mới qua mấy phút trao đổi, hắn nói ngay:
— Anh được sắp xếp vào tổ cứu sập, có đầy đủ điều kiện đi nắm tình hình mọi nơi trọng điểm đánh phá, nhưng lượng tin của anh nghèo quá. Theo anh nói thì cái kho anh báo về trung tâm để máy bay tới oanh kích là “kho giả” anh cũng không nắm được số lính biên phòng chết là bao nhiêu và hàng bốc dỡ tuồn ra khỏi vùng Hòn Lăng đi bằng con đường nào, vậy thì anh nằm mốc ở đây làm gì? Chân anh không biết đi chăng?
— Thưa ông. quả là khó cực kỳ. Ở đây người ta tổ chức từng đội, từng tuyến riêng rẽ, phân chia khu vực hẳn hoi. Thậm chí trong cùng một tuyến đường dây vận tải, ai đi thuyền biết đoạn đường biển, ai chuyển tải lên bờ, chỉ biết đoạn bãi cát còn sau đó, việc chuyển vận do bộ đội và thanh niên xung phong làm hết. Rồi ông sẽ thấy: phong trào phòng gian bảo mật chặt hơn ở nông thôn ta nhiều.
Hường đột nhiên cắt ngang:
— Anh bảo ở đây cũng có thanh niên xung phong?
— Có bốn tiểu đội, trong đó có một đội nữ.
Nhìn thấy đôi mắt Hường nhìn y chằm chằm, dưới ánh đèn tù mù trông có vẻ dữ tợn, Gia hoang mang không hiểu vì sao ông thượng cấp mới đến lại chú ý đến một cái tin bình thường đến thế.
— Anh có biết tiểu đội này không?
— Tôi biết, vì họ là đơn vị nữ duy nhất từ miền tây điều về, nổi tiếng là gan lì bom đạn. Hầm hào của họ nằm trong khu vực công tác của tôi.
— Chưa bị bom lần nào ?
— Chưa. Ở đây, hầm trú ẩn không xây cất trong rừng dương mà nằm ngoài bãi cát, quanh các gò cao. Vì vậy, trong mấy đợt bom vừa qua, chưa có chiếc nào bị sập cả.
Hường đột ngột hỏi quặt trở lại:
— Anh biết gì về tiểu đội này ?
— Trước hết, tiểu đội trưởng là cô Liên...
Lần thứ hai, đôi mắt Hường mở to nhìn thẳng vào mắt Gia:
- Có phải cô Liên dáng người thon thả, mặt trái xoan, da trắng mịn không?
— Đúng ạ; ông cũng biết người này?
— Người cùng làng cả thôi. Sau này anh sẽ phải làm việc với cô ấy đấy.
Gia trố mắt hỏi lại:
— Với cô Liên, tiểu đội trưởng thanh niên xung phong ?
— Chứ sao. Đó là nói chuyện sau này. Còn bây giờ, anh nói rõ hơn về công việc của họ.
— Họ được giao chuyển hàng ở đoạn cuối, chuyển đến đâu, tôi không rõ. Đám này nhìn có vẻ xởi lởi, nhưng kín miệng.
— Thế là anh xoàng. Anh nói tiếp đi, tiểu đội này ban ngày vẫn trở về nghỉ ở chỗ anh, phải không ?
— Trước đây là thế, mới mấy ngày nay, họ chuyển sang đội vận tải thuyền nan rồi. Họ làm đơn tình nguyện mà.
— Ghê nhỉ!
Hường buột miệng nói, Gia tưởng hắn khen đám nữ, tiếp lời:
— Năng suất cao, kỷ luật chặt chẽ, nghe mọi người bình phẩm như vậy sau mấy chuyến đi đầu tiên của họ.
Hường lại cắn môi, ngồi im lặng suy nghĩ. Mãi, hắn mới nói với Gia, giọng lạnh lùng:
— Qua báo cáo của anh, tôi thấy anh cấu tạo tin bằng tai nghe nhiều hơn là mắt thấy. Anh sợ chết, anh không dám đi đâu cả. Anh là người tại chỗ, nhưng có vẻ ngơ ngác lắm? Sợ gì quy tắc với quy chế. Lúc có hiệu lệnh cấp cứu, anh cứ xông bừa đến bất kỳ chỗ nào có người bị nạn, người ta chỉ khen anh, chứ có ai ngăn cản anh ? Cho đến bây giờ anh vẫn chưa nắm được điểm tập kết chân hàng là quá chậm. Anh có phải là người xa lạ mới đến đây lần đầu đâu ?
Tên Gia im thít. Hường nói tiếp:
— Còn những tin mới anh vừa báo cáo, ngay đêm nay anh phải chuyển ngay về trung tâm khi có máy bay trực thăng đến, nghe chưa ?
— Tôi sẽ báo ngay.
— Còn việc liên lạc về sau, tự tôi sẽ tìm đến anh, hoặc có người liên lạc theo quy tắc. Đặc biệt, trường hợp anh phát hiện được kho hàng, anh cứ báo cáo thẳng về trung tâm.
—Tôi sẽ cổ gắng, thưa ông.
— Lại “Thưa ông”. Anh quen mồm sẽ có ngày mang vạ đấy!
Trước khi đứng dậy rời ngôi nhà lẻ loi. Hường còn hỏi gặng:
— Nhà anh có năm người cả thảy— Những người khác đi đâu cả ?
— Trước khi đoàn vận tải về đây, mọi gia đình ở trong khu vực này đều được lệnh sơ tán cả.
Hưởng gật gù:
— Thế thì không thể cưỡng được, nhưng... dù sao, ngôi nhà của anh cũng đã được cấp trên chấm định nằm trong diện không bị máy bay đánh phá.
— Đành phải làm theo mọi người, chứ sao anh ?
— Phải thế. Thôi, tôi về đây. Nhắc anh lần nữa. Phải tìm cho ra mục tiêu chính. Tiền thưởng tính bằng cây, bằng lạng, chứ không phải ít đâu ông bạn ạ !
Hường lặng lẽ ra về, chẳng chào hỏi gì cả. Hắn đã làm việc với H.12 đúng ba mươi phút.
Đêm đầu tiên dẫn tổ vận tải của mình đến vị trí xuất phát trên bờ biển, đồng thời là nơi trú ẩn ban ngày, Hường sửng sốt trước quy mô tàn phá của bom đạn. Dọc một cây số đường ven biển, hắn vừa đi qua một giải rừng dương dài bị đánh phá trơ trụi. Những thân cây bị phạt ngã đè chồng lên những gốc cây bị bật tung, rễ đâm tua tủa, ngáng bước chân người. Hố bom chi chít. Khi đến điểm trú quân, hắn càng ngạc nhiên hơn. Người ta lợi dụng sự tàn phá sau những trận bom, đem luôn những khung hầm kèo hình chữ A lắp giữa rừng dương xơ xác. Những vì kèo bằng tre hoặc bằng chính than những cây dương đổ gục được lắp ráp chắc chắn, vùi sâu vào lòng cát, cửa ra vào ẩn dưới những gốc dương bị đánh bật, bên trên còn phủ thêm một lớp cây, cành ngổn ngang. Cách bố trí những cụm hầm trú ẩn tạo nện một thế bất ngờ táo bạo. Hẳn phải công nhận lời của H.12 về cách tổ chức ở đây chặt chẽ là đúng. Tranh thủ lúc trời vừa rạng sáng, hắn ló ra ngoài cửa hầm, có vẻ như để hít thở khí trời ban mai, nhưng thực ra là để quan sát toàn cảnh vũng Hòn Lăng. Ngoài chiếc tàu lớn đậu im lìm trên mặt biển, kề bên mạn có những mảng bè lớn, hắn chẳng thấy một chiếc thuyền lớn, nhỏ nào hết. Nhìn lên bờ cũng chẳng thấy một chiếc thuyền nan nào. Ngoài một vài chiến sĩ biên phòng đi tuần tra, không thấy có bóng người. Hắn để ý lối đi trên cát của đơn vị hắn đêm qua chẳng còn một tí dấu vết nào. Cảnh hoang vắng hoàn toàn. Câu hỏi lớn bao nhiêu lâu nay hắn khao khát tìm ra lời giải đáp: “Kho chính nằm ở đâu ?” lúc này càng quay cuồng trong đầu óc hắn. Hắn lo lắng thực sự. Hắn tự trấn an với niềm tin rằng một khi hắn đã lọt được vào vùng trọng điểm này, trước sau gì, hắn cũng tìm ra. Tiền, vàng, tương lai của hắn đầy hứa hẹn đều đặt cược vào chuyến đi đầy mạo hiểm này. Hắn chợt nghĩ đến Liên, người mà hắn yêu say đắm. Giờ này, cô đang ở chỗ nào trên bãi biển hoang tàn?
Hắn vừa chui vào hầm, hút chưa xong điếu thuốc lào thì có tiếng bước chân lạo xạo trên cát, rất gần, rồi có tiếng người hỏi:
— Có phải đây là khu vực của tổ 6 không? Anh Hường ở hầm này à?
— Vâng, anh Hường, tổ trưởng tổ 6 ở hầm này.
Hắn nghe người đầu tiên nói giọng khu ba. Người trả lời, hắn nhận ra giọng đội trưởng của hắn.
Cả hai người khoác vải dù ngụy trang lom khom chui vào căn hầm, chỗ ngồi thoải mái. Đội trưởng nói ngay:
— Đây là đồng chí Vinh, trạm phó biên phòng. Chúng tôi đến đây để bàn với cậu một việc. Đêm tới, đội ta ra quân. Cấp trên vừa có quyết định mỗi đội phải có một đội phó, đủ người điều hành cả ở trên bờ lẫn tại điểm bốc dỡ ngoài tàu. Theo sự giới thiệu của bác Nghịu, cậu được chỉ định làm đội phó đội ta. Tôi với anh Vinh đây tới gặp cậu để phổ biến quyết định của cấp trên và bàn luôn việc phân công giữa đội trưởng và đội phó.
Người đội trưởng nói tiếp về chức trách và phần việc của người phụ trách bến bãi và người điều hành việc bốc dỡ ngoài tàu. Trong lúc ông ta giãi bày mọi nhẽ, Hường tỏ ý chăm chú nghe nhưng mặt không ngùng quan sát anh sĩ quan biên phòng. “Một con người trẻ, lanh lợi, đứng đắn dù nhìn mái tóc thấy dài hơn kiểu con trai miền trung. Hoàn toàn có dáng vẻ một thanh niên khu Ba, chưa đoán được là người tỉnh nào. Tay này không dễ ai cầu thân, trừ phi là những người xuất sắc trong công tác”. Người đội trưởng kết thúc bài giảng giải, chẳng đề xuất ra một sự phân công cụ thể nào cả. Hắn biết tỏng ông chủ gia đình đông con này có ý ngần ngại đứng trụ ở nơi nguy hiểm nhất. Chẳng để ông ta phân vân lâu lắc, hắn nói ngay:
— Xem ra ở dây, dù trên bờ hay trên biển ở đâu, công việc cũng gian nan vất vả như nhau. Dù ở trên bờ có hầm hào phòng tránh, nhưng bom đạn biết đâu mà lường. Bác là đội trưởng, bác phân công ở đâu, tôi chấp hành nhẹ nhàng.
Đội trưởng cũng phân công nhẹ nhàng không kém hắn: đội trưởng phụ trách bến bãi trên bờ, đội phó phụ trách việc bốc dỡ ngoài tàu.
Thế là trúng ý hắn. Đêm hôm sau, hắn có mặt ngoài tàu. Vừa đứng chân lên mảng luồng chất sẵn hàng chưa đầy ba mươi phút, hắn giật mình khi phát hiện ra rằng, khác với phía bên hắn, thuyền nan đưa thoi chuyển hàng từ mảng nổi bốc xuống, ở mạn tàu bên kia, người ta kéo cả mảng hàng đi. Cả mảng hàng chìm lấp lửng dưới mặt nước, cử thế có dây tời kéo đi êm ru, dù máy bay, pháo sáng rợp trời cũng không tài thánh nào phát hiện ra. Bao nhiêu bom đạn đánh xuống thuyền nan, chẳng khác gì đánh vào không khí. Làm sao có thể ném hòn đá trúng phốc vào những chiếc vỏ trấu bị gió thổi tản mác mỗi nơi một mảnh, cách xa nhau tít tắp ? Điều duy nhất khiến cho hắn yên tâm là khu vực con tàu đậu hoàn toàn vô sự, đúng như lời cố vấn Mỹ báo trước cho hắn biết. Hắn ở đứng vị trí rót hàng, có thuận lợi nắm được số lượng, mẫu mã, hình thù, chủng loại hàng vận chuyển, nhưng vì là ở một điểm cố định thuộc khâu đầu, hắn không thể biết, trong ngày một ngày hai, khâu cuối kết thúc ở đâu; cụ thể chân hàng tập kết ở điểm nào, điều mà trung tâm chỉ huy của hắn cần biết, mà lại cần gấp.
Ban ngày, hắn nằm phơi mình trên mảng, làm người khách xem cuộc đối chọi giữa bầu trời và mặt đất, bom đạn dội xuống rừng núi, bờ bãi ầm ầm. Pháo cao xạ từ mặt đất bắn lên đạn nổ lưng trời từng chùm, trông như cụm hoa chè, chưa thấy trúng chiếc máy bay nào nhưng rõ rằng đã làm chao đảo đường bay của nhiều chiếc phản lực. Ban đêm, hắn làm việc cật lực, chuyển hàng không nghỉ tay, thực sự lao động như một công nhân bình thường. Đến đêm thứ ba, hai nỗi lo ập đến với hắn cùng một lúc. Mớn nước của con tàu đã hạ xuống rất thấp so với lằn sơn đỏ trên thân tàu gợi cho hắn nỗi lo thứ nhất. Thì ra con tàu gần với hàng mà hắn vẫn chưa chấm định được mục tiêu. Lẽ nào có cái nghịch lý là bom đạn càng ác liệt, việc chuyển hàng càng nhanh hơn? Nỗi lo thứ hai làm cho hắn bồn chồn day dứt là ba đêm liền hắn trông chờ mỏi mắt chẳng thấy thuyền nào có nữ thanh niên xung phong đi chuyển hàng. Hắn thảng thốt nghĩ đến trường hợp thuyền của Liên đã bị đánh tan trên biển. Nếu thế thì việc riêng của hắn mất phương hướng mà sự vụ được trung tâm giao cho hắn cũng đi đứt. Trung tâm chờ người liên lạc ở ngoài khơi, còn hắn, hắn cần cả người liên lạc với H.12 trên bờ. Chẳng nhẽ, hy vọng duy nhất của hắn lúc này đã tiêu tan.
Đêm thứ tư, hắn vui hẳn lên, quên mọi nỗi lo lắng, khi bầu trời vọng lại tiếng máy bay trực thăng; chiếc máy bay quần đảo ở tầng cao. Tuy không nhìn thấy nhưng hắn biết chắc những nguồn tin cuối cùng của H.12 sẽ được báo về trung tâm, kể cả tin hai cộng tác viên đã bắt được liên lạc với nhau. Hắn chỉ băn khoăn có một điều là chưa kịp và chưa có cách chuyển cho H.12 tin về tuyến vận tải ngầm dưới mặt nước bằng những chiếc mảng.
Đêm sau, hắn lại gặp chuyện vui bát ngờ hơn. Trên chiếc thuyền cuối cùng của đường dây lấy hàng ở mảng của hắn, hắn bất chợt thấy Liên ngồi sau lái. Hắn kêu lên:
— Kìa Liên!
Cô gái nhận ra hắn, vẻ mặt mừng rỡ không kém;
— Anh Hường! Anh ra tận đây cơ à?
Hắn cầm lay Liên, kéo co lên mảng. Trong lúc những người khác bận rộn xếp hàng xuống thuyền, Hường nói vang vang, ai cũng nghe rõ:
— Gặp được đồng hương ở đây, xin hỏi một vài tin nha, được chứ?
Nói xong Hường mời Liên ngồi uống nước trên một góc mảng. Câu chuyện riêng tư to nhỏ lắng xuống dần. Hường khen:
- Trông em rắn rỏi thêm, nhưng vẫn tươi như hồi trước. Anh ra đây đã năm hôm, để ý tìm em nhưng chẳng thấy bao giờ. Vậy em đi đường dây nào? Phải chăng…
Liên sẽ sàng trả lời chung chung:
— Trên phân công làm gì em làm nấy.
Hường làm ra vẻ lo lắng, hơi chau mày, trách Liên;
— Sao em không làm công tác trên bờ lại ra biển hứng lấy nguy hiểm? Anh được biết em đi tuyến mảng Ngầm, lên đứng trên boong tàu chờ em đến mà chẳng lần nào thấy em cả. Cẩn thận nhé, đi tuyến ấy nguy hiểm chết người.
— Chẳng nguy hiểm bằng các anh ở đây. Chúng em kéo tời mà.
— Chết! Chính những trục tời mới là mục tiêu đánh phá của bọn giặc lái.
— Ngồi trong hầm mà kéo, bọn giặc lái cũng phải kiềng. Anh cứ yên tâm.
Làm ra vẻ vô tâm, Hường cười, Liên cũng cười theo. Trong thâm tâm, Liên rất vui khi gặp lại Hường. Tiếng tăm về anh ta lọt đến tai Liên qua câu chuyện của nhiều người làng, đặc biệt là của ông Nghịu, người bác họ của cô, người mà cô tin hơn ai hết. Cô nhận ra ở Hường một chàng trai cởi mở như trước lại đẹp trai hơn trước nhờ nước da trắng đã thay làn da nâu sạm nắng. Việc hai người cùng gặp nhau ở vùng trọng điểm, nghĩa là đi cùng đường với nhau đã xóa đi nhiều mặc cảm của cô đối với Hường. Thời gian trôi đi, cô coi chuyện giận Hường trước đây vì cử chỉ rõ sàng của anh chỉ là trò trẻ con so với những chuyện xảy ra trong cuộc sống chị em thanh niên xung phong mà cô đã biết. Trước lúc gặp lại Hường, cô đã đánh giá lại anh con trai này một cách khác hẳn so với thời gian trước khi anh ta bị bắt cùng một lần với bác Nghịu của cô. Dù tình cảm riêng của cô đã hướng về một người con trai khác, cô gặp Hường lần này hết sức vui vẻ, thoải mái, ít nhiều có ý “kính trọng” con người có chí khí, ít nhiều có sự tin cậy hơn.
Liên hỏi đùa:
- Anh Hường bị bắt mấy tháng, chắc được sống mọi cảnh sung sướng nhỉ ?
Hường chột dạ, hỏi:
— Thế bác Nghịu không kể lại với Liên chuyện bà con bị giam hãm như thế nào ư ?
— Em đùa cho vui đấy thôi. Thấy anh sáng sủa, mập mạnh hơn trước, em cũng ngạc nhiên.
— Nói chuyện với Liên vui quá. Ngày trước có điều gì không phải, Liên bỏ qua cho anh nhé.
Nụ cười chợt tắt trên đôi môi Liên. Cô hạ giọng, nói với tất cả vẻ thành thật:
— Anh Hường ạ, cuộc đời có cái mặt trái xấu xa hơn nhiều so vái cái điều mà anh tự nhận là không phải để yêu cầu em bỏ qua. Con trai thời chiến táo tợn lắm anh ạ. Anh đừng bận lòng về chuyện cũ giữa hai chứng ta. Nào có gì đâu!
Hường thực sự xúc động trước câu nói chân tình của Liên. Thế có nghĩa là vật cản đã được cô tháo gỡ. Cũng có nghĩa là niềm hy vọng của hắn về Liên được chắp thêm cánh.
Từ trên boong tàu vang lên tiếng còi của người chiến sĩ giám hộ báo tin mười lăm phút dỡ hàng đã hết. Hường đứng dậy trước, giục Liên:
— Đã đến giờ em quay vào bờ. Cẩn thận nhé.
Liên xuống thuyền, lặng lẽ chào lại hắn bằng một nụ cười, rồi cùng người bạn gái cùng chuyến đẩy chiếc thuyền nan rời khỏi mảng luồng. Từ những điểm rót hàng khác, mấy chục chiếc thuyền lân lượt tỏa ra trên mặt biển. Chẳng mấy chốc, bóng dáng những phương tiện chuyên chở nhỏ nhoi ấy lẫn vào bóng sóng trong đêm. Hường vẫn đứng trên mảng chăm chú theo dõi chiếc thuyền của Liên. Trong tâm tư của hắn, hình như chiếc thuyền ấy không phải đang chờ hàng mà chở trọn niềm vui và hy vọng của hắn vào bờ. Thế là Liên cũng như bác Nghịu vẫn nghĩ tốt về hắn.
Không ai được biết màn kịch xảy ra ở trại thẩm vấn Cù Lao Chàm ngày nào... Chiếc ca nô vừa cập bờ đảo, chưa kịp tắt máy tên đại úy Hưng đã nhảy lên bờ. Chiếc xe giép đợi sẵn chở hắn đến trại thẩm vấn cố lính canh bảo vệ ngày đêm, hắn đi thẳng đến phòng làm việc, một gian phòng rộng, trang trí đơn sơ nhưng không thô kệch như những phòng làm việc khác trong các trại dã chiến của quân đội cộng hòa. Chiếc bàn vuông rộng đánh véc ni láng bóng. Tuy chẳng ăn nhịp với những chiếc ghế tựa đệm mút nhưng cũng đủ tạo ra một cảm giác đây là phòng làm việc dân sự.
Hưng bấm một nút chuông; trong phút chốc người kéo đến đầy gian phòng. Đó là những con người thoạt nhìn dễ nhận ra ngay là dân làm nghề biển. Những gương mặt sạm nắng, dáng đi chậm rãi mà chắc chắn, những thân hình chắc đậm, quần áo bà ba bằng vải đen mỏng không giấu nổi những bắp thịt cuộn lên. Không có ai có vẻ ốm đau. Chỉ một cái khoát tay của Hưng những người mới đến như đã quen lệ, ngồi xuống những chiếc ghế dài khung sắt, bọc phoóc-mi-ca. Tất cả đều nhìn chằm chằm vào tên sĩ quan ngụy đày uy quyền, ánh mắt lộ vẻ nhẫn nhục chờ đợi. Tên Hưng đứng dậy nói dõng dạc;
— Các người được gọi đến đây để hoàn tất những thủ tục cần thiết cuối cùng, trước khi chính phủ quốc gia cho phép các người được hồi hương.
Một cụ giả, tóc lốm đốm bạc nhưng đôi mắt còn quắc thước, đứng ngay lên, cắt ngang lời tên đại úy:
— Chúng tôi là dân làm ăn lương thiện, sống nhờ nghề cá, các ông vô cớ cho tàu vây bắt trên biển, đem về đây giam giữ cả năm ròng. Biết bao nhiêu lần các ông bảo làm thủ tục để phóng thích, nhưng cứ nay làn, mai nữa, chúng tôi hết chịu nổi rồi. Thay mặt cho mấy chục anh em có mặt hôm nay ở đây, tôi phản đối việc bắt người trái phép của các ông và đòi các ông phải thả ngay tất cả mọi người bị bắt.
Tên đại úy dằn giọng:
— Chiến tranh là chiến tranh. Các vị muốn được yên lành thì cứ việc làm giấy đãng ký ở lại vùng đất Việt Nam cộng hòa. Chúng tôi giữ các vị ở lại có cũng để cho các vị có thời gian suy nghĩ. Thử hỏi, những ngày tháng vừa qua ở trại, có ai bỏ đói các vị ngày nào không ? Chủ nhật nào, các vị cũng được đến nhà thờ làm lễ. Chẳng có ai bị đánh đập. Các vị còn muốn gì nữa? Các vị có biết rằng, giờ đây làng quê các vị chỉ còn là tro bụi, ngày đêm không lực quốc gia và đồng minh không ngớt dội bom. Nào, các vị muốn gì ? Sớm muộn gì quốc gia cũng sẽ phóng thích các vị kia mà.
Tiếng lao xao từ đám đông im bặt. Cụ già tóc đốm bạc dường như hết lý để bẻ lại tên đại úy, trước những lời nói thẳng tuột của hắn; không một ai chịu đãng ký xin ở lại, điều ấy đã rõ. Điều cuối cùng, hắn cũng nói rõ là sẽ thả mọi người về quê cũ. Tên đại úy biết chắc đã làm yên lòng đám ngư dân bị bắt, liền hỏi tiếp :
— Nào các người còn muốn gì ? Có ai ở lại với chính phủ quốc gia, không về với cộng sản Bắc Việt không ?
Bất chợt, từ đám đông, có tiếng nói đáp lại ngay :
— Chúng tôi muốn được tự do trở lại quê hương sớm chừng nào hay chừng ấy. Các ông phải trả lại tự do cho chúng tôi!
Đó là một thanh niên mặt mày sáng sủa, vóc dong dỏng cao, trông có vẻ thư sinh hơn là dân đánh cá.
Tên Hưng hỏi lại:
— Anh không biết rằng anh đang sống trong vùng đất của thế giới tự do ư ?
— Không. Tự do đối với các ông không giống tự do đối với chúng tôi.
— Cứ cho là khác đi. Nhưng quốc gia sắp thả hết các người về quê cũ. Đó là thứ tự do gì? Trong các người, không một ai xin ở lại, chúng tôi không ép buộc. Đó là thứ tự do gì ?
Anh thanh niên cất cao giọng, không một chút ngập ngừng, đáp lại ngay :
— Ông đại úy nói mai về tự do. Vậy mà ba ngày nay, các ông bảo chúng tôi làm thủ tục điểm chỉ, in dấu tay vào giấy ra trại. Tất cả chúng tôi đều biết chứ, tại sao lại không cho chúng tôi ký tên ? Tôi không lăn dấu tay đâu, cứ đưa giấy, tôi ký ngay.
Tên đại úy rút cặp, lấy ra một tờ giấy đánh máy giơ lên trước mặt mọi người:
— Đây, bản danh sách những người được thả về đợt này đã hoàn tất về phần chúng tôi. Phần các người, chỉ còn việc điểm chỉ vào. Có thế thôi. Nếu mọi người còn cự nự vì một chuyện nhỏ mọn, thì ta dừng lại ở đây. Các người cứ về lại trại đi.
Tiếng ồn ào trong đám người lại xao lên:
— Làm quách đi cho xong! Chờ nữa thì biết đến bao giờ ?
— Ồi dào, báu gì một chữ ký, lăn ngón tay hay ký chữ cũng như nhau mà thôi.
— Thuận đi cho được việc! Thuyền đã nhổ neo còn cãi nhau làm gì về việc nên hạ mái chèo bên phải xuống nước trước hay hạ mái chèo bên trái trước. Chuyện vặt ấy mà.
Mọi người nhìn về phía cụ già tóc đốm bạc. Chờ cho tiếng ồn ào giảm bớt, cụ nói với tên đại úy :
— Lăn tay hay ký tên thì cũng vậy. Ông đại úy làm nhanh lên rồi cho bà con về.
Mặt mày tên đại úy tươi hẳn lên. Hắn gật gù tán thưởng lời nói của ông già :
— Đơn giản chỉ có thế thôi. Xin mời các vị!
Như đã chuẩn bị sẵn từ bao giờ cho việc làm thủ tục, hắn rút ngăn kéo, lấy ra hộp mực con dấu.
Mọi người nhanh chóng in dấu ngón tay vào bản kê danh sách, chẳng mấy chốc tờ giấy đã in kín những nét vân tay. Anh thanh niên vẫn đứng im, không nhúc nhích. Cụ già tóc đốm bạc khẽ vỗ vai anh ta, bảo:
— Thôi, cháu cùng làm theo mọi người; làm chóng vánh lên rồi đi về.
Anh thanh niên lắc đầu quầy quậy :
— Cháu chỉ ký bằng bút thôi.
Anh rút chiếc bút bi từ túi áo ngực, bước lên hai bước, tới gần bàn. Tên đại úy giằng lấy tờ giấy :
— Không được. Anh chỉ có thể làm theo mọi người.
Anh thanh niên sững người, cau mày nói :
— Nếu như ông đại úy cũng lăn dấu tay vào cuối bản danh sách này thì tôi cũng sẽ làm như vậy.
Tên đại úy cười lớn':
— Vậy ở đây, ai là chủ ? Tôi hay anh ? Này, đừng co lẫn lộn các chức phận, anh bạn trẻ ạ. Được, anh không chịu làm thủ tục, xin mời anh ở lại đây. Còn các người khác, xin mời về.
Một tên lính không biết đợi sẵn từ một xó xỉnh nào đó, mở cửa phòng, dẫn anh thanh niên đi khuất tận cuối hành lang.
Mọi người kéo nhau về trại, tiếng xì xào bàn tán còn kéo dài một lúc ngoài sân.
Tên đại úy Hưng cũng rời khỏi gian phòng làm việc, đi về phía cuối hành lang, đến nơi tên lính dẫn anh thanh niên vừa đi qua.
Một phòng làm việc khác, diện tích nhỏ nhưng bày biện trang trí trông có vẻ thanh nhã. Trên bàn có lọ hoa. Những chai rượu phô nhãn hiệu sặc sỡ, lấp loáng sau những tấm kính tủ ly. Vẫn những chiếc ghế xoay có đệm đặt cạnh một chiếc tủ lạnh. Bia rượu bầy sẵn đầy bàn.
Chỉ có một mình anh thanh niên ngồi trước chiếc bàn nhỏ. Đại úy Hưng khép cửa, bước vào phòng, tới vỗ vai anh thanh niên :
— Mày đóng trò hết sảy, tao chịu đó Hường ạ!
Anh thanh niên có tên là Hường vội đứng dậy:
— Không làm như vậy, làm sao tôi có cớ đè gặp ông ở đây? Bọn này có ý tứ theo dõi nhau chặt chẽ lắm, ông đại úy chớ coi thường.
Tên đại úy nói lẩm bẩm, như nói một mình:
— Lạ thật, toàn là những người đạo gốc cả, mà chẳng có ma nào chịu ở lại vùng quốc gia. Trong số họ, có ai nghi ngờ mày điều gì không ?
— Tuyệt nhiên không. Dạo tôi tách ra đi dự khóa huấn luyện, hàng chục người khác cũng được giao việc đi lẻ đến các bến thuyền, bãi cá làm các dịch vụ hàng ba tháng trời. Khi trở về trại, ai làm gì biết nấy, mọi việc trở nên bình thường.
Ngừng một lát, Hường nói tiếp, giọng có vẻ dò hỏi:
— Ông đại úy gọi tôi đến đây, chắc có công vụ mới. Tôi sẽ đi với toán nào vậy ?
— Chẳng với toán nào cả. Anh được huấn luyện để làm quen với nghề nghiệp lính biệt hải. Nhưng trong công vụ, anh chẳng cần xông pha sông nước, chẳng cần xuồng cao su và phao bơi cùng súng ống gì cả. Anh sẽ được thả về vùng biển quê anh cùng một chuyến với những người có mặt ban nãy. Đều là người cùng huyện cả mà.
— Tôi hiểu —Tên Hưng nở nụ cười nhẹ nhõm — chắc hẳn ông định cài tôi vào một điểm nào đó.
— Đúng.
Tên Hưng nói dở chừng, ngừng lại. Hắn mở tủ sắt, lấy ra một tấm bản đồ, trải lên bàn :
— Nhiệm vụ của anh là như thế này. Sau khi trở về bản quán, anh sẽ làm đủ thủ tục khai báo như công an Bắc Việt yêu cầu. Nội dung những điều họ sẽ hỏi những ngư dân được thả, chúng tôi đã có bản tổng kết. Ở lớp huấn luyện, anh đã dược biết những điều cần thiết phải trình bày cho hợp lý. Chuyện ấy đối với anh không khó. Công việc của anh như sau: Một là tìm cách bắt liên lạc với H.12 ở xóm Đinh, ven vũng biển Hòn Lăng, trao cho hắn tiền lương tháng do cơ quan phòng vệ duyên hải cấp. Tiền lương cả năm, tính bằng vàng; hai là anh với H.12 theo dõi, xác định nơi Bắc Việt tập kết kho hàng trung chuyển ở khu vực ven vũng Hòn Lăng, báo tin về cho trung tâm rõ.
Hưng lại ngừng lời, lấy từ trong tủ sắt một vật hình hộp khuôn khổ giống y một chiếc hộp đựng thuốc lá, trao cho Hường:
— Chiếc máy bộ đàm kiểu Sanyo này, anh sẽ trao cho H.12. Cách sử dụng, anh sẽ chỉ vẽ cho nó. Sở dĩ không để anh dùng máy này vi chắc chắn anh sẽ bị theo dõi ít nhất trong vòng 6 tháng.
— Thưa ông đại úy, loại máy này làm sao bắt liên lạc thấu trung tâm ? Bán kính truyền tin của nó không quá 10 kilômét.
— Anh khỏi lo. Máy bay trực thăng và tàu PTH sẽ chuyển tin hai chiều giữa trung tâm và H.12.
— Công việc của tôi chỉ có thế thôi ư ?
— Nếu chỉ có thế thì trung tâm cần gì phải huấn luyện cho anh suốt cả một khóa? Công việc chỉnh giao cho anh là bằng bất cứ giá nào cũng phải tìm cách lọt vào đội ngũ những người bốc dỡ hàng ở vùng Hòn Lăng.|
— Những người bốc dỡ nào? Tôi biết ở Hòn Lăng không có cửa biển hoặc bến sông, cũng chẳng có bãi ngang cho thuyền bè cập bến. Toàn là rừng núi ăn ra tận biển. Họa chăng chỉ có những đồi cát loi thoi sát mép nước.
Tên đại úy mỉm cười. Hắn vỗ vai Hường, y hệt như cử chỉ của tên cố vấn Bốp đối với hắn khi khen hắn có trí nhớ tốt:
— Anh nhớ cảnh cũ khá kỹ đấy. Tôi phải quay lại từ đầu, nói cho anh rõ lý do vì sao trung tâm phái anh ra vũng Hòn Lăng. Hiện nay, ở đó có một chiếc tàu ngoại quốc đang neo đậu. Chiếc tàu vận tải này nay mai sẽ đi vào vũng Hồn Lăng, dỡ hàng lên bờ. Đây là một chiến dịch vận tải đột xuất và táo bạo của Bắc Việt. Việt Nam cộng hòa và đồng minh quyết định sẽ đập tan kế hoạch của họ mà không đụng chạm tới chiếc tàu vận tải kia. Kế hoạch chia làm ba phần : ngăn chặn trên biển, phá hủy chân hàng trên bờ và đánh phá tuyến vận tải từ kho trung tâm chuyển đến đường vận tải chiến lược. Mục tiêu kho hàng được giao cho các đơn vị biệt hải. Anh là chiến sĩ đi tiên phong.
— Chỉ có một mình tôi ư ?
— Chỉ một mình anh. Sau khi xác định mục tiêu, anh sẽ báo chính xác tọa độ về trung tâm. Không lực Hoa Kỳ sẽ tới hỏi thăm nó. Chỉ trong hoàn cảnh, không lực không xóa sổ được mục tiêu, các đội biệt hải mới phải ra tay. Trong trường hợp đó, anh sẽ là người hướng dẫn thực thi kế hoạch trên bờ. Bước tiếp theo sẽ có chỉ thị mới. Giờ giấc và tần số liên lạc không thay đổi, anh hãy nhớ lấy.
— Tôi nhớ. Nhung làm sao đảm bảo an toàn cho tôi và H.12 một khi bom đạn của không lực Hoa Kỳ đảo lộn cả đất đá, sỏi cát cả một vùng ven vũng Hòn Lăng ?
— Có hai vị tri nằm ngoài các mục tiêu bị oanh kích. Một là khu vực bao quanh chiếc tàu vận tải, bán kính 200 mét. Hai là khu vực cư trú hiện nay của H.12, bán kính 500 mét.
Anh vốn là tổ trưởng vận tải, đội phó đội đánh cá, hẳn anh biết chọn cho mình một vị trí thích hợp.
— Tôi hiểu. Nhưng đã chắc gì chiếc tàu sẽ dỡ hàng trong vũng biển Hòn Lăng ?
- Anh yên chí. Người Hoa Kỳ tính toán ít khi sai. Giả thử chiếc tàu nhổ neo đi nơi khác dỡ hàng thì nhiệm vụ của chúng ta vẫn không thay đổi. Lúc ấy anh sẽ nhận được lệnh mới.
Bây giờ, tôi nói thêm để anh rõ. Mọi phương tiện hoạt động, anh không nhận ngay bây giờ mà cho đến lúc rời tàu PTH xuống thuyền máy người ta sẽ giao cho anh. Sẽ giao cả tiền lương của anh và của H.12, tất cả chuyển thành vàng. Không ít đâu. Tất cả khoản lương, thưởng, các khoản phụ cấp hoạt động chiến đấu, phụ cấp đi vào vùng nguy hiểm, tính ra anh được hưởng gấp đôi một đại úy bộ binh. Nếu sau này, anh móc nối thêm được cộng tác viên ở trên đất cộng sản, tiền thưởng sẽ tăng hơn nữa.
Tên đại úy chợt ngửng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt Hường:
— Anh có thật tin vào cô Liên, người yêu của anh không ?
— Rất tin, thưa ông đại úy, cô ấy ngoan đạo, quan hệ rộng rãi, cởi mở nhưng không lăng nhăng. Cô ta chỉ biết, chỉ tin một mình tôi.
— Có khi anh phải chấm định mục tiêu xây đựng cơ sở đầu tiên là cô Liên. Cô ta cũng làm nghề biển, có nhiều khả năng bắt liên lạc với chúng tôi — Thưa ông đại úy, tôi xin cổ gắng.
— Anh phải nhớ một điều. Không được vì tình riêng mà làm hỏng việc chung của quốc gia. Với cô ấy, anh vẫn phải giao việc và thử thách, làm đủ các bước công tác nghiệp vụ. Nói tóm lại, nếu chỉ là người yêu thì không nói làm gì, nhưng một khi anh đã giới thiệu cô ấy với chúng tôi, là mật báo viên, anh phải đem cái đầu của anh ra làm vật đảm bảo đấy.
Tên đại úy vừa ra khỏi phòng thì một cô gái bận váy ngắn bước vào.
— Chào Thiên Nga 5!— Hường bất giác đứng dậy,vui vẻ chào.
Cô gái giữ nguyên vẻ mặt thờ ơ từ lúc mở cửa, xua tay lia lịa :
— Anh hãy quên tất cả những gì đã xảy ra giữa hai chúng ta.
— Sao em lại nói vậy? Dù sao em vẫn là chiếc cầu đưa anh đến với quốc gia. Có thể nào quên những đêm trăng trên bao lon khách sạn Sông Hàn ?
— Những chiếc cầu đều vô tư. Em cũng vậy thôi. Em làm công việc với anh cũng như bao chàng trai khác, đều vì đồng lương, vì đồng tiền, anh hiểu chưa ? Nay thì anh không cần đến cầu nữa, mà em không hề yêu anh. Anh hiểu chưa? Giữa chúng ta chỉ có trách nhiệm đồng đội.
Hường không ngờ cái sắc đẹp quyến rũ lại trở nên băng giá như vậy. Hắn cứ há hốc mồm, đứng nhìn cô gái. Mãi, hắn mới lên tiếng hỏi:
— Vậy cô đến đây làm gì nữa ?
Cô gái đưa cho hắn một tấm ảnh khổ 3x4. Hắn cầm lấy, mới thoáng nhìn đã thốt lên:
— Cô tặng ảnh cô cho tôi ư ? Còn có nghĩa lý gì nữa ?
— Có nghĩa lý lắm chứ. Không phải để tặng anh đâu. Tín hiệu bắt liên lạc với H.12, đại úy trao cho anh. Chiếc cầu này, cần cho anh để tiếp nhận nhân viên trên đất cộng sản.
— H 12 cũng đã từng quen biết cô?
— Thì tôi chẳng đã nói, tôi luôn luôn là một chiếc cầu mà. Anh ghen à ?
— Không ghen. Nhưng, đúng như người ta thường nói: “Qua cầu rút ván”.
Cô gái cười xòa :
— Mau quay về cho trót lọt để thỏa sức ôm ấp con mụ Liên nào đó.
Hường cứng họng. Sau đó, hắn trở về trại. Mọi người ngạc nhiên khi thấy hắn được tha. Bà con ngư dân ở trong trại càng khâm phục hắn dám tỏ thái độ cứng rắn với tên đại úy Hưng, khi hắn kể lại rằng cuối cùng tên này buộc phải để cho hắn ký tên vào bản danh sách.
Bỗng một chùm pháo dù bùng lên trên cao, luồng sáng chập chờn trên mặt biển sóng lăn tăn. Ngay lập tức, nhiều cột nước và khói tung lên cao, tiếng máy bay trên trời và tiếng nổ dữ dội dưới nước hòa làm một, rung chuyển không gian. Trước mắt Hường, một cảnh tượng lạ lùng bay ra trên mặt nước. Cả đoàn thuyền vốn đã giữ một cự ly nhất định bỗng tản nhanh mỗi chiếc mỗi ngả như một nắm lá tre tản đi theo gió. Đã có mấy chiếc bị trúng bom ngoài xa, từ trên mảng có thể nhận ra những mảng thuyền đen sì, bé tí tẹo tung lên theo cột nước. Nhiều thuyền chẳng còn người ngồi ở trên. Thì ra các thuyền viên đã quen với kiểu tránh bom dưới nước. Ngược lại, có những người vẫn gan lì bơi chèo, dường như họ coi bom đạn chẳng là cái gì. Hường thấy thuyền của Liên đi sau, cách tàu chưa xa. Hai cô gái ngừng tay chèo nhưng vẫn không cho thuyền quay trở lại. Hường biết rằng chiếc thuyền ấy dù đã vượt được bốn, năm trăm mét đầu tiên nhưng vẫn còn nằm ở ven khu vực an toàn cùng với năm sáu chiếc khác. “Quay lại đi, ngốc ơi là ngốc”. Hắn rủa thầm trong bụng, vẻ sốt ruột lo lắng hiện rõ trên nét mặt.
Bỗng dưng, đánh nhoáng một cái, chiếc thuyền của Liên bị lật tung, mất hút trong khói bom và khối nước bay tung tóe. Hường chớp mắt nhìn kỹ vào một chỗ; cho đến khi sóng tan, âm vang tiếng bom nổ đã tắt, hắn lại thấy chiếc thuyền của Liên xuất hiện. Thuyền bị lật úp, dập đềnh trên sóng.
— Cứu người bị nạn !
Hường quay lại, nhìn lên boong tàu thấy có mấy chiến sĩ biên phòng đã tụt xuống thang dây. Hắn cũng kêu với sang các mảng khác:
— Bơi ra cứu người, các anh ơi!
Hắn nhảy ùm xuống biển, bơi một mạch tới chiếc thuyền của Liên. Chiếc thuyền bị lật, song vân nguyên vẹn. “Hắn bơi dọc lườn thuyền, lần từ mũi ra lái, mắt nhớn nhác nhìn quanh trên mặt nước. Chẳng thấy bóng dáng hai cô gái trôi nổi trên biển. Cách chỗ hắn một quãng vừa phải, hắn thấy một chiến sĩ biên phòng đã dìu được một thuyền viên quay vào hướng tàu lớn. Bàn tay hắn đang lơ đãng quơ theo lườn thuyền bỗng chạm phải một bàn tay khác. Hắn quay phắt đầu lại. Cả hai cô gái mà hắn mỏi mắt tìm kiếm đều đang bám vào đuôi thuyền, đầu nhô cao trên mặt nước, cười nhăn nhở. Hắn mừng quá nhưng chẳng có bụng dạ nào để cười nữa. Hắn gào to:
— Bơi bộ vào mảng ngay! Bỏ thuyền đấy! Có ai can gì không?
Cô gái bạn Liên, người đầu tiên hắn chạm tay, nói:
— Khiếp quá! Gần một chút nữa thì hộ khẩu đã bị cắt phéng đời nào rồi. Mệt muốn đứt hơi đây!
Liên nói theo:
— Anh Hường giúp chúng em một tay đẩy thuyền quay vào mảng với!
Cả hai cô gái ương bướng không chịu rời con thuyền. Hắn bực quá nhưng chẳng biết làm gì hơn. Chiếc thuyền đang nằm ngoài vòng an toàn, hắn biết điều đó, liền quạt mạnh đôi bàn chân trong nước, cố sức đẩy thuyền vào. Cho đến lúc, ước tính cự ly đã tới gần chiếc mảng hắn mới bơi lơi lỏng dần để giữ sức.
Lên đứng trên mảng rồi, cả hai cô gái vừa xoắn tóc rũ nước, vừa nói cười ríu rít, coi như chuyện đắm thuyền chỉ là chuyện thoảng qua. Liên xin Hường một ngụm nước mắm. Hường nhìn hai cô gái vừa thoát nạn đã lấy lại ngay được vẻ bình tĩnh, tự tin, không khỏi nghĩ thầm: “Chi mấy tháng đi thanh niên xung phong, Liên đã biến thành một con người khác rồi. Chẳng còn một tý dáng dấp nào của cô gái mới ngày nào cùng mình tung tẩy khắp phố huyện. Khó lắm đây!”. Trong lúc hai cô chuyền tay nhau chai nước mắm ngon, uống vào mấy ngụm cho ấm người, hắn có dịp ngắm kỹ họ. Những bộ quần áo vải mỏng ướt sũng nước, dán vào cơ thể Liên, in hằn những đường cong duyên dáng từ vai, ngực xuống hai bắp đùi tròn lẳn. Tự nhiên, hắn cảm thấy nóng ran khắp người bởi những thèm muốn rạo rực vừa mơ hồ đang quẫy lên trong đầu hắn. Cả hai cô gái dường như cũng nắm bắt được luồng mắt trở nên thờ thẫn của chàng trai đứng trước mặt họ, vội vã đặt chai nước mắm xuống mảng, rồi cùng một lúc nhanh tay rũ áo quần, lưng quay lại ngược với ánh đèn trên tàu dọi xuống.
Cô bạn gái Liên ca cẩm :
— Lại mất thêm một chuyến hàng nữa!
Liên chỉ cười:
— Còn người, còn thuyền là may phúc. Rồi những bao hàng lại trôi giạt vào bờ cho xem.
Cô quay sang Hường:
— Rất cảm ơn anh Hường. Quả là sau trận bom, chúng em thoát chết. Nhưng đã đuối sức, không có anh thì chúng em còn ngoi ngóp chán. Có khi lại bị cá mập hỏi thăm đấy. Cảm ơn đồng hương.
— Chỉ là đồng hương thôi ư?— Hường lững lờ hỏi lại, nửa đùa, nửa thật.
Liên nói luôn:
— Còn là đồng đội nữa chứ! Em đã mấy lần gặp cảnh này, nhưng tất cả đều là những trường hợp em cứu người ta. Đây là lần đầu, em được người cứu vớt, người ấy lại là đồng hương. Cái số em may đến thế là cùng, Hường bẳt lấy câu nói của Liên:
— Thì cũng là duyên số cả đấy.
Nghe nói đến hai tiếng duyên số, Liên hơi chột dạ. Hình ảnh cuộc đắm thuyền đầu tiên cô đi với Vinh tiếp đó là cảnh hai người ở kề bên nhau trong cái đêm đáng nhớ ấy vụt hiện trong tâm trí cô. Nhưng cũng chỉ một thoáng thôi. Cái nhìn đằm thắm của chàng trai đã từng yêu cô say đắm, nay vẫn còn yêu cô đã đẩy lùi những hình ảnh ấy xa hơn một chút; cái nhìn ấy làm cho cô bối rối.
Chợt cô bạn Liên reo lên:
— Tổ thuyền cứu nạn đã ra kia!
Quả nhiên, có ba chiếc thuyền hiện ra trong vòng sáng quanh con tàu trước sự ngạc nhiên của mọi người Hường càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra Gia có mặt trong tổ cứu nạn trên biển đêm nay, hắn nhảy vài buớc ra tận mép chiếc mảng, chụm tay lên miệng kêu to:
— Lại đây! Có người ở đây!
Gia cũng đã nhanh chóng nhận ra Hường. Hắn cho thuyền vượt lên trước, hướng mũi vào chỗ Hường đang đứng vẫy.
Những người bị nạn vừa được cứu lên các mảng, dù còn nguyên vẹn hay bị thương đều lần lượt được đưa xuống thuyền.
Riêng Liên và bạn gái của cô không xuống chiếc thuyền của Gia vừa cập mạn mà đi tới chỗ chiếc thuyền có hai cô có dây néo vào một góc mảng Liên nhờ mọi người giúp sức lật ngửa chiếc thuyền, dốc nước ra hết rồi nhìn ngắm một chặp phương tiện vận tải của hai chị em còn nguyên vẹn, cô đấm vào lưng bạn:
— Xuống đi, bây giờ còn đòi ai cứu nữa.
Hai cô gái chọn hai chiếc dầm dự trữ trên mảng, xuất phát liền. Liên vẫn còn kịp vẫy chào Hường:
— Chào đồng hương nhé !
Thuyền của Gia hóa ra phải về không. Gia nhảy lên mảng vừa lúc có tiếng tổ trưởng ở mảng bên cạnh gọi với:
- Về đi thôi !
Gia nán lại:
“Làm một mồi thuốc lào đã ?
Hắn buớc rảo tới chỗ Hường, cầm ngay chiếc điếu cày, hạ giọng nói nhanh:
— Bắt liên lạc được với trung tâm qua máy H 71 rồi!
— Tôi cũng đoán thế. Anh xung phong đi cứu nạn trên biển là một hành động đáng khen. Rất kịp thời vì tôi đang rất cần truyền tin khẩn cấp mà không có người, Gia hất hàm về hướng hai cô gái đang mải miết chèo, hỏi lại:
— Còn cô Liên vừa gặp anh đấy ?
— Này, đừng có dính dáng gì đến nó mà nguy đấy nhé. Đổi khác lắm rồi.
— Thì tôi đã nói trước là đám nữ thanh niên xung phong này ghê gớm lắm. Mà tôi có quen biết gì họ mà dính với dáng ?
— Thôi được. Nhớ kỹ điều tôi sắp nói đây. Khối lượng hàng chủ yếu là chở bằng mảng, do người kéo tờỉ ẩn nấp ở các chân đảo. Mảng ngầm lại đi đường vòng tạo thế bất ngờ, hiểu chưa ? Truyền tin về trung tâm ngay.
— Ồ, lạ nhỉ. Chẳng nghe ai nói về chuyện ấy cả.
— Điểm thứ hai. Đừng mất công tìm kho của bộ đội ở hướng Nam vũng Hòn Lăng hoặc dọc mép núi sát rừng dương. Phải chuyển sang tìm ở phía Bắc, cách chỗ anh đang ở khoảng ba, bốn cây sổ.
— Thế họ mua thêm đường vận chuyển à ?
— Cái ranh ma của chúng nó mà cũng là điều bất ngờ đối với chúng ta là ở chỗ đó. Thôi, anh xuống thuyền ngay đi. Chú ý những chai rượu tôi sẽ gửi mua. Chú ý cái nhãn ở mặt sau ấy.
— Tôi hiểu.
Coi như hút xong mồi thuốc, H.24 đã truyền đạt xong cho H. 12 mọi chỉ thị cần thiết.
Thuyền của Gia cùng ra về một lần với thuyền của tổ trưởng ở mảng bên cạnh.
Chỉ hai đêm sau, máy bay tới đánh phá dữ dội khu vực Vũng Hòn Lăng nằm bên kia chiếc tàu vận tải.
Hường biết rằng trung tâm đã nhận được tin báo của hắn.
Đại úy Hạ, trạm trưởng biên phòng nhận được điện cấp trên triệu tập anh về ban chỉ huy chiến dịch vận tải họp. Trên điện có tin báo cho ông Nguyễn Thứ Gia biết, gia đình ông bị bom đêm hôm trước, hàm sập, được đơn vị công an vũ trang đóng gần đó đào bới, cứu được hai người bình yên, còn hai cháu nhỏ bị ngạt đã đem vào viện cấp cứu. Gia được báo tin, hốt hoảng cuống cuồng, chạy ngay đến gặp Hạ, xin phép đi thăm gia đình. Hạ động viên Gia bình tĩnh trở lại, rồi bảo em ta:
— Chỗ gia đình anh sơ tán nằm cạnh đường xe đi qua. Anh chuẩn bị chóng lên rồi đi cùng chuyến với chúng tôi. À, mà bây giờ có lẽ vợ con anh đều có mặt ở bệnh viện tỉnh. Chúng tôi sẽ chở anh tới đó.
Gia nghe nói, không ngờ được đi xe với cán bộ, vừa nhanh vừa đỡ độ đường, lặp đi lặp lại mãi lời cảm ơn rối rít.
Sau khi thả Gia ở cổng bệnh viện, Hạ cùng một đồng chí phái viên đi thẳng đến nơi họp ở điểm sơ tán của ban chỉ huy tỉnh. Hội nghị cán bộ mở rộng đánh giá thành tích giải phóng tàu hàng đạt 80 phần trăm khối lượng là một thắng lợi lớn, đặc biệt biểu dương sáng kiến của thiếu úy Vinh, sĩ quan biên phòng đã mở đường vận chuyển vượt qua hàng rào bom từ trường. Tỷ lệ hàng bị bom đạn phá hủy chưa đến mười lăm phần trăm. Những trường hợp thương vong do chủ quan không tuân thủ quy tắc phòng không và cự ly gián cách trong đội hình vận tải được kiềm điểm phân tích kỹ. Công tác bảo vệ tàu nước bạn và bảo vệ việc vận chuyển bốc dỡ hàng của các chiến sĩ biên phòng được biểu dương. Nhiệm vụ và kế hoạch công tác đợt nước rút hóa ra nặng nề hơn Hạ tưởng. Chỉ riêng việc rà soát lại công tác chấp hành chính sách với những gia đình có người hy sinh và những người bị thương cùng việc tổ chức thu hồi các bao hàng trôi dạt tản mát trên một vùng rộng lớn đã đủ ngợp rồi. Nói chung công tác tổ chức, điều hành chiến dịch là tốt nhưng dự kiến trong đợt cuối sắp đến, địch sẽ đánh phá ác liệt hơn, sẽ có nhiều âm mưu thủ đoạn mới hơn, tình hình đặt ra cho các đơn vị nhiều vấn đề mới, có vấn đề thực sự làm đau đầu cán bộ chỉ huy, ví như đối với Hạ là vấn đề bảo đảm đánh được biệt kích xâm nhập phá hoại ở vùng trọng điểm.
Tuy vậy, đến cuộc họp bàn về công tác an ninh vấn đề đưa ra còn căng hơn nữa. Đồng chí trưởng ban trinh sát báo cáo một số nét về tình hình địch đánh phá công khai, sau đó đi vào vấn đề chính:
— Một tuần trước khi chúng ta mở chiến dịch vận tải. Bộ đã thông báo cho biết có một đài lạ hoạt động trên dãy núi ngang phía tây vũng Hòn Lăng. Ta đã cho cán bộ bảo vệ và trinh sát đi rà soát kỹ nhưng vẫn chưa tìm ra vị trí đài phát. Phiên liên lạc cuối cùng của chiếc đài bí mật này tiến hành một đêm trước trận máy bay địch đánh phá bến ẩn nấp của tàu VS7, tiếp đó là vụ địch đánh vào khu kho nghi binh của ta ở giữa rừng dương. Từ đó, chiếc đài này im bặt. Không lâu sau đó, tổ trinh sát kỹ thuật bắt được làn sóng liên lạc của một máy vô tuyến bộ đàm, nói trực tiếp bằng mật mã với máy bay trực thăng. Cho đến nay, ta vẫn chưa dò ra vị trí tên địch bí mật xâm nhập khu vực trọng điểm. Đây là vấn đề đau đầu nhất của chúng ta trong công tác đánh địch bí mật. Chúng tôi đã đề xuất một kế hoạch tổng quát, trong đó nhiệm vụ của trinh sát các đồn, trạm biên phòng như sau...
Chờ cho trưởng ban trinh sát Tuyến trình bày, chỉ huy trưởng Giáp mới lên tiếng. Ông là một cán bộ chỉ huy có nhiều thành tích và kinh nghiệm đánh gián điệp biệt kích, được tỉnh ủy tín nhiệm. Trông dáng người có vẻ thư sinh, nói năng nhỏ nhẹ nhưng vốn là một công nhân cơ khí, ông có một bản lĩnh chỉ huy quân sự vững vàng, trí xét đoán sắc xảo và cách ứng xử có sức thuyết phục. Ông nói chậm rãi:
— RÕ ràng địch đã chú ý từ lâu tới địa bàn vũng Hòn Lăng, nơi tàu bè có chỗ trú ẩn tốt, thuận tiện giao thông đường bộ và đường biển. Chưa kể đến. phía sau dãy Hòn Ngang, ta có bố trí một giàn ra đa tầm ra. Chúng đã cài cắm người ở đó từ trước, muộn nhất là trước khi ta mở chiến dịch vận tải đột xuất. Tên gián điệp nằm vùng dùng máy thu phát PRC 15 theo phiên liên lạc định kỳ. Vì vậy, nó báo tin chính xác vị trí ẩn nấp của chiếc tàu hoa tiêu VS7. Chiếc tàu này thoát khỏi trận bom nhờ di chuyển vị trí kịp thời trước khi địch tiến hành phiên liên lạc tiếp theo. Còn vụ kho hàng nghi binh trúng bom có thể do địch nghiên cứu không ảnh của máy bay trinh sát, cũng có thể do có gián điệp chi điểm. Khả năng sau có nhiều hơn vì kho của ta bị rừng dương phủ kín. Việc xuất hiện máy bộ đàm vô tuyến ngay sau khi chiến dịch mở màn, chứng tỏ địch đã phái một tên gián điệp nữa xâm nhập vào địa bàn và hai tên đã bắt liên lạc được với nhau. Nếu chiếc máy H.71 này có sẵn thì phương thúc liên lạc giữa trực thăng và mặt đất phải được bắt đầu ngay khi ta triển khai chiến dịch. Các đồng chí chú ý, trước khi xuất hiện máy bộ đàm vô tuyến, địch không hề biết và chưa đánh phá mạnh vào tuyến vận tải dây cáp kéo mảng của ta. Bản ghi âm các buổi liên lạc bằng tiếng lóng của kẻ dịch mà ta đã lọc ra được nội dung đã xác minh điều đó. Ta có thể có mấy nhận xét về những tên xâm nhập. Một là chúng bị hạn chế sự đi lại do quy chế tổ chức chặt chẽ của ta nên tin của chúng không thật chính xác cụ thể về mục tiêu, thời gian xảy ra vụ việc mà chúng nắm được. Hai là địch dùng những ký hiệu con số rất gọn, dưới số 100 để chỉ điểm tọa độ trên một bản đồ tỷ lệ khoảng 1 phần nghìn. Ba là chúng đã phán đoán đúng hướng mục tiêu NZ, mục tiêu tối quan trọng của ta. Điều này cần hết sức chú ý vì kết quả và thắng lợi của toàn chiến dịch do sự an toàn của mục tiêu này quyết định. Tổng hợp toàn bộ tình hình, tỉnh ủy đã cho ý kiến địch có khả năng tung nhiều toán biệt hải tập kích mục liêu NZ. Nhiệm vụ trước mắt đối với chúng ta rất nặng nề. Phần công tác của Ban trinh sát, chúng tôi đã trao đổi riêng với anh Tuyến. Làm đúng kế hoạch, có khả năng sớm phát hiện ra bọn gián điệp xâm nhập. Riêng trạm biên phòng của đồng chí Hạ phải đặc biệt chú ý việc rà soát lại toàn bộ nhân công đang làm việc ở địa bàn phụ trách và công tác chặt chẽ với cán bộ trinh sát tỉnh. Làm theo kế hoạch, có trọng điểm, không làm tràn lan, ví dụ phải xem xét những người được địa phương chọn lựa trong số ngư dân dược thả về phải kỹ lưỡng hơn những người đã kinh qua công tác và chiến đấu ở hỏa tuyến. Phải dựa vào quần chúng mà thu thập nguồn tin, chớ có nghiệp vụ đơn thuần. Hướng truy tìm đối tượng anh Tuyên sẽ trao đổi với anh Hạ sau. Cả ba công tác bảo vệ địa bàn, chuẩn bị chống gián điệp biệt kích và đánh địch bí mật đều đã có phương án cụ thể, ban tham mưu và ban trinh sát sẽ gửi cho các đồng chí ngay sau cuộc họp này.
Khi mọi người đã đứng dậy, sắp sửa rời sở chỉ huy, Hạ được chỉ huy trưởng gọi ở lại làm việc thêm.
Một đồng chí cán bộ chính trị bước vào trình trung tá Giáp một văn bản để xin chữ ký. Ông xem xong, gọi anh cán bộ lại gần mình bảo anh ta, giọng nói tỏ ý không bằng lòng :
— Văn bản khen thưởng chỉ có mấy dòng mà lẫn lộn tên tuổi lung tung thế này, tôi chưa ký được. Làm lại đi. — Báo cáo anh, đúng cả đấy ạ. Đợt này có cả thảy sáu người được ban chỉ huy tỉnh tặng bằng khen.
— Có sáu người mà sai mất hai tên, cậu nghĩ sao?
— Báo cáo, đúng là có hai đồng chí cùng cấp thiếu úy, cùng mang tên Vinh ạ !
— Phải nói thêm : cùng quê Thái Bình. Đúng không ? — Dạ, đúng. Thủ trưởng cũng biết rồi mà.
Trung tá Giáp chỉ vào trang giấy đánh máy:
— Tôi nói cho cậu rõ: đồng chí thiếu úy Đặng Văn Vinh là sĩ quan mới ra trường, đầu năm nay đã được thưởng huân chương trong trận đánh biệt kích ở Lèn Xanh, mới được điều về trạm phó trạm... chỗ anh Hạ.
Vậy mà cậu viết lên là Đặng Viết Vinh. Còn thiếu úy Đặng Viết Vinh ra trường trước một năm, vốn là đội trưởng công tác cơ sở vùng bờ biển, sáu điều lên miền Tây, trúng chiến sĩ thi đua năm ngoái là anh Vinh khác.
Có lẽ vì lính biên phòng hết lên rừng lại xuống biển nên cậu nhầm chăng ?
Đồng chí trợ lý cố chống chế:
— Báo cáo thủ trưởng, đồng chí nào cũng nhận một tấm bằng khen giống nhau. Thủ trưởng cứ giao đúng người là được.
Trung tá Giáp phá lên cười:
— Ông ơi, ông làm thế để rồi gia đình Đặng Văn Vinh quê ở xã Minh Khai, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình sẽ thấy trên tấm bằng con em họ gửi về lại ghi quê ở xã Hồng Sơn huyện Hưng Nhân, rồi họ mới chửi anh nào đó, tức là tôi đây, quan liêu ký bừa dưới một tấm bằng khen.
Đến đây, ông nghiêm nét mặt lại, tiếp tục nói:
— Cậu làm trợ lý cán bộ mà chỉ nắm con người trên giấy tờ, thậm chí làm việc qua giấy tờ cũng không xong, chỉ khổ cho người chỉ huy. Thôi mang về làm lại, Khi trong phòng chỉ còn hai người, chỉ huy trưởng nói với Hạ :
— Giấy đề xuất của anh tôi đã xem và đã có sự trao đổi tập thể rồi. Về trường hợp cậu Vinh ấy mà.
- Vâng. Tôi đang có ý định báo cáo lại với thủ trưởng về việc khen thưởng cậu Vinh. Đề nghị gác lại, — Cấp trên đã duyệt, cậu cứ chấp hành. Vinh xứng đáng được khen. Riêng việc làm thủ tục nhập cảnh cho tàu bạn chu đáo, cùng bác hoa tiêu dẫn tàu vào vùng an toàn, vượt qua thủy lôi từ trường cũng đáng khen rồi. Cậu ấy đã nắm chắc lượng hàng và các chủng loại hàng, đề xuất được những yếu tố mới cần thiết cho việc bốc dỡ hàng nhanh. Còn cái sáng kiến dùng thuyền nan vượt bom từ trường, chính đồng chí bí thư tỉnh ủy điện khen ngay hôm ấy, anh cũng biết rồi.
— Báo cáo thủ trưởng, nói cho cùng, dùng thuyền nan vượt bom từ trường là kinh nghiệm dân dã trong chiến tranh, nhiều nơi đã làm còn chở hàng trên thuyền nan ở vũng Hòn Lăng là công việc của hàng mấy trăm người lao động. Ta khen Vinh thì cứ khen, nhưng...
Chỉ huy trưởng cắt ngang:
— Nhưng gì ? Hàng trăm người làm, có thật đấy, kinh nghiệm dân dã, đúng thế đấy. Nhưng cái đầu nào nghĩ ra cách vận dụng? Anh thừa biết, theo kế hoạch cũ, ban chỉ huy chiến dịch đã huy động hàng trăm thuyền ván, tốn bao nhiêu là công sức, sau rồi phải bỏ. Vậy có cái đầu nào nghĩ ra chuyện thuyền nan tưởng chừng đơn giản ấy ?
Ngừng một lát, ông nói tiếp:
- Tôi vừa được báo cáo, chính cậu Vinh đề xuất ra ý định đầu tiên về phương thức kéo hàng bằng mảng luồng đấy... Còn xem.
Hạ ngồi im nghe Giáp phán một chặp rồi nói có ý thanh minh:
- Báo cáo thủ trưởng. Việc khen Vinh do đơn vị đề xuất, tôi không có ý kiến gì, nhưng hoàn cảnh của Vinh bây giờ đã khác.
Trung tá Giáp:
— Bây giờ ta trao đổi về bản đề nghị của anh. Tôi hỏi thêm : chi bộ đã thông qua chưa ?
— Chưa ạ. Chúng tôi làm phần chính quyền.
- Khiển trách cũng là một hình thức kỷ luật, anh lấy danh nghĩa thủ trưởng làm một mình thế nào được? Phải đảm bảo nguyên tắc tổ chức của Đảng chứ! Tôi lại hỏi anh: bản tự kiểm điểm của cậu Vinh ở đâu, sao không thấy kèm theo văn bản của anh ?
— Báo cáo, cậu ấy nhất định không chịu làm bản kiểm điểm, cứ một mực nói rằng tình yêu của cậu ấy với Cô Liên là chính đáng, không việc gì phải kiểm điểm. Với tư cách là bí thư chi bộ, tôi đã nhiều lần nói rõ cho cậu ấy biết rằng không ai phản đối tình yêu của anh em, nhưng một sĩ quan biên phòng yêu một cô theo đạo thiên chúa là không được. Cậu này mới bập vào một cái là yêu ngay, nào đã quen biết lâu la gì, nào đã tìm hiểu đến nơi đến chốn cho cam!
Chỉ huy trưởng cười phá lên :
— Thì người ta chẳng nói tình yêu đến như chớp giật đó hay sao ?
— Báo cáo thủ trưởng, chẳng hiểu yêu đương chớp giật ra sao, chứ lúc tôi nói cho cậu Vinh biết rằng cô Liên là tín đồ thiên chúa giáo, cậu ta ngạc nhiên đến độ mặt cứ thuỗn ra. Nhưng cũng chỏ trong chốc lát, ngay sau đó cậu ấy vẫn khăng khăng không chịu dứt bỏ tình yêu.
— Và anh quyết định đề nghị khiển trách chứ gì?
— Vâng. Người ta nói “quá tam ba bận”, đằng này phải đến năm, sáu cuộc gặp gỡ tay đôi với cậu ta về chuyện ấy.
Chỉ huy trưởng hạ giọng, trầm ngâm nói:
— Hơi vội vã quá đấy! Phải kiên trì thuyết phục, anh Hạ ạ !
Rồi ông ngước mắt lên, nhìn lơ đãng rào khoảng không trước mặt, miệng lẩm bẩm như nói một mình:
— Chuyện này rơi vào dạng phức tạp đây. Điều lệ Đảng không thấy ghi cấm đảng viên lấy người có đạo; hiến pháp đề cao tự do hôn nhân. Lần đầu tiên, mình mới phải xử lý một mối quan hệ kiểu này. Tôi không chuyên về công tác Đảng, xin hỏi anh, có văn bản hướng dẫn nào của cấp trên nói đến mối quan hệ yêu đương hoặc hôn nhân của đảng viên không?
— Báo cáo thủ trưởng tôi chưa thấy một văn bản nào nói thẳng vào mục ấy nhưng cứ vận dụng nhiều quy tắc tổ chức khác, suy ra là có. Thủ trưởng tính xem, tuyển một người chiến sĩ biên phòng thôi đã phải nghiên cứu lý lịch bao đời của anh ta. Với một sĩ quan lại phải xem xét kỹ hơn.
— Không phải thế, tôi không nói về nguyên tắc nhân sự. Những khoản ấy, chúng ta phải chấp hành nghiêm túc. Tôi muốn nói về cuộc sống tình cảm riêng tư của từng con người. Anh định đề cập vấn đề liên quan chứ gì ?
Không đợi Hạ trả lời, chỉ huy trưởng nói tiếp, giọng trầm ngâm:
— Ôi có biết bao nhiêu người trong chúng ta khốn khổ chỉ vì hai chữ liên quan ấy. Mà cuộc sống cũng kỳ lạ thật. Nó có quy luật vận động của nó. Có biết bao nhiêu đảng viên là cán bộ hẳn hoi, cuối cùng đi lễ nhà thờ trở lại và, cũng có biết bao nhiêu người theo đạo trở thành đảng viên cộng sản. Cuộc sống là thế đấy. Anh cắt dòng chảy của nó, không ổn đâu. Tôi nghĩ tình yêu giữa cậu Vinh với cô Liên cũng nằm trong quỹ đạo của sự vận động ấy.
Chợt ông vỗ vào vai Hạ :
— Này. Tôi có nghe nói về cô gái thanh niên xung phong dũng cảm ấy Hay lắm! Biết đâu sau này cô ấy chẳng trở thành đảng viên? Anh nghĩ sao, anh Hạ?
Hạ há hốc mồm, hỏi lại:
— Thủ trưởng có đi quá xa không đấy?
— Ấy là tôi nói có thể... Mà thôi, chuyện ấy gác lại. Còn chuyện ký giấy khiển trách Vinh về quan hệ yêu đương với cô Liên, tôi thấy kỳ quá. Anh hơi lạm dụng quyền của người chỉ huy đấy.
— Tôi cũng chỉ muốn gói gọn vấn đề trong phạm vi hệ thống chỉ huy mới làm văn bản và chờ sự quyết định của thủ trưởng.
— Tôi không ký, có thế thôi. Vả lại Thường vụ Đảng ủy cũng chưa có thì giờ trao đổi để cho chỉ thị về việc này. Còn anh, hãy tập trung lo giải quyết những công việc cấp bách của trạm như ta đã bàn. Thôi nhé.
Trước khi chia tay, trung tá Giáp còn dặn thêm:
— Chuyện gia đình ông Gia nào đó gặp tai nạn, anh chú ý theo dõi và giúp đỡ nhé. Có thể đề nghị với đơn vị bạn cho ông ta ở lại bệnh viện chăm sóc vợ con. Cho rút hẳn khỏi danh sách phục vụ chiến dịch cũng được.
— Rõ. Tôi cũng đã có dự định như vậy.
Đêm hôm sau, trên đường về Hạ cho xe ghé vào khu bệnh viện sơ tán, đón Gia. Anh thăm hỏi sức khỏe gia đình Gia xong, để lại một gói quà nhỏ gồm đường, sữa tại giường bệnh của hai cháu nhỏ. Anh báo cho Gia biết chủ trương của cấp trên cho phép Gia ở lại bệnh viện một thời gian nữa. Bà vợ Gia cứ xuýt xoa cảm ơn mãi về sự quan tâm của đơn vị, đặc biệt cảm ơn việc cứu sập kịp thời của các chiến sĩ biên phòng đóng quân ở trong xóm. Gia không nói gì nhưng cứ nhìn anh ta nước mắt rơm rớm. Hạ biết rằng anh ta đang ở trong trạng thái xúc động. Anh chia tay tạm biệt Gia cùng gia đình. Chợt thấy Gia nắm lấy tay anh, bàn tay anh ta run run :
— Thủ trưởng để cho tôi trở lại địa bàn.
— Anh cứ yên trí. Tôi sẽ báo cáo xin phép đội trưởng của anh. Một lần đi là một lần khó...
Lúc này, nước mắt đã ráo hoảnh, Gia nằn nì:
— Công ơn bà con và các anh cứu sống gia đình tôi sâu nặng lăm. Hiện giờ, cả hai cháu nhỏ đều đã hồi phục. Có bà nhà tôi ở lại là đủ rồi. Tôi chẳng biết lấy gì để đền đáp ơn nghĩa, xin cho tôi được tiếp tục phục vụ ở địa bàn, dù có nguy hiểm chết chóc cũng cam lòng.
Câu nói khẳng khái của Gia tác động mạnh đến bà vợ. Bà đứng lên nói với Hạ, xin cứ để chồng bà làm đúng nghĩa vụ và lương tâm.
Dọc đường về trên xe. Gia chẳng nói câu nào. Thỉnh thoảng nghe tiếng anh ta thở dài, nét mặt thờ thẫn. Hạ ngồi ở ghế trên, một lần quay tại phía sau, bắt gặp Gia ở trong trạng thái thờ thẫn như người mất hồn, liền hỏi:
— Lại nhớ vợ, thương con phải không ? Tôi chẳng đã bảo anh ở lại đấy sao? Dù nhân viên bệnh viện tận tình thật đấy, dù có mặt vợ anh ở bên cạnh mấy cháu thật đấy, nhưng dù sao có người đàn ông làm trụ trong gia đình lúc này cũng yên bụng hơn. Vậy mà anh chẳng chịu nghe cho.
*
Ngay trong đêm trở về trạm biên phòng. Hạ triệu tập cấp ủy, bàn phương hướng lãnh đạo tổ chức thực hiện mệnh lệnh của cấp trên. Họp xong trời vừa sáng. Anh sang hầm của Vinh, đúng lúc Vinh vừa đi kiểm tra bến bãi trở về. Vinh tiếp Hạ không mấy vui vẻ, thái độ căng cứng, sẵn sàng đối thoại lần nữa. Hạ mở đầu câu chuyện:
— Sáng nay sẽ có cuộc họp giữa ban chỉ huy và cán bộ các đội công tác. Tám giờ, cậu đến nhé.
— Tùy anh muốn đưa vấn đề của tôi đến cấp nào thì đến. Tôi không thay đổi ý kiến đâu.
Hạ xua tay, nói ngay cho Vinh yên tâm:
— Ấy chết, họp bàn triển khai công tác khẩn cấp, chứ không phải để đấu cậu đâu. Còn việc của cậu, thì đây, ban chỉ huy tỉnh đã ký quyết định rồi.
Vinh tái mặt:
— Các anh nghiệt ngã, thẳng tay trị tôi ư? Được, tôi chấp nhận!
— Bình tĩnh, anh bạn. Xem đây.
Hạ rút tấm bằng khen trao cho Vinh.
Vinh cầm tấm bằng trong tay, sững người. Anh ngước nhìn Hạ, cái nhìn dịu hẳn đi. Hạ nói:
— Đến hội nghị cán bộ sẽ công bố chung. Tôi đưa trước cho cậu. Còn chuyện ấy ta sẽ có dịp bàn tiếp.
Bây giờ, công tác sắp đến nặng lắm, chúng ta phải tập trung sức mà làm.
Vinh chẳng nói được câu nào. Cho đến khi Hạ đã ra khỏi hầm, anh vẫn ngồi yên một chỗ, trầm ngâm nghĩ ngợi, không nhớ đến cả việc treo súng lên vách hầm như thường lệ anh vẫn làm mỗi khi đi công tác về.
Tấm bằng khen đem lại một niềm vui nho nhỏ, làm dịu bớt những suy tư căng thẳng đang dày vò anh suốt mấy ngày đêm liền. Thật là bất ngờ đối với Vinh khi chính tay Hạ trao phần thường cho anh.
Vinh những tưởng Hạ đến căn hầm của anh để tiếp tục câu chuyện bỏ dở giữa hai người. Vinh nhớ lại lần đầu tiên anh nói chuyện với Hạ sau khi ra trạm xá, vì tình yêu giữa anh với Liên, Hạ chẳng nói gì. Hôm sau Hạ chỉ nhắc anh đang thời kỳ chiến dịch vận tải căng thẳng, cố gắng đừng vì chuyện yêu đương mà sao nhãng công tác. Nhưng chỉ vài hôm sau nữa, Hạ chủ động gặp Vinh, báo cho anh biết Liên là người có đạo và tuyên bố dứt khoát chuyện yêu đương của Vinh vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng, của lực lượng biên phòng Hạ nói:
— Cậu còn trẻ, mới hăm bốn tuổi, tương lai còn dài rộng. Vạ gì đâm đầu vào những mối quan hệ xã hội phức tạp, rồi chẳng phải đầu, lại phải tai, cuối cùng chui vào hũ. Quê hương Thái Bình thiếu gì gái đảm, gái xinh mà cậu phải lao vào con gái công trường, lại là một cô gái theo đạo? Lửa mới bén, dập tắt còn dễ. Là chỗ anh em thân tình, mình khuyên cậu.
Thoạt đầu, Vinh cố giãi bày hoàn cảnh hai người gặp gỡ nhau, trong thời gian quen biết không dài, nhưng sự đồng cảm rất sâu sắc và chân tình. Anh nói khá dài, càng nói càng thấy mình không đủ lời để bộc lộ mối quan hệ tình cảm sâu nặng, càng không thể diễn đạt được những rung động kỳ lạ đã làm xao xuyến trái tim anh sau buổi gặp nạn trên biển. Vả lại, câu chuyện quan hệ với Liên mà anh thổ lộ với đồng chí bí thư chi bộ cũng chỉ cốt để lãnh đạo biết và ghi nhận một nét mới trong sinh hoạt của đảng viên. Anh muốn rằng quan hệ giữa anh với Liên vốn trong sáng cần được tập thể biết; còn anh, anh sẽ giữ được tư thế đàng hoàng, tự nhiên, không để chi bộ phải phiền hà về sau trong công tác đảng viên.
Hạ cứ xoáy mãi vào một điểm, điểm ấy anh đa nhắc đi nhắc lại với Vinh, cố ý nhấn mạnh, nhưng chẳng thấy Vinh đả động gì đến. Cuối cùng, Hạ hỏi Vinh, giọng hơi gay gắt:
— Tôi nghe hết, tôi hiểu hết, nhưng cậu hãy trả lời đi, cô ấy là người có đạo, còn cậu là một đảng viên cộng sản, làm sao cậu có thể quan hệ luyến ái với cô ấy được? Chẳng gì thì cậu cũng là một sĩ quan đang được tin cậy trong một lực lượng được tin cậy. Cậu không hề suy nghĩ về việc ấy à ?
Vinh đáp lại, giọng nói chậm nhưng biểu lộ một lòng tự tin cao:
— Anh Hạ ạ! Lần đầu nghe anh báo cho biết chi tiết tiểu sử của Liên, quả tình tôi có ngạc nhiên, vì tôi chưa tìm hiểu sâu điểm ấy. Anh tính xem, tình yêu nào cứ phải đi đúng trình tự từng bước từ A đến B rồi mới đến C. Có khi nó bắt đầu từ z như trong trường hợp của tôi: Yêu trước, tìm hiểu sau.
— Cậu nói những A và z, cho thêm rắc rối làm gì?
— Là tôi nói tình yêu đi lắm đường lắm, nhiều khi nó xé rào.
— Thì cứ nói thẳng đi xem nào!
— Xin được bộc lộ thành thật: Đến bay giờ tôi cũng chẳng quan tâm gì lắm tới mục tiểu sử ấy của Liên. Anh nhớ chứ, cái mục thứ tư trong các bản kê khai lý lịch, sau mục “quốc tịch”ấy. À, không đúng, nó đứng sau mục “dân tộc”.
— Chính trong trường hợp của Vinh bây giờ, chuyện lý lịch càng là vấn đề chủ yếu.
Mấy lần liên tiếp, Vinh và Hạ cũng chỉ lặp lại có chừng ấy lý lẽ. Cho đến lần gần đây nhất, Vinh nổi nóng, nói:
— Vậy thì từ nay trở đi, anh cứ tập hợp một chồng lý lịch các cô gái mà anh thấy là đủ tiêu chuẩn lấy lính biên phòng, trong đơn vị có anh con trai nào chưa vợ, anh mời họ đến chọn rồi ghép luôn cho họ để họ đỡ mất công, có hơn không?
Hạ vốn thuộc loại cán bộ nghiêm nhưng có bản lĩnh ứng xử với những tay ngang ngạnh, cả với những “lô cốt tư tưởng tiêu cực” như anh thường gọi những đồng chí không chịu nghe theo lời của lãnh đạo.
Nếu như không có chuyện Vinh yêu Liên thì dưới con mắt Hạ, trạm phó Vinh là một sĩ quan tràn đầy triển vọng. Khi được cấp trên bổ sung cho trạm 601 một cán bộ trẻ được thử thách nhiều trong các trận đánh biệt kích ở miền tây, Hạ rất phấn khởi. Trong các phương án bảo vệ chiến dịch vận chuyển hàng đột xuất, có phương án đối phó với bọn biệt kích vũ trang xâm nhập. Vinh vừa về đến đơn vị mới, Hạ đem đề tài này ra trao đổi ngay với anh Hạ hơn Vinh đến hàng chục tuổi nhưng rất phục khả năng của người sĩ quan trẻ tổ chức thực hiện các công tác cụ thể, đúng phong cách của một anh sĩ quan đã qua nhà trường chính quy. Sau đợt tiếp nhận các đơn vị thanh niên xung phong, Hạ nghĩ về Vinh: “Tay này về sau làm công tác tham mưu khá phải biết! Còn đi xa!” Cảm tình của Hạ đối với Vinh bộc lộ công khai rõ rệt. Trong những buổi giao ban, Hạ thường gắn liền những tiến bộ trong việc quản lý đơn vị và công nhân vận tải với những bước triển khai kế hoạch có thể do Vinh phụ trách. Hạ vui mừng thực sự khi nghe Vinh thổ lộ tình yêu đối với Liên. Hôm ấy, anh giữ thái độ im lặng bề ngoài, chỉ vì không muốn Vinh quá sa đà chuyện riêng để ảnh hưởng tới nhiệm vụ. Trong bụng, anh nhủ thầm : “Đẹp đôi lắm!Nhưng đang thời buổi chiến tranh biết rồi đây ai còn, ai mất, đeo bòng vào chỉ tổ làm khổ nhau” Hạ sốt sắng cho người đi tìm hiểu lý lịch của Liên. Khi được biết Liên có đạo và đã có người yêu cũng theo đạo. anh ta là ngư dân bị địch bắt, Hạ giật thốt mình : “Vấn đề phức tạp rồi đây!”. Anh thương Vinh và cố tìm cách kéo Vinh ra khỏi một mối quan hệ xã hội phức tạp. Bực một nỗi, mọi điều hơn lẽ thiệt, anh nói ra. Vinh bỏ ngoài tai hết. Người sĩ quan trẻ chưa trải đường đời không thấy hết gai góc trên chặng đường trước mắt. Riêng Hạ, anh thấm thía lắm. Cũng là vấn đề“liên quan”, nhưng là chuyện không đâu. Ngày hòa bình lập lại năm 1954, Hạ có người anh ruột lâu đã làm ăn trong Đà Nẵng, lập gia đình ở đấy nên không về quê. Thỉnh thoảng, bố mẹ Hạ vẫn nhận được bưu thiếp của con trai từ trong ấy gửi ra. Đến năm 1956 thì bặt tin. Chẳng biết từ nguồn tin nào, sau dó có lời đồn trong dân làng rằng anh ruột Hạ đang giữ một chân trong cơ quan công dân vụ của chính quyền Diệm -Nhu ở Đà Nẵng. Lời đồn như thật. Gia đình Hạ rơi vào hoàn cảnh liên quan đến một kẻ chống phá cách mạng. Bố Hạ đang là bí thư chi bộ phải rút ra khỏi chi ủy, đến cải cách ruộng đất thì xóa luôn danh hiệu đảng viên. Hạ lúc bấy giờ đang ở trong quân đội cũng bị vướng vào kết luận thẩm tra lý lịch ở địa phương. Anh không nhúc nhích nổi khỏi cấp quân hàm thượng úy mười ba năm liền. Mãi đến năm 1968, sau tết Mậu Thân, có một đoàn cán bộ nội thành Đà Nẵng ra công tác ở miền Bắc, tổ chức mới xác minh được rằng lâu nay, người anh trai của Hạ chỉ là một người thợ dệt bình thường, chẳng hề có quan hệ gì đến bộ máy ngụy quyền. Vấn đề liên quan của anh và gia đình anh từ đó mới được giải tỏa. Tuy vậy, bao nhiêu năm sống trong cảnh nửa tin nửa ngờ, Hạ đã biến đổi thành một con người khác. Anh luôn luôn có ý thức giữ mình, thứ tha. Những vấn đề thuộc về lập trường, quan điểm, anh công khai, lớn tiếng tỏ thái độ dứt khoát. Thậm chí gay gắt nếu gặp trường hợp giải quyết việc của người khác. Điểm nhạy cảm nhất trong cách tư duy của anh là ranh giới địch ta, ranh giới giai cấp. Anh cố chứng minh rằng anh luôn luôn là một con người vững vàng, không khoan nhượng. Mặc dù rất mến Vinh, anh dứt khoát không chịu theo ý Vinh. Anh không muốn chi bộ và đơn vị trạm vướng vào một vụ phức tạp về quan hệ chính trị, xã hội. Dưới con mắt anh, Vinh quả là tay điếc không sợ súng. Lần cuối cùng gặp nhau trao đổi ý kiến, Hạ đã nói hết mọi nhẽ thiệt hơn về vấn đê“liên quan”. Thấy Vinh ngồi im lặng nghe, anh tưởng Vinh chịu tiếp thu. Không ngờ, khi anh vừa dứt lời, Vinh chậm rãi nói lại: “Anh Hạ này, theo như anh thì người cách mạng phải tránh mọi quan hệ xã hội phức tạp vì không thề để cho người xấu lôi kéo mình vào bẫy chứ gì? Thế tại sao anh không nghĩ rằng người cách mạng cần dẫn dắt người xấu trở lại con đường sáng ? Họ có khả năng làm việc đó cơ mà! Tôi không nói trường hợp Liên đâu nhé. Tự cô ta đã khẳng định được phẩm chất cách mạng của mình. Đã giữ cho Vinh khỏi “trượt ngã”, Hạ đã trực tiếp nói chuyện với Liên. Cô gái im lặng nghe anh nói, luôn nhìn anh với thái độ thăm dò. Hạ chỉ yêu cầu Liên tập trung ý chí hoàn thành nhiệm vụ, tạm gác chuyện yêu đương lại. Anh không đả động gì đến chuyện đạo, đời cả. Nhưng Liên dường như đoán được ý nghĩ của Hạ, hỏi lại anh một câu: “Có phải vì anh Vinh là đảng viên, còn em là người có đạo mà anh đến nói chuyện với em chăng?”. Hạ nắm lấy câu nói ấy, hỏi luôn: “Vậy nhà thờ có đồng ý cho Liên tìm hiểu và xây dựng với một đảng viên không?” Anh tưởng dồn Liên vào thế bí Không ngờ, Liên đáp ngay: “Anh chẳng phải lo cho em. Tuổi trẻ chúng em ngày nay, các anh không thể nào hiểu nổi đâu!” Trước khi kết thúc cuộc nói chuyện. Hạ còn muốn nhắc lại một lần nữa yêu cầu Liên buông tha Vinh. Liên gục đầu xuống gối, khóc rưng rức. Hạ tưởng đã xuôi, nhưng khi thấy Liên ngửng mặt lên, vẻ nhẫn nhục đã biến mất trên gương mặt vẫn dịu hiền của cô, Hạ biết là không ăn thua rồi. Liên chậm rãi nói với anh: “Anh Hạ ạ, anh có thể đặt yêu cầu ấy ra với anh Vinh, cấp dưới của anh, để anh ta liệu dường xử sự. Còn đối với em, anh để cho em được yên”. Chính vì những chuyện rắc rối ấy, thái độ của Hạ đối với Vinh và Liên ngày càng quyết liệt.
Sau cuộc họp cán bộ, Tuyến đến gặp Hạ để bàn công tác. Chưa đi ngay vào công việc, Tuyến nói về chuyện Vinh và hỏi Hạ:
— Tại sao anh làm căng thế. Ở trên tỉnh nhiều người ủng hộ ý kiến của anh nhưng chẳng mấy ai tán thành mức độ xử lý của anh. Có gì mà làm ghê thế ?
— Thì tôi cũng giữ lấy cái đầu của tôi. Biết đâu về sau xảy ra chuyện gì lại bảo anh này hữu khuynh, anh này có liên quan...
Chỉ trao đổi vài câu thế thôi. Hạ bắt đầu bàn chuyện nghiệp vụ. Tuyến giở sổ tay, chậm rãi trình bày:
— Đêm vừa qua, cán bộ ban nghiệp vụ chúng tôi phối hợp với trinh sát địa bàn của trạm đã nghiên cứu cán bộ, công nhân và dân công, thanh niên xung phong hiện đang có mặt ở khu vực cảng dã chiến này..
Mới nghe đến đây, Hạ liền hỏi lại, trong giọng nói lộ vẻ ngạc nhiên pha chút nghi ngờ:
— Anh cùng vè đây với tôi trong một chuyến xe cơ mà. Sao nhanh thế?
— Anh ngạc nhiên lắm à ? Có gì đâu. Tình hình cơ bản về nhân sự, ta nắm từ đầu. Lần này chỉ tập trung vào trọng điểm Các chi ủy viên phụ trách dân công địa phương, các tổ trưởng phòng gian bảo mật đã giúp anh em chúng tôi rất nhiều. Anh xem, đã lên được bảng thống kê phân loại quần chúng như thế này.
Hạ cầm bảng thống kê, đọc suốt từ đầu chí cuối rồi hỏi Tuyến:
— Anh thống kê cả lực lượng biên phòng?
— Không trừ một ai. Yêu cầu nghiệp vụ đòi hỏi phải làm như vậy.
Hạ lại đọc kỹ hơn đoạn ghi chép về đơn vị của anh,rồi hỏi tiếp:
— Mục liên quan dành cho đơn vị trạm chúng tôi để trống không thế này ư ?
— Đúng vậy!
— Không đúng. Cậu Vinh có liên quan đến một người theo đạo là cô Liên. Sao anh không cho lên bảng thống kê. Lọt và sót nhé!
Tuyến đập mạnh vào cánh tay Hạ, cười xòa:
— Nói liên quan đến người có đạo như anh thì dễ thường cả nước này đều lên hồ sơ được hết.
— Tôi nói chuyện cụ thể : Cậu Vinh yêu cô Liên. Yêu khác với mọi quan hệ bình thường có đúng không nào?
xong hồ sơ, tài liệu liên quan đến hai trăm năm mươi I - Đúng theo nghĩa quan hệ tình cảm, không đúng theo nghĩa địch, ta.
— Biết đâu đấy.
Hạ buông lửng một câu rồi cúi xuống đọc tiếp phần kết luận, nhận định. Anh trao lại văn bản cho trưởng ban trinh sát, gật gù nói:
— Làm chắc đấy! Bản này chứng minh hướng đi của anh Giáp là đúng và có nhiều triển vọng.
— Từ toàn bộ bản phân tích anh đã xem, bây giờ có hai vấn đề đáng lưu tâm nhất. Một là trong sống dân được thả gần đây, và được địa phương lựa chọn giới thiệu tham gia chiến dịch này, có khả năng một tên nào đó đã đầu hàng địch, đã nhận nhiệm vụ chúng giao cho thâm nhập địa bàn. Ta giả định hắn đã mang máy bộ đàm cho tên gián điệp địch đã cài cắm từ trước. Cứ cho là chúng đã tung vào địa bàn chúng ta hai tên. Tên vào trước ta đặt ký hiệu là X1, tên vào sau ký hiệu là X2. Để có lượng thông tin về tên X2, chúng tôi đã gặp bác Nghịu. Qua câu chuyện bàn trà tào lao, ta tìm hiểu kỹ sinh hoạt từng người khi còn ở trại. Hầu hết, họ sống và lao động tập thể, ít nhất cũng đi thành nhóm hai người. Chỉ có bốn người đi một mình gọi là đi sửa nhà,đi làm vườn hoa, di chuyển hàng quân tiếp vụ... trong bốn người ấy có hai người đang làm việc trên địa bàn ta. Đó là anh Ôn và anh Hường. Bác Nghịu có kể chuyện về anh Hường và khen anh ta lập trường đấu tranh khá lắm.
Hạ ngắt lời Tuyến :
— Có, có. Anh Hường hiện là đội phó đội 20 đang phục vụ ngoài tàu. Tay này khá, đúng như bác Nghịu nói. Vừa rồi, anh ta đã dũng cảm bơi ra biển, cùng chiến sĩ chúng tôi cứu người bị bom đánh trúng thuyền.
Tôi đã cho vào danh sách đề nghị bên giao thông khen thưởng. Có lẽ nào...
— Được rồi. Nay mai anh bố trí cho cán bộ ban chúng tôi ra ngoài tàu một chuyến. Còn anh Ôn?
— Cũng đội 20 nhưng là thuyền viên.
— Thuyền viên nghỉ trên bờ. Chúng tôi tự liệu.
Tuyến ngừng một lát nói tiếp:
— Vấn đề thứ hai là những người ở ngay địa bàn này, nhưng ban đêm được phép về nghỉ ở nhà.
— Ý anh định nói những người không sống tập thể trong giờ nghỉ ? Ở đây có năm người như vậy.
— Số này cũng đáng chú ý. Họ có nhiều khả năng hành động độc lập và tương đối tự do. Chúng tôi chú ý đến anh Gia, người có gia đình bị bom vừa qua, ở tổ cứu sập.
— Phải, anh Gia cùng đi một chuyến xe với chúng ta từ bệnh viện tỉnh trở về. Sau vụ tai nạn, tinh thần anh ta xuống quá. Anh thấy thế nào ?
Tuyến hơi chau mày suy nghĩ; một lát mới nói:
-Anh Gia cũng là một ngư dân được địch thả về đợt đầu năm và là người duy nhất trong số năm người được nghỉ đêm tại gia đình. Cũng đáng chú ý đấy. Đại khái dự kiến của bài toán là thế này : X1 có mặt ở đây từ trước, dùng điện đài PRC 25. Máy bộ đàm xuất hiện sau khi X2 xâm nhập. X2 không trực tiếp liên lạc với trung tâm địch mà giao việc cho X1. Giữa hai tên này phải có một phương thức liên lạc nào đó mà chúng ta phải tìm cho ra. Còn X1 và X2 là ai, vẫn còn là một ẩn số, ta đang mò dần. Cứ khoanh hẹp đối tượng trong chừng ấy người đã. Bây giờ tôi đề nghị anh giúp đỡ cho một việc như sau. Kể từ đêm nay, các anh phổ biến một kế hoạch công tác nào đó, yêu cầu mọi người ngày đêm thường trực tại hiện trường. Làm thật nhẹ nhàng hợp lý. Được chứ?
— Được quá đi chứ? Tôi hiểu ý anh rồi.
Hạ cười. Tuyến cũng cười:
— Đơn giản thế thôi, ta thử làm bài toán loại trừ để biết ai là người có khả năng truyền tin cho bọn tình báo ngồi trên máy bay trực thăng. Bước đầu, cứ thế đi nhé!
— Xin hết sức ủng hộ các anh! Có gì cần thiết, xin anh cứ trao đổi với chúng tôi. Sĩ quan trinh sát của chúng tôi còn yếu lắm!
Tuyến bỏ giấy tờ vào xắc cốt, đeo chéo ngang vai. Khi bắt tay Hạ, anh không quên nhắc lại chuyện tranh cãi ban nãy:
— Anh có thắc mắc gì về việc chúng tôi không đi sâu vào những tín đồ thiên chúa giáo của anh không? Không à?... Thế đấy, chúng tôi quen xét vấn đề trên góc độ địch, ta theo phương pháp phân tích khoa học, chứ không đứng vào góc độ tôn giáo đâu nhé.
Anh còn nói thêm:
— Giáo dục có ai đó lọt vào kính ngắm của chúng tôi thì đó là do nhân thân và hành vi của họ, cụ thể là do hành động phản cách mạng của họ. Lúc đó, vấn đề khác đi rồi.
Trận mưa cuối mùa làm rẽ cát. Bước chân đi trên cát êm hơn, đằm hơn. Vinh đi kiểm tra một vùng trên đoạn bờ biển phía bắc, không quay về bằng lối đi sát mép nước, mà rẽ lên rừng dương, lách qua những chùm rễ xơ tướp, những thân cây gãy nát nằm ngổn ngang, lần theo những căn hầm vắng người làm đường về hầm chỉ huy. Mưa giăng mờ mặt biển. Nhìn ra hướng con tàu, chỉ thấy một quầng sáng xa xăm. Ánh đèn dù mọi đêm chói chang là thế, đêm nay mờ nhạt hẳn, cảnh vật trông huyền ảo; thấp thoáng. Vinh chọn con đường qua các đồi cát với ý định ghé qua căn hầm của Liên. Chiếc áo mưa bằng vải bạt quật vào những thân, cành chồng chất, kêu loạt soạt. Những ý nghĩ lộn xộn cũng đang quay cuồng trong đầu óc Vinh. Tình yêu của anh đối với Liên có vội vã quá không ? Anh có đủ can đảm và nghị lực vượt qua con sóng gió đã bắt đầu có tín hiệu đe dọa hay không ? Em yêu, những lời yêu thương em thổ lộ với anh trong buổi gặp đầu tiên sau khi anh trở về đơn vị, những nụ hôn vội vàng nhưng cháy bỏng mà chúng ta trao gởi cho nhau qua bao nhiêu lần gặp gỡ tình cờ trên đường công tác, ánh mắt tin yêu dịu dàng mà sâu thẳm của Liên làm cho anh bồi hồi, xao xuyến mỗi khi chúng ta tìm nhau trong đôi mắt, tất cả những kỷ niệm tươi mát ấy có giữ được tâm hồn anh mãi mãi thanh thản, mãi mãi nguyên vẹn xứng đáng vớt tình yêu của em không? Hai tiếng “hậu quả” mà Hạ đã thốt ra với anh hôm nào, bám mãi vào mọi suy tư của anh, dai dẳng, dù anh có muốn quên đi, coi như bất chấp, vẫn chẳng chịu buông tha anh. Bão tố phía trước vẫn còn đe dọa. Anh biết Hạ đã nói với anh một lời chân thành. Anh hiểu những đồng chí trong chi bộ của mình. Một khi mối quan hệ yêu đương của anh được phơi bày ra công khai, mọi người sẽ quay lưng lại với anh. Người ta sẽ phê phán anh, chê trách anh đánh mất lập trường của một đảng viên cộng sản. Sở dĩ cho đến bây giờ, chưa ai lên tiếng bình phẩm là do anh rất có ý thức vì phẩm chất, do cả hai đưa đều hướng về một tình yêu trong sáng, yêu hết mình nhưng cũng biết tôn trọng nhau, vững tin ở ngày mai, vẫn giữ được phong thái ứng xử đàng hoàng và bình thường trước con mắt tập thể. Anh biết Hạ, tuy đặt vấn đề với anh khá gay gắt nhưng có ý giữ uy tín cho đồng đội không bung vấn đề ra diện rộng ở trong đơn vị. Anh thầm cảm ơn Hạ về việc anh ta đã gạt qua một bên chuyện khúc mắc của anh, nhờ đó việc khen thưởng của anh không bị ách lại Từ lần anh gặp Hạ đã bộc lộ mối quan hệ tình cảm riêng tư, sau đó Hạ đã tỏ thái độ phản đối rõ rệt, mọi ý nghĩ của anh để tập trung vào sự chống trả kiên quyết, hướng ra ngoài Nhưng từ khi cầm tấm bằng khen do Hạ trực tiếp trao cho, khi anh có cảm giác rằng cơn bao tố đang dịu dần, thì sự vật lộn bắt đầu hướng vào bên trong bản thân anh. Anh rơi vào một tâm trang giằng co, day dứt, buộc phải cân nhắc lời cảm tỉnh của Hạ: “Hậu quả không hay đâu!”. Một khi niềm hy vọng tương lai mối tình giữa anh và Liên trở lại phẳng lặng như anh mong muốn, mối tình mà anh quyết tâm bảo vệ với bất cứ giá nào, niềm hy vọng ấy đã hé ra một cách bất ngờ đến sửng sốt, trong Vinh lấy lại được sự thăng bằng và những suy nghĩ tỉnh táo hướng tâm trí anh vào mặt bên kia của vấn đề. Anh yêu Liên có vội vã không? Tư rách đảng viên, tư cách sĩ quan của anh, và cả cuộc đời dài lâu của anh, của cả con cháu anh về sau sẽ ra sao, nếu anh dám bước qua mọi thành kiến xã hội, mọi quy tắc tổ chức có thừa sức mạnh để đưa mọi người vào một cái khuôn ? Nghĩ tới đó, anh không khỏi bối rối. Niềm hy vọng kia, một khi trở thành hiện thực, rồi có đem lại hạnh phúc hay không? Lúc gặp trở lực, con người theo bản năng, đem hết sức mình ra để chống chọi — Nhưng khi trở lực đã vượt qua, con người thường phải nhìn lại chính mình, phải đánh giá mình. Mấy hôm nay, tự nhiên Vinh bắt gặp nhiều giây phút mình tự suy ngẫm về mình.
Một đôi lần đi dọc bờ biển, gặp những đội thuyền sắp cập bến đang cố sức bơi chèo vượt qua những lưỡi sóng giận dữ ven bờ, Vinh đã tự ví mình như chiếc thuyền nan bé bỏng, vừa phái chống chọi vi những ngọn sóng bạc đầu chồm từ phía sau chồm tới, vừa phải cố sức đè lên những đợt sóng phản hồi từ cái đích sắp đến bổ ra. Mỗi lần như vậy, cuối cùng cảnh tượng những chiếc thuyền chờ hàng chẻ sóng ngon lành, xoài mình vào tận bờ lại gọi cho anh ý nghĩ: “Cuộc sống là thế đấy, nó cứ băng băng vượt qua mọi trở lực đè đi lên phía trước, đố ai cản được!”Đã đến gần căn hầm của Liên. Anh nhận ra tấm chắn bằng gỗ lấp ló sau ngọn cây dương gẫy gập đổ nghiêng xuống trũng cát sâu. Mọi ý nghĩ tản mát biến mất khỏi đầu óc Vinh.
Hình ảnh của Liên hiện lên sáng chói, cả điều tâm niệm cuối cùng về cuộc sống mà anh thu nhận được những khi đón thuyền vào bến, bây giờ đang sống dậy trong lòng anh. Anh ngượng thầm với Lên, với tình yêu của hai người vì những ý nghĩ xa lạ đã luẩn quẩn mãi trong đầu óc anh. Chỉ mới suy nghĩ thôi cũng đủ có lỗi với Liên nhiều lắm. Anh tụt xuống bờ cát nghiêng nghiêng, vừa đi vừa vịn tay lên những cành với rễ đan chéo nhan, lòa xòa trùm xuống sát bàn chân. Đêm nay Liên nghỉ trực, anh định ghé qua thăm chốc lát, trao đổi chuyện tương lai nghiêm chỉnh. Đến mười giờ đêm mới có cuộc giao ban ở hầm chỉ huy. Còn kịp chán.
Vinh dừng lại trước cửa hầm. Tà áo mưa vương vào cành dương ríu anh lại. Vinh vội gỡ cành, chợt bàn tay chạm mép áo sũng nước. “Ôi chao, mình đi lầm lũi dưới cơn mưa, mà chẳng nghĩ gì đến mưa cả!”. Anh tự cười thầm về sự lơ đãng lạ lùng ấy. Anh cởi áo mưa, cố ý rũ mạnh những giọt nước bám vào áo bằng cách ấy báo cho Liên biết có người đến chỗ Liên.
Nhưng bên trong căn hầm vẫn im lìm. Vinh treo áo ngoài cửa, giơ tay giật một đầu võng. Chiếc võng nhẹ tênh.
Liên đi vắng rồi, anh nghĩ thầm. Vinh liền cầm lấy chiếc áo bạt, định bụng đi luôn. Nhưng không hiểu sức mạnh nào đã giữ chân anh lại. Anh đã đến nơi ở của người yêu. Căn hầm này, chiếc võng này là những vật gắn bó với Liên tự nhiên có sức cuốn hút anh, trở nên gần gũi và thân thiết đối với anh. Một vài phút nán lại, vào trong căn hầm xem nơi ăn chốn ở của người yêu, nhìn một tí cho vơi nỗi nhớ mong thì có làm sao? Trong ánh đèn dù mờ ảo, Vinh chui vào hầm. Mảnh ván lót ở đáy hầm sạch sẽ. không có vệt cát; ca, bát, gương lược để ở góc trong cùng ngăn nắp. Vinh ngồi lên võng, nhìn mọi vật ở đây, từ chiếc khăn mặt, đến đôi giầy vải bạc màu,đơn sơ cũ kỹ, bỗng dấy lên trong lòng một niềm yêu thương da diết khi anh nghĩ đến người con gái giờ đang vắng mặt ở căn hầm này. Cuộc đời thanh niên xung phong thời chiến đã cuốn hút em, đã đưa em lên rừng xuống biển, bom đạn chết chóc chẳng mảy may làm em chùn bước. Em đến với anh trong bom đạn, hồn nhiên, cởi mở, chắp cho anh đôi cánh tươi trẻ. Dù cuộc đời sau này đối xử với anh ra sao, không bao giờ anh quên được chuyến vượt biển đêm đầu tiên ta ngồi đối diện nhau giữa nước, giữa trời, chuyến đi đã gắn bó chúng ta từ bấy đến giờ và mãi mãi. Chen lẫn niềm yêu thương có cả nỗi cảm thương. Nếu như không có chiến tranh, hẳn em vẫn sống đầm ấm với gia đình cha mẹ, với cuộc sống yên ả dù vất vả thiếu thốn ở quê nhà, với những công việc phù hợp với một người con gái mới lớn lên. Chẳng việc gì phải sống kham khổ ở nơi này, ngày đêm cái chết đe dọa. Ai biết được ngày mai cái gì sẽ đến. Thế nhưng, em đã tự nguyện, cũng như anh đã tự nguyện hiến dâng tuổi trẻ của mình cho sự nghiệp chống Mỹ của cả nước. Ở em anh đã tìm ra vẻ đẹp riêng hòa trong vẻ đẹp chung.
Ngoài trời, mưa nặng hạt, gió nổi lên lay xào xạc những cành dương gẫy gập.
— Ôi, áo mưa của anh Vinh treo ngoài cửa ướt hết rồi!
Vin nghe tiếng Liên, nhảy phốc khỏi võng. Nhưng vì căn hầm chẳng rộng rãi gì, anh đành phải ngồi xuống phản. Liên vứt vội tấm ni lông vào góc hầm, nhận ra Vinh dưới ánh sáng bàng bạc từ ngoài hắt vào, reo lên vui vẻ :
— Đúng là anh, em đoán không sai! Anh chờ em đã lâu chưa?
Đêm nay gió đẩy bao nhiêu là bao hàng theo sóng giạt vào bờ. Em phải ra bãi cùng chị em kéo lên. Nhiều lắm lắm.
Liên nói huyên thuyên, vừa kể chuyện vừa hỏi, Vinh không biết đường nào mà trả lời. Anh nắm bàn tay Liên, nói giọng ái ngại:
— Tay em dầm nước, lạnh lắm.
— Lạnh à ?
Liên ập cả hai bàn tay vào má Vinh, cười tinh nghịch.
Bỗng mặt đất rung chuyển. Tiếng bom nổ thành chập ở đâu xa, phía sau dãy núi. Liên thầm thì bên tai Vinh:
— Cứ cho trời mưa to đi, cứ cho bom tọa độ đi. Được ở gần bên anh, em Vui lắm rồi. Mà sao anh chẳng nói gì với em cả?
Vinh ngồi sát Liên, hơi thở của cô phả vào mặt anh, cơ thể mềm mại của cô truyền sức nóng sang anh. Có bao nhiêu điều định nói, lúc này bay tất khỏi đầu óc anh. Anh lặng lẽ ôm hôn Liên, hôn thật lâu. Cái hôn nói hộ anh được nhiều điều mà anh đã quên khuấy đi Liên đáp lại anh không phải là một mà ba, bốn nụ hôn liền. Vinh rạo rực khắp người nhưng còn đủ tỉnh táo để không đi xa hơn nữa. Anh ngồi dịch ra một chút, tay vẫn nắm chặt bàn tay Liên, lúc này đã ấm hẳn. Anh bảo Liên:
— Anh thích ngồi im lặng, nghe em nói. Em cứ nói cho anh nghe đi.
— Em chẳng có chuyện gì để nói với anh cả. Em chỉ hỏi thôi nhé!
— Em hỏi cũng được. Điều gì anh biết, anh sẽ trả lời.
Vinh hơi chột dạ, khi nghe Liên mở đầu như vậy. Anh ngờ ngợ rằng Liên cũng đã phong thanh biết được điều trắc trở trong mối tình giữa hai người, điều mà anh muốn tự mình biết và khắc phục được không cho Liên biết, sợ làm phiền lòng người yêu.
Liên thủ thỉ nói:
— Em hỏi thật đất Thái Bình quê anh, con gái nổi tiếng đảm đang, xinh đẹp, thiếu gì cô mà anh vào đây chọn em để yêu ?
— Anh không chọn. Em là mối tình đầu của anh: — Tự nhiên nó đến. Có thế thôi.
—Chẳng phải em đã từng công tác dọc đường Trường Sơn, em biết có nhiều anh bộ đội bập vào yêu rất nhanh, khi tính đến chuyện gắn bó lâu dài thì lảng ra càng nhanh hơn. Anh cũng như vậy chăng? Em đã từng tự bảo mình nhiều lần: chớ có yêu bộ đội, họ là chim trời cá nước. Vậy mà thẳng hiểu vì sao, từ những ngày đầu về trạm biên phòng này, em đã yêu anh ngay.
— Cũng yêu chốc lát như người ta à?
Liên bốp mạnh bàn tay Vinh:
- Không phải. Yêu mãi mãi. Chỉ sợ đất Thái Bình chê con gái miền Trung có nhận cho em làm dâu Thái Bình không ?
— Em thử nhớ lại, đây là lần thứ mấy em nói câu này với anh?
Liên chợt buông bàn tay Vinh ra, nói giọng thẫn thờ:
— Mà đang thời buổi chiến tranh, nghĩ đến chuyện ấy xa vời quá. Phải không anh.
Niềm thương cảm lại trào lên trong lòng Vinh. Anh lặng lẽ kéo Liên vào lòng, gắn lên môi người yêu một nụ hôn, mãi không rời. Ngoài trời, mưa vẫn rặng hạt. Chiếc máy bay trực thăng quần liệng trên tầng mây rồ lên mấy vòng rồi tắt ngấm. Căn hầm yên tĩnh bỗng rung lên dữ dội: Một loạt bom nổ rất gần. Vinh nhẹ nhàng nâng Liên ngồi thẳng lên; mắt anh ngó chằm chặp ra phía cửa hầm. Giọng anh lộ vẻ lo lắng:
— Trời đang mưa mà nó thả tọa độ bừa như thế này dọc rừng dương không khéo nó sẽ đánh thành vệt qua chỗ chúng ta đấy.
Anh chực kéo Liên đứng dậy, vọt khỏi cửa hầm băng đường lên núi. Nhưng Liên cứ níu anh lại. Hai tay cô quàng chặt vào cổ anh, đầu nép vào ngực anh. Cô nói trong hơi thở hổ hển:
— Anh đừng đi.. Em sợ lắm...
Vinh giữ chặt người yêu trong vòng tay, cúi xuống nói bên tai Liên :
— Con gái thanh niên xung phong dạn dày bom đạn Trường Sơn mà sợ chết à.
Anh nói để trấn tĩnh nỗi sợ của Liên. Nhưng Liên càng nép vào người anh chặt hơn trước. Cô thổ lộ:
— Em không sợ bom, không sợ chết đâu... Em sợ mất anh.
Vinh lặng người đi vì cảm động. Liên nói tiếp:
— Những ngày ở Trường Sơn em không biết sợ vì chỉ có một thân, một mình. Em coi bom đạn là chuyện cơm bữa, cũng như các bạn em. Nhưng bây giờ, em đã có anh... Anh hiểu không?
Câu sau cùng, Liên nói nghèn nghẹn.
— Anh hiểu. Em đừng khóc.
Đôi má nóng rực của cô gái áp vào cổ anh. Hơi ấm từ tay, từ ngực cô rạo rực truyền sang anh. Anh quên hết bom đạn, cơn mưa, đầu óc cứ cuồng lên. Một nỗi khát khao cháy hỏng như mạch nước ngầm dâng lên tràn ngập lòng anh. Chẳng ai nói một lời nào nữa. Cứ thế, hai thân hình quấn quít lấy nhau, ngã dài trên mặt sàn gỗ.
Liên thấy lạnh, thức dậy đầu tiên. Cô đưa hai bàn tay vuốt nhẹ má Vinh, cúi xuống hôn anh. Ngoài kia, mưa đã tạnh từ bao giờ. Không gian im ắng lạ thường. Từ một vùng trời nào đó trên các tầng mây, ánh đèn dù chập chờn tỏa xuống nhìn khắp căn hầm như có ánh trăng chấp chới. Liên lặng lẽ chìa ngón tay út di di trên sống mũi thanh tú của người yêu. Vinh giật mình tỉnh dậy, thảng thốt nhìn lên nóc hầm. Anh chưa kịp nhấc đầu lên thì hai bàn tay Liên đã nhẹ nhàng nâng vai anh, đỡ anh ngồi bên canh. Vinh ngơ ngác một lúc, đưa mắt nhìn quanh. Luồng mắt đã trở lại tỉnh táo của anh chạm vào bộ ngực trần của Liên. Làn da trắng hồng trinh nguyên vồng lên theo những đường cong mềm mại đánh thức trong anh một niềm vui ngỡ ngàng, tràn đầy hạnh phúc. Dường như sực nhớ lại toàn bộ sự việc vừa xảy ra trong căn hầm, anh mỉm cười ngượng nghịu :
— Em mặc áo vào di.
Không chờ Liên đứng dậy, anh cầm chiếc áo sơ mi chít li của Liên, luống cuống mặc vào cho cô. Liên cứ ngồi yên, để mặc người yêu lồng tay áo, cài nút, giống như đứa trẻ thích thú vì được mẹ nuông chiều. Chờ cho Vinh cài xong chiếc nút áo cuối cùng, Liên rúc đầu vào ngực anh, thầm thỉ:
— Anh ơi, thế là em đã được làm dâu đất Thái Bình rồi đấy. Vinh xúc động quá, chẳng biết nói gì, lặng lẽ bấm nhẹ mấy đầu ngón tay lên tấm lưng thon thả của người yêu đang nằm gọn trong vòng tay anh.
Mãi hồi lâu, Vinh mới kịp lo đến việc ăn mặc của mình. Đang dở dang thì đánh ầm mộc tiếng căn hầm bị lật nhào. Cả hai người không kịp nghe tiếng bom tọa độ, ngã lăn lông lốc theo chiều khung hầm chữ A bị lật ngược, nằm lấp trong cát.
Đến khi họ hơi tỉnh lại, thân thể ê ẩm rã rời vì cú xốc mạnh thì nhìn quanh chỉ thấy tối om. Ở đâu đó vẳng đến tiếng xẻng xèn xẹt, gấp gáp.
— Chúng la bị lấp hầm anh ạ.
Vinh vỗ vỗ vào vai Liên, ra hiệu bảo im. Trong khoảng hầm xiêu vẹo, tối đen như mực, Vinh quờ tay tìm chiếc áo chưa kịp mặc, nhưng chẳng thấy ở đâu cả. Bỗng có tiếng xẻng bập vào gỗ hầm ở bên trên. Phút chốc, một vùng sáng le lói dọi vào. Cửa hầm lộ dần ra. Bên ngoài có tiếng người reo. Lại có tiếng ai nói gì đó. Có lẽ là hai người trong đội cứu hầm. Vinh khó nhọc chống tay lên nền cát, cố nhỏm dậy nhưng vất vả lắm mới nhấc được chân. Ánh đèn pin chiếu vào bên trong chiếc khung hầm bị lật ngửa nhưng vẫn còn nguyên vẹn.
— Thủ trưởng ơi, có hai người bị sập ở căn hầm này.
Người được gọi là thủ trưởng không đáp lại, bước tới cầm chiếc đèn pin trong tay người kia, quét luồng sáng khắp nơi; chợt kêu lên:
— Hả, có cả cậu Vinh ở đây nữa à.
Vinh nhận ra dáng người và tiếng nói của đại úy trạm trưởng Hạ. Anh gắng hết sức nhổm dậy rồi lồm cồm chui ra. Liên ra sau.
Hạ hỏi:
— Có ai bị thương không ?
— Không ạ — Liên đáp lí nhí.
— Căn hầm chữ A này tốt đấy? Bom nổ kề bên mà chỉ bị lật thôi.
Chợt nhìn thấy Vinh mình trần, Hạ bảo anh, trong giọng nói có vẻ chế giễu:
— Mặc áo vào đi chứ.
Để tho hai người ở lại nơi cửa hầm vừa được moi ra, Hạ ra hiệu cho người kia đi về.
Lên đến đỉnh đồi cát, Hạ dừng lại, nói với người kia:
— Anh Gia này. Chuyện đâu, để đó. Tôi cấm anh không được nói lại với ai những gì chúng ta nhìn thấy ở đây Nghe chưa ?
— Vâng ạ.
Người đi cùng trạm trưởng Hạ, chính là H.12.
Đêm ấy, trực thăng bay đến quần lượn nhiều vòng, nhưng tổ trinh sát kỹ thuật không ghi nhận được cuộc đàm thoại nào giữa bầu trời và mặt đất: chỉ nắm được tiếng nói một chiều từ trên máy bay, nội dung chủ yếu tập trung hỏi về một cái “tổ chim” nào đó. Tuyến gặp Hạ, bàn về bước công tác tiếp theo. Liên lạc thông tin bằng máy bộ đàm của dịch rõ ràng bị cắt đứt khi ta giữ năm người địa phương ở lại trực đêm. Trong số này, Tuyến xếp Gia vào số 1 có khả năng là X1 vì Gia vốn là ngư dân trước đây đã bị địch bắt và thả về. Anh nói với Hạ :
— Từ đêm nay, anh cho Gia vô nghỉ tại nhà nhé: Coi như thưởng công cho anh ta đã tích cực đào bới cứu được hai người bị sập hầm. Hiện giờ cũng chưa khẳng định ngay được Gia là đối tượng chính trên đất liền. Ta sẽ theo dõi tiếp.
Hạ góp ý:
— Tay này hình như có điều gì băn khoăn dằn vặt, từ hôm ở bệnh viện tỉnh về. Thường ngày, gặp tôi hắn cúi gằm mặt. Có mấy lần tôi thấy hắn xa xẩn gần chỗ tôi đang hút thuốc lào với mấy anh em công nhân. Tôi có cảm nghĩ hắn muốn gặp tôi có việc gì đó. Nhưng khi tôi cố ý đi qua trước mặt hắn, thì hắn tại lảng ra, coi bộ lúng túng lắm. Hay là hắn băn khoăn lo lắng về hai đứa con đang nằm viện?
Tuyến nheo mắt, tập trung luồng suy nghĩ, mãi mới gật gù nói:
— Anh thấy không, ngay cả chuyện ở lại bệnh viện với gia đình, cách xử lý đơn giản và hợp tình là hắn phải ở lại. Vậy mà hắn phải cân nhắc mãi, cuối cùng dứt di luôn. Tất nhiên có những người tích cực cũng xử sự như vậy. Nhưng... nói cho anh biết nhé: Vào cái đêm Gia lên bệnh viện, trực thăng có xuất hiện trên bầu trời vũng Hòn Lăng, nhưng không nhận được tiếng trả lời từ mặt đất.
— Vậy thì đúng hắn rồi. Anh cứ tóm lấy thôi.
— Không đơn giản như thế đâu. Còn phải làm rõ.
Đêm hôm ấy, Gia được về nghỉ trực tại nhà.
Hắn không đi ngủ sớm như thường lệ, chỉ ngồi hút thuốc lào vặt trên giường, cạnh chiếc đèn hoa kỳ có chụp phòng không. Thỉnh thoảng hắn gục đầu xuống hai đầu gối, hai tay cấu chặt mái tóc. Khoảng mười giờ, hắn lấy chai rượu ra uống một mình. Uống một mạch ba chén tống. Cũng có tiếng máy bay trực thăng vè vè vẳng tới. Hắn giật mình, vặn nhỏ ngọn đèn rồi lại uống tiếp một chén rượu. Bất giác, hắn giằn mạnh chén rượu xuống chiếu, vẻ mặt lo lắng, sợ hãi. Tiếng trực thăng quần lượn vòng vo, nặng nề, chậm chạp như muốn đổ xuống ngay trên dãy núi sau nhà. Gia vụt nhổm dậy, cầm chai rượu đập vào mép bàn vỡ tan tành. Sau đó, hắn vội vã ngả lưng nằm xuống giường, kéo tấm chăn đơn trùm kín mặt.
Trái với dự đoán của Tuyến và Hạ, trinh sát không thu lượm được gì thêm ngoài những chi tiết ấy. Bộ phận kỹ thuật cũng chẳng ghi nhận được cuộc đàm thoại nào. Tuyến nói với Hạ:
— Kiểu này có khi anh cần trực tiếp thuyết phục, gợi mở cho tay Gia, phối hợp tấn công chính trị và nghiệp vụ. Thế nhớ.
— Nhất trí. Tôi cũng đã nghĩ đến việc này. Còn tin mới nhất các cậu trinh sát của chúng tôi từ ngoài tàu về cho biết, sàng lọc các mối quan hệ giao tiếp của tay Hường, rút lại có hai người chú ý là tay Gia và cô Liên, tiểu đội trưởng thanh niên xung phong. Phức tạp thế đấy!
Tuyến giở sổ tay đọc mấy dòng ghi chép cuối cùng, nói:
— Vậy là khớp với nguồn tin chúng tôi thu lượm được trong số thuyền viên, vận tải.
Hạ ngước mắt nhìn Tuyến, lên giọng thắng thế:
— Nào, bây giờ anh còn trách tôi quá khắt khe về hai chữ “liên quan” nữa không? Hường là người yêu của Liên trước ngày hắn bị bắt. Bây giờ họ gặp lại nhau, nối lại mối tình cũ. Hường móc nối Liên, dùng cô ta để xâm nhập sâu vào tổ chức của ta. Cô ta đã quyến rũ được Vinh, trạm phó của chúng tôi. Đánh vào tung thâm hẳn hoi nhé. Bây giờ, cả hai người đều liệt được vào loại có liên quan đến đối tượng rồi chứ?
— Anh suy luận có lô gích đấy, nhưng cuộc sống có lô gích của nó.
Giả thử Liên yêu Vinh chân thành và không vụ lợi thì sao ?
— Không thể có chuyện ấy đâu ! — Hạ cãi lại.
— Có thể có đấy. Tôi cũng đã biết mối quan hệ cũ giữa Hường và Liên. Đêm quá, tôi đã gặp ông Nghịu, bác họ của Liên và có gợi chuyện ấy. Ông cho biết những ngày gần đây, cháu gái ông đã thổ lộ với ông rằng cô yêu Vinh tha thiết; còn chuyện cũ với Hường cô đã cho qua từ ngày cô đi thanh niên xung phong. Thế đấy. Anh cũng nên xem xét khía cạnh ấy.
Hạ đáp, giọng dứt khoát :
— Rồi còn xem xét chán. Vụ bê bối đêm vừa qua mà tôi đã trao đổi riêng với anh, rành rành là một vụ hủ hóa. Hai anh chị ngủ cùng một hầm..., lúc lóp ngóp bò được ra ngoài trông mới hay chứ: Anh thì mình trần chưa kịp mặc áo, chị thì cài nút áo lệch khuy.
Có xem xét gì thì cậu Vinh ít nhất cũng phải khai trừ lưu Đảng, cách chức chỉ huy phó. Sẽ đem ra bàn ở chi bộ nay mai thôi. Ấy là chưa nói đến hai chữ liên quan đâu nhé.
Anh lấy giọng nghiêm trang nói thêm:
— Anh là ủy viên Thường vụ Đảng ủy, kiêm trưởng ban trinh sát tỉnh xin anh cho ý kiến sơ bộ về việc này:
— Cá nhân tôi không thể nói tiếng nói của Thường vụ. Anh thông cảm. Còn về công việc của chúng ta thì xin báo cho anh biết chúng tôi rất cần làm việc với cô Liên. Thời gian khẩn trương lắm rồi, thằng địch có nhiều động thái khác lạ, cả trên không lẫn trên biển. Khả năng chúng tung biệt kích vào địa bàn có nhiều. Chúng ta phải nhanh chóng tiếp cận đối tượng. Cô Liên là con bài chúng tôi lựa chọn.
Sau cuộc trao đổi giữa trưởng ban trinh sát tỉnh và trạm trưởng biên phòng. Liên được mời đến gặp Tuyến ở một địa điểm riêng. Lúc đầu, Liên tưởng cán bộ biên phòng sẽ hỏi về sư việc xảy ra đêm sập hầm. Nhưng không phải chuyện ấy. Tuyến đi ngay vào vấn đề, nói lại cặn kẽ những chi tiết cuộc đời Liên những ngày chưa thoát ly: Anh nhấn mạnh mối quan hệ yêu đương giữa cô và Hường. Liên giật mình kinh ngạc khi nghe một người lạ nói lên vanh vách hoàn cảnh sống của cô trước đây. Khi người ấy nói tiếp đến mối quan hệ yêu đương giữa cô với Vinh, trong bụng Liên bắt đầu run. Lại chuyện ấy, đoán không sai mà! Nhưng lắng nghe Tuyến nói, cô nắm bắt được một sự thông cảm chân thành, những lời trách cứ nhẹ nhàng. Người cô nhẹ hẳn đi. Bỗng Tuyến đi thẳng vào chuyện Hường đột ngột trở về, lọt vào địa bàn chiến dịch và có những nghi vấn cần làm rõ. Liên không khỏi sửng sốt. Tuyến rất chú ý quan sát nét mặt Liên lúc nghe chuyện. Một tia chớp sửng sốt, một thoáng suy tư, sau đó vẻ thờ ơ của một người ngoài cuộc. Tuyến nhẩm bụng rất nhanh những phản ứng tâm lý lộ ra bề ngoài của Liên.
Liên chưa kịp định trí. Cô trải qua nhiều trạng thái tâm lý biến đổi nhanh chóng từ lo âu đến thoải mái; từ sửng sốt đến yên tâm, lúc căng lúc giãn, đến phát sợ những lời nói trầm tĩnh của người đối thoại, thì Tuyến đã đi thẳng vào yêu cầu Liên cộng tác trong việc bám sát Hường; cô giãy nảy phản ứng ngay:
— Việc này thì cháu chịu thôi. Cháu đã phải đấu tranh bản thân ghê gớm lắm mới dứt bỏ hẳn anh ta sau cuộc gặp gỡ trên vũng Hòn Lăng đêm nào. Cháu xin chú tha cho. Cha không muốn gặp lại con người ấy nữa. Hơn nữa, bây giờ anh ta...
— Cháu hãy nghe chú nói tiếp !
Tuyến nắm bắt được giây phút bột phát bộc lộ tình cảm của Liên, vẻ bối rối chân thành của cô. Anh càng tin hơn vào sự xét đoán con người của mình, càng thêm hy vọng vào sự thành công của động tác nghiệp vụ mà anh dự định tiến hành. Cuối cùng anh đã thuyết phục được Liên. Ngay sau đó, anh hướng dẫn cô cặn kẽ cách ứng xử với Hường và những tin, ký hiệu liên lạc. Anh cũng báo luôn cho Liên yên tâm rằng cô bé Hồng, bạn thân của Liên sẽ đi cùng cặp với cô trên chiếc thuyền ra tàu.
Hường không giấu nổi sự vui mừng khi thấy Liên đi biển trở lại. Hắn càng vui mừng hơn lúc hai cô gái cho hắn biết họ được giao nhiệm vụ đi tiếp tế cho các chiến sĩ biên phòng đang làm công tác giám hộ tàu cùng các công nhân trực trên các mảng. Vậy là hắn được dịp gần Liên đều hơn. Hắn chưa quên nụ cười và cái vẫy tay thân mật của cô đêm nào. Trong thâm tâm hắn, việc Liên ra tàu là một dịp may trời cho. Hắn đang cuống lên vì bỗng dưng việc liên lạc với Gia bị ách tắc, chẳng hiểu vì lý do gì. Mấy lần, hắn dùng cách riêng truyền lệnh cho Gia, nhưng bẵng đi khá lâu, chẳng có hồi âm. Hắn không khỏi trách thầm đại ủy Hưng đã quá cẩn thận không để cho hắn trực tiếp dùng điện đài và máy bộ đàm. “Ông ấy có ngờ đâu đường dây liên lạc giữa X1 và X2 bị ngắt quãng. Có khi cũng tại ta chủ quan hứa chắc với ông ấy sẽ xây dựng được ngay một cộng tác viên giao thông”. Hắn nghĩ thầm như vậy. Nhưng bay giờ, Liên đã có mặt ở đây. Chuyện riêng và sự vụ tưởng đã hỏng, ai ngờ niềm hy vọng lại trỗi dậy mạnh mẽ. Như người sắp chết khát được ai mang cho bát nước, hắn bám riết lấy Liên, không sỗ sàng như trước, nhưng lần này hắn tự buộc mình phải chóng vánh thực thi kế hoạch hành động mới vừa nảy ra trong đầu hắn. Đối với hắn, Liên vẫn vui vẻ, hồn nhiên như trong lần gặp trước, song rõ ràng là thân mật hơn nhiều. Hắn tận dụng mọi ngón đòn tình cảm, khéo léo tán tỉnh và chẳng khó khăn gì, hắn nhanh chóng đạt được kết quả. Một hôm, hắn hỏi Liên:
— Các em đã có lúc nào nhớ đến những người đêm ấy đem thuyền ra cứu nạn chưa?
Liên đáp tự nhiên :
— Sao anh lại có ý nghĩ rằng chúng em là những kẻ vô ơn? Bác ấy tên là bác Gia. Chúng em đã tìm gặp bác và cảm ơn bác. Lạ thật, bác ấy có vẻ ghét bọn con gái chúng em nên chỉ ậm ừ cho qua chuyện, chẳng có gì là mặn mà... Ờ, mà vừa rồi gia đình bác ta bị bom ở nơi sơ tán.
Hường giật mình:
— Thế ư!
Nhưng hắn đã nhanh chóng lấy lại vẻ bình thường:
— Có ai can gì không ?
— May có các anh bộ đội cứu sập kịp thời, sau lại được bệnh viện tỉnh tận tình chăm sóc nên hai đứa nhỏ khỏe cả rồi. Bác Gia có về thăm gia đình nhưng đã trở lại đơn vị, Liên giấu bặt không nhắc một tí gì đến vụ Gia cứu cô và Vinh. Hường nghe xong, suy nghĩ rất nhanh: “Vậy là đứt một phiên liên lạc giữa H.12 và đại úy Hưng!” hắn giật mình khi nghĩ đến trường hợp gia đình Gia bị tai nạn và được đơn vị, cơ quan tận tình cứu giúp. “Chuyện ơn nghĩa này sẽ phức tạp về sau đây!”. Ý nghĩ cảnh giác đối với Gia bắt đầu nảy ra trong bộ óc quen tính toán của hắn. Thế bí càng đẩy hắn đi nhanh hơn trong việc nắm chắc Liên. Phần quan hệ tình cảm riêng tư đã cho thấy rõ là đang đà xuôi chèo mát mái. Liên đã dám đáp lại tiếng “yêu” của hắn bằng một cái nhìn âu yếm hàm ý thuận tình. Nhưng còn sự vụ, làm sao nhanh chóng chinh phục lôi léo cô ta đây ?
Một đêm, Liên chở thực phẩm ra tàu, mang phần đến cho Hường. Hắn thấy cô có vẻ buồn bã, hỏi luôn:
— Em có điều gì không vui phải không?
Liên không trả lời hắn, lại cố làm bộ vui vẻ khi nghe hắn hỏi, có vẻ giấu hắn một chuyện buồn nào đó. Hắn tìm cách giữ Liên ở lại lâu lâu một chút ở trên mảng và gặng hỏi Liên:
— Em giấu anh mà làm gì? Chúng mình có phải mới yêu nhau buổi đầu đâu em!
Mãi, Liên mới thổ lộ:
— Mỗi lần ra ngoài này, được nhìn thấy toàn cảnh bãi bờ, đồi núi trong kia bị bom đạn cày xới tan hoang, không hiểu sao em cứ thấp thỏm lo cho mình đến như vậy. Ghê gớm quá, bom đìa, bom tấn hết ngày lại đêm.
Đến bao giờ mới dứt?
Hắn chỉ vào con tàu lúc này đã nổi cao lên khỏi mặt nước, nói để cô yên tâm:
— Em xem kia, tàu sắp cạn hàng rồi. Chỉ ngày một ngày hai là mọi sự sẽ trở lại yên bình.
Liên lắc đầu:
— Yên bình chỗ này, lại phải lao vào chỗ khác. Rồi ngày mai sẽ sa sao, anh nói thử đi xem nào!
Nhìn vẻ mặt căng thẳng của Liên, hắn tưởng đã nắm Bắt được một điều gì mới mẻ. Cần phải đào sâu hơn mới hiểu được tâm trạng thực của Liên. Hắn buông một câu lơ lửng:
— Em đã đi thanh niên xung phong, đã từng dũng cảm chống chọi với bom đạn, sao bỗng dưng lại nẩy ra ý nghĩ tiêu cực như vậy!
Liên lặng iẽ nhìn vào mắt hắn, cái nhìn sâu thẳm như đang quay về quá khứ. Cái nhìn khiến hắn cảm thấy bối rối. Mãi cô mới nói với hắn:
Anh “có biết không, em đi thanh niên xung phong hồi ấy để cho khuây nỗi buồn ập đến từ ngày anh và bác Nghiu bị bắt. Vắng anh, em mới thấy cuộc sống trống trải, mặc dù hồi đó, nói thật em giận anh và coi thường anh lắm.
Hường ngăn Liên:
— Thôi đừng nhắc lại chuyện cũ không hay nữa. Anh đã có lời xin lỗi và hôm trước chính em đã bỏ qua cho anh rồi. Anh hiểu em lắm — Không phải em nhắc lại để trách anh đâu. Em đang nói về em. Lúc đầu ra đi là do bốc đồng, muốn đi cho thoát cảnh cô đơn. Sau đó, theo bạn bè, họ làm việc mình cũng làm việc, họ vui mình cũng vui. Em được khen nhiều lần, cũng thích chứ, nhưng càng về sau, em cảm thấy không thể liều mãi được. Cái chết ám ảnh em hoài. Về trạm cảng dã chiến này, càng thấy kinh. Anh ở ngoài tàu, anh không được chứng kiến bao nhiêu trường hợp người chết, kẻ bị thương, bọn con gái chúng em phải nói là đã dày dạn, cũng chờn. Ai biết được ngày mai mình còn sống hay là...
— Thôi dừng nghĩ dại, em ơi.
— Biết làm sao bây giờ ?
Hường không trả lời ngay. Sau lần gặp đáng nhớ đó, hắn đã có những nhận xét cho phép hắn đánh giá Liên. Cô gái thanh niên xung phong, người mà hắn yêu tha thiết, người mà hắn đã từng đánh giá là đáng gờm, không thà tin cậy được, càng không có hy vọng lôi kéo được, bây giờ đã tự bộc lộ nguyên hình một cô gái bình thường như mọi cô gái khác. Điều hắn đặc biệt lưu ý và cũng làm cho hắn xúc động là Liên vẫn gắn bó tình yêu đối với hắn. Những lời nói thật, nói thẳng của cô càng làm cho hắn khẳng định sự đánh giá tổng hợp về con người hiện tại của Liên là đúng. Trước mắt hắn, không còn một trở ngại nào hết. Nghĩ đến chiếc hôn vội vàng hắn tặng Liên lúc chia tay trong đêm vừa gặp, nụ hôn mà Liên chấp nhận một cách trìu mến, hắn cho rằng đã đến lúc bắt được chim bỏ vào lồng rồi, Đến lần gặp sau đó, hắn mới trả lời Liên. Hắn cũng nói thẳng cho Liên biết, từ ngày hắn được thả về, cảnh bom đạn tàn phá xóm làng cũng làm cho hắn lo sợ cho bản thân không kém gì Liên, rằng hắn đã từng sống ở Cù Lao Chàm một thời gian, hắn biết trong ấy người ta làm ăn khá lắm, và hắn có ý định sau này có dịp hắn sẽ đi vào Nam, rủ Liên cùng thoát khỏi cảnh bom đạn chết chóc này.
Hắn chăm chú theo dõi phản ứng của Liên trước ý định táo bạo của hắn. Liên có bị bất ngờ thật và lộ rõ thái độ sửng sốt, hoài nghi. Hắn phải tỉ tê mãi mới thuyết phục nổi Liên thuận theo ý hắn. Cuối cùng, cô vui vẻ nắm lấy bàn tay hắn, nhưng chẳng nói thêm một câu nào. Chẳng khó khăn lắm, Hường đã lôi kéo được Liên vào cuộc. Hắn cho đó là một thành công ngoài ý muốn ban đầu của hắn, nhưng là một kết quả tất nhiên. Hắn giao việc cho Liên.
Mấy lần sau đó, hắn gặp lại Liên, chẳng có một tin gì đặc sắc. Hắn lại phải hướng dẫn, động viên Liên. Rồi, một đêm mang hàng tiếp tế ra tàu, Liên thì thầm nói với hắn:
— Có một cái kho to lắm, bí mật lắm!
Hắn mở cờ trong bụng, hỏi Liên tỉ mỉ trong hoàn cảnh nào cô biết được chuyện ấy, vị trí cụ thể của cái kho ngầm trong núi là ở chỗ nào... Sau khi nghe Liên nói tường tận mọi nhẽ, hắn tự rủa thầm: “Mình cứ bám mãi vào cái thằng Gia ăn hại, chẳng lần mò ra cái cóc khô gì cả. Có phải tự mình trực tiếp tổ chức sớm hơn thì công việc xong xuôi từ lâu rồi không ?”
Bất kể trời mưa hay trời tạnh, máy bay trực thăng liên tục xuất hiện mấy đêm liền. Chẳng có đêm nào ta Bắt được tín hiệu liên lạc. Hiện tượng địch hoạt động mạnh vào những ngày cuối chiến dịch báo hiệu sẽ có nhiều sự kiện đột xuất sắp xảy đến. Hàng ngày và những đêm trực, Gia vẫn tham gia công tác bình thường. Những đêm hắn nghỉ ở nhà đều có người bí mật theo dõi. Mấy đêm đầu hắn còn thức khuya một mình, hết hút thuốc lào vặt lại mang rượu ra uống. Về sau, về đến nhà là hắn đắp chăn nằm ngủ. Hạ thường gặp Gia, thăm hỏi công việc và nói lại tin tức về gia đình của Gia, về tình hình sức khỏe của hai cháu đang nằm viện. Anh cởi mở, khéo léo động viên Gia hăng hái công tác chờ ngày gia đình sum họp hạnh phúc. Anh cũng đã nói xa nói gần đến chuyện địch thường xuyên săn đuổi thuyền đánh cá, bắt cóc ngư dân, nói về âm mưu địch mua chuộc ; những bà con nhẹ dạ lầm đường theo chúng. Gia bao giờ cũng chăm chú lắng nghe anh nói nhưng không lần nào hé lộ ra một dấu hiệu tỏ ra những việc ấy có liên quan đến mình. Lúc nào Hạ cố ý dò sâu thêm một chút, lập tức Gia thu mình vào vỏ, chẳng nói năng gì. Vì không có chứng cứ nên Tuyến không đồng ý với Hạ bắt giữ Gia. Lại cứ phải kiên trì thuyết phục, kiên trì giám sát. Coi như còn câu dầm.
Kết quả thành công nhanh chóng và bất ngờ nhất không những đối với thiếu tá Tuyến mà cả với đại úy Hạ là việc táo bạo cho Liên ra tàu, tiếp cận Hường. Mỗi lần đi gặp Hường trở về Liên đều báo cáo lại tỉ mỉ với Tuyến và mọi chi tiết về hành trình cũng như thứ tự sử dụng thời gian của Liên ở ngoài tàu đều khớp với những nguồn tin khác mà Tuyến nắm được. Còn về nội dung Liên trao đổi với Hường, anh đã có cách kiểm tra riêng, mọi việc đều đúng cả. Tuyến đặc biệt nghe rất kỹ báo cáo về buổi Liên đóng vai người yêu chán nản trước cuộc sống hiện tại. Sự thành công của Liên trong vai kịch đã có tác đụng thúc đẩy Hường nhanh chóng lật ngửa con bài ra, và đã được Tuyến đánh giá cao. Duy có điều, con mắt trinh sát của Tuyến đã phát hiện ra trạng thái tâm lý đau khổ day dứt của cô gái khi kể lại câu chuyện cô thổ lộ tình yêu chung thủy đối với Hường. Cô phải làm, phải nói những điều trái với lòng mình, ngay cả khi chỉ kể lại thôi chứ không phải đang ở trong cuộc, đôi mắt cô hiện lên cái nhìn tồi tội, thỉnh thoảng cô cắn môi chừng như đang phải cố ghim lại một cảm giác tức giận hay ghê tởm nào đó. Cô này yêu Vinh thật sự, yêu đến mức dù đã biết đóng kịch là một nhiệm vụ được giao nhưng cô không thể tự tha thứ cho mình”. Tuyến liên tưởng tới sự hy sinh của những người vì chính nghĩa phải tự quên mình, phải biểu hiện ra bên ngoài mọi lời nói cử chỉ ngược lại bản chất của chính mình.
Một hôm Liên trở về báo tin Liên đã được Hường cho biết ý định sẽ đem cô cùng vào Nam đồng thời móc nối và giao nhiệm vụ cho cô thì mọi việc được sáng tỏ dần, Hường chính là X2. Vì mất liên lạc với X1 hắn phải bám vào Liên. Rõ ràng nhiệm vụ của hắn là điều tra địa điểm tập kết chân hàng không phải chỉ để phục vụ cho các cuộc oanh kích của máy bay địch mà thâm độc hơn là âm mưu cho biệt kích đổ bộ phá kho hàng. Địch đã dự kiến đúng về một kho hàng nằm trong lòng núi, loại mục tiêu mà không dễ gì dùng hỏa lực không quân có thể phá hủy nổi. Còn X1 là ai ? Dù chưa có chứng cứ, dù Hường không hề đả động gì đến Gia lúc giao nhiệm vụ cho Liên, nhưng qua cách hắn hỏi khéo Liên để nắm tình hình về Gia và gia đình Gia, ta biết được X1 chính là Gia, một đáp số có xác suất cao.
Một hôm trong khi trao đổi công việc, Liên tình cờ đưa ra một nhận xét về những điều cô quan sát được trong sinh hoạt của những người ở ngoài tàu khiến cho Tuyến ngạc nhiên đến mừng rỡ. Liên nói :
— Đề nghị các chú quan tâm tới đời sống của anh chị em phục vụ trên các mảng nổi ngoài tàu. Ai lại để người ta dầm mưa, chịu gió chẳng có một mảnh ni lông che thân, nước ngọt không thiếu nhưng đựng bằng chai, mỗi lần lên xuống thành tàu là một lần vất vả. Tại sao các chú không cho họ mượn can nhựa hoặc sắm bình vò cho họ ? Nhiều người nghiện rượu gửi chai vào bờ nhờ người ta mua hộ. Thế là cả tổ hết cái đựng mắm, đựng nước.
Nghe đến đỏ, Tuyến vỗ đùi đánh đét một tiếng, rồi ngửng đầu lên, nhìn đăm đăm vào khoảng không vô tận như sực nhớ ra điều gì lý thú. Liên chẳng hiểu chuyện gì làm cho chú Tuyến giật mình đến thế, cứ ngồi thừ ra, chờ chú bảo ban. Tuyến vội giục cô:
— Cháu cứ nói hết đi.
Điều làm cho Tuyến giật mình lại rất đơn giản: đó là chi tiết về những cái chai. Lần đầu tiên trinh sát đi bám sát Gia về báo cáo rằng giữa đêm khuya Gia nghe tiếng trực thăng liền đập vỡ tan chai rượu đang uống dở, Tuyến đã ngờ ngợ một điều gì đó nhưng không nắm bắt được một dòng suy luận nào đáng quan tâm. Bây giờ nghe cô gái ngồi trước mặt nhắc đến những cái chai, tự nhiên trong đầu anh lóe sáng lên một sự liên tưởng và một sự trùng hợp lạ lùng : “Những cái chai có thể là một phương tiện liên lạc giữa X1 và X2 chăng?” Lập tức sau khi gặp Liên, anh gọi cấp dưới có trách nhiệm đến. Anh chỉ thị bằng mọi cách phải thu hết những mảnh vỡ của chiếc vỏ chai đã bị Gia đập tan đêm trước, thu bằng sạch, chú ý trước hết đến mảnh vỡ có dán nhãn hiệu. Ngay đêm sau, trinh sát quay về, hầu như đẩy đủ các mảnh vỏ chai, có cả giấy nhãn như Tuyến yêu cầu. Trinh sát xem xét kỹ chiếc nhãn giấy. Chẳng có gì khác thường trên mặt có in chữ. Khi lột mặt trái mới thấy có dấu hằn như có ai lấy que vạch. Khó khăn lắm mới lần ra hai chữ “tổ chim” Tuyến không ngờ kẻ địch lại dám dùng một phương pháp thông tin ấu trĩ và liều lĩnh đến vậy. Rõ ràng đây không phải là bọn gián điệp nhà nghề mà theo kiểu gọi riêng của anh, là bọn “vãi trấu”, địch thường chỉ đào tạo một thời gian ngắn rồi tung đi. Việc xác minh người gửi vỏ chai cho Gia không khó lắm vì đường dây phải thông qua các tổ vận tải thuyền. Có lệnh cho bắt Gia ngay, Trinh sát và một tổ chiến sĩ biên phòng bất ngờ ập vào gian nhà đơn chiếc ở cơ sở đẽo đá thì thấy Gia đã bị đâm chết, nằm sấp trên nền nhà. Máu chảy từ vết đâm trên lưng loang rộng trên mặt đất. Hỏi người chiến sĩ được giao nhiệm vụ bám sát Gia thì anh ta thú nhận rằng sau khi nghe tiếng máy bay trực thăng tắt hẳn, anh ta cho là hết giờ cao điểm nên đã lùi ra xa ngôi nhà của Gia.
Cùng một lúc với việc bắt Gia, ta cho người ra tàu bắt Hường. Cả bọn chỉ huy ngồi trên trực thăng lẫn X2 đều cùng hỏi Gia về “Tổ chim” chứng tỏ kế hoạch của địch tập kích kho hàng bằng đường biển đã đến giai đoạn sẵn sàng hành động. Ta không chờ cho X2 vào bờ trực tiếp tham gia việc phối hợp từ đất liền. Nhưng khi thuyền của các chiến sĩ biên phòng ra đến tàu thì trên chiếc mảng của Hường chỉ còn mái lều vải trống không. Hường đã biến mất từ bao giờ. Hỏi chiến sĩ giám hộ tàu thì được biết họ vẫn bám sát Hường tù đầu hôm tới lúc hắn chui vào lều bạt, có lẽ năm chờ thuyền ra dỡ hàng. Từ đó chẳng thấy hắn bước ra sàn mảng lần nào.
Hường đã đánh lừa được những người theo dõi hắn từ trên thành tàu. Hắn đã tính toán rất kỹ. Việc Gia chậm trả lời tín hiệu hắn hỏi, mấy đêm liền hắn chờ chai rượu Gia gửi ra không thấy, những tin tức về gia đình Gia bị tai nạn máy bay do Liên nói lại, tất cả những sự kiện ấy đã đánh một dấu hỏi lớn trong đầu hắn về X1 : “Gia đã bị lộ hay đã đầu thú?”. Hắn phân tích, cân nhắc mãi các tình huống, cuối cùng hắn rút ra một kết luận thực tế là bản thân hắn đã rơi vào tình huống không an toàn. Hơn nữa, sự xuất hiện gần đây của một vài công nhân vận tải có kiểu bơi dầm khác lạ đã khiến cho hắn cảnh giác. Phải vào bờ ngay! Việc này hắn chưa kịp báo trước cho Liên biết, chỉ hẹn cô lúc nào có thuyền ra đi sẽ tin sau để Liên chuẩn bị sẵn sàng, hắn phải vào bờ, một là để trực tiếp kiểm tra tin Liên báo về vị trí kho ngầm trong lòng núi. Hai là nắm lấy những phương tiện thông tin. Điều này, hắn biết trung tâm không cho phép, nhưng không còn cách nào khác, hắn phải tự giải quyết.
Sau khi chui vào lều vải, hắn lợi dụng bóng tối sát mạn tàu, vạch mép tấm bạt, nhanh chóng chuồi mình xuống nước. Lần theo khe hở rất hẹp giữa chiếc mảng và thành tàu hắn bơi sang phía mạn tàu bên kia, đúng lúc một chiếc mảng lớn chất đầy hàng, nước khỏa tận đỉnh, sắp được kéo đi bằng dây cáp ngầm. Hắn đã chuẩn bị sẵn một đoạn ống ni lông làm ống thở nên hắn lặn chìm xuống, bám luôn vào chiếc mảng trôi ngầm. Chỉ non một tiếng đồng hồ sau đó, hắn đã đặt chân lên bờ trong đất liền. Với bộ quần áo công nhân vận tải mà hắn mang theo, gói gọn trong một bọc ni lông nhỏ, hắn lẩn vào đội ngũ những người dỡ hàng không mấy khó khăn. Hắn định hướng rất nhanh vị trí hầm kho mà Liên đã báo cho hắn biết, ở đoạn phía bắc vũng Hòn Lãng, địa thế thắt lại rất hẹp, vắng vẻ hơn khu vực phía nam nhiều. Trời mưa lấm tấm. Hắn choàng tấm ni lông lên người, phủ kín từ đầu đến chân. Đi ngang điểm định đừng lại quan sát, hắn bước chậm lại. Bên tay phải hắn, vách núi lấn sát gần mép đường. Trong quầng sáng bàng bạc của ánh đèn dù từ xa hắt tới, hắn nhận ra một tấm lưới ngụy trang màu lá giăng dọc đường đi. Dưới tấm lưới, nhìn sâu vào chân vách đá, hắn thấy một tấm vải bạt rộng quá cỡ giăng thẳng từ trên cao xuống thành một tấm màn lớn che kín một mảng vách núi. “Cửa hầm kho!” Hắn reo thầm. Hắn chưa kịp đứng lại để nhìn cho kỹ hơn, thì một anh bộ đội cầm súng trong tay không biết từ xó xỉnh nào bước tới sát bên hắn, lên tiếng giục giã :
— “Bác đi nhanh đi! Không được chần chừ ở đây! Ra đường lớn mà đi!”
Hắn trả lời tỉnh khô :
— Mưa lạnh thế này, định ghé vào chỗ các anh mồi điếu thuốc lào !
— Chè thuốc gì ở chốn này! Bác đi ngay cho, lạc đường rồi đấy.
Hắn không đợi giục lần nữa, rảo bước đi ngay: “Đúng là kho có bộ đội gác! Ngụy trang đến thế này, lại ở vào vi trí bất ngờ, có đến tết máy bay mới phát hiện được!”* Trước mắt hắn, chỉ còn mục tiêu thứ hai. Hắn đàng hoàng đi giữa rừng dương. Trời mưa, vắng người qua lại. Hắn lầm lũi đi, không quên nhận dạng khu vực Liên ở. Bỗng có tiếng bom tọa độ nổ ầm ầm đâu ở phía nam. Từ những căn hầm vùi trong cát, hắn nghe tiếng người í ới gọi nhau. Hắn nghĩ nhanh đến những đội cứu sập, nghĩ đến Gia lúc này đang xông ra hiện trường cứu người bị nạn. Thế là hắn chạy băng băng về phía có tiếng bom nổ, vớ một chiếc cọc nào đó cầm tay, trông hệt như một đội viên trực chiến của đội cứu sập. Trong óc hắn nẩy ra sự phán đoán rất nhanh: Nếu Gia đi trực chiến vắng nhà, hắn sẽ lấy máy thông tin mang theo, nếu có Gia ở nhà, hắn sẽ có dịp kiểm tra trực tiếp. Bỗng từ một trũng cát, hai, ba bóng người cùng nhô ra khỏi đống cây cành ngổn ngang, xông lên đường ngay trước mặt hắn. Hắn hỏi ngay:
— Bom nổ ở đây đấy, các anh ơi!
— Nhanh lên, cứ thẳng đường mà chạy tới sẽ gặp, việc gì phải hỏi ?
Họ cũng chạy băng lăng như hắn: khi nhìn sang trái, thấy bóng người lố nhố bốc dỡ hàng trên bãi, hắn tụt lại sau, nghĩ nhanh đến những căn hầm vắng người. Hắn chọn một quãng vắng, rẽ ngang sang tay phải. Chẳng mấy chốc hắn đã vào đến chân mấy ngọn đồi thấp, cây cối um tùm. Tiếng máy bay trực thăng nổ trên đầu hắn một độ cao khá lớn. Hắn nghĩ ngay đến phiên liên lạc của H.12. Chắc gì Gia đã có mặt ở nhà ! Nếu H.12 đang làm việc, hắn chẳng dại gì mò đến; sập bẫy như chơi! Hắn đã xuyên rừng tới gần nhà Gia ở, nhưng hắn dứt khoát nằm lại, chờ ở ngoài rừng cho đến khi tiếng trực thăng vắng bặt. Đúng là đêm ấy. Gia có ở nhà. Lúc hắn mở cửa vào, ngọn đèn vặn nhỏ vẫn để ở trên bàn. Gia đắp chăn nằm ngủ. Hắn nhanh tay xốc Gia dậy. Dưới ánh đèn lù mù, hắn thấy gương mặt Gia hốc hác đến thảm hại. Tên này, thoạt đầu nhìn hắn với vẻ mặt ngơ ngác, nhưng khi nhận ra người đứng bên cạnh là H.24, mặt hắn nghệt ra. Hường bóp mạnh vào hai vai Gia, rít lên:
— Mày đầu thú cộng sản rồi, phải không ?
Gia lắc đầu lia lịa :
— Không. Không đâu!
— Tại sao mày cắt liên lạc với tao ?.
Gia im lặng. Hường hỏi tiếp:
— Mày bỏ liên lạc với trung tâm đã mấy phiên?
Gia lúng túng, không trả lời được. Hường nhìn thẳng vào mặt hắn, vẫn với giọng rin rít cố kìm lại trong họng, nói:
— Tao biết mày chịu ơn nghĩa của cộng sản, mày phản tao.
— Ông hiểu cho tôi, tôi không làm phản, tôi không đầu thú. Ông tha cho tôi. Tôi sợ...
Hai bàn tay Hường xiết vào cổ Gia:
— Mày sợ không dám mang hoặc gửi rượu ra cho tao ngoài tàu, vậy cái chai ở đâu?
— Nó vỡ rồi. Tôi vứt mảnh vào xó nhà kia kìa. Hường nhìn vào góc nhà, chỉ thấy bã thuốc lào cùng que đóm, chẳng thấy một mảnh chai nào cả. Hắn lay mạnh cổ Gia:
— Mày nói láo, mày đã nộp cái chai cho chúng nó rồi!
Thân hình suy nhược của Gia run bần bật trong tay Hường.
— Ông xem, mảnh chai còn y nguyên kia kìa!
Hường đảo mắt nhìn quanh. Gia run rẩy đưa tay chỉ vào bóng tối.
— Đâu nào?
Chỉ một thoáng Hường nới tay, quay đầu đi nơi khác, hắn bất ngờ bị Gia húc một phát cực mạnh. Hắn ngã ngửa xuống nền nhà, còn kịp nhìn thấy Gia chồm ra khỏi giường, chực chạy ra cửa. Trong cơn đau tức thì hắn vẫn kịp nằm bàn chân Gia giữ lại. Thì ra thằng này được huấn luyện kỹ về môn võ thuật, không thể coi thường, hắn nghĩ nhanh và rút ngay con dao lá mạ ra. Gia còn kịp đạp cho hắn một phát vào mặt, đến tóe đom đóm, nhưng hắn vẫn nghiến chặt răng nắm chắc cổ chân Gia. Bằng một động tác giật nhanh, hắn kéo đối thủ trượt dài trên nền nhà rồi nhanh chóng đâm một nhát vào cái thân hình dài ngoẳng đang bị hắn đè nghiến trên nền nhà.
Thanh toán xong tên tay chân, Hường bò ra ngoài rừng, tìm đến những vị trí quy ước giấu máy, lần lượt moi lên hai chiếc máy. Chiếc PRC 25 cồng kềnh, hắn phá ngay tại chỗ rồi vùi đất, xóa dấu vết, y như cũ. Còn chiếc máy bộ đàm bỏ túi. Hắn mang theo. Dọc bãi biển, trên mặt vũng Hòn Lăng và cả trên núi, bom tọa độ vẫn đều đặn nổ từng chùm. Lẩn mình giữa những bụi rậm trên sườn đồi, hai lần hắn phải lẩn tránh những tổ tuần tra của bộ đội, mà hắn đoán thuộc về đơn vị ra đa đóng ở tuyến sau.
Cũng trong đêm ấy, mặc dầu trời mưa, máy bay trực thăng, khác với thường lệ, tới quần đảo hai lần. Lúc trời đã gần sáng, trưởng ban trinh sát, thiếu tá Tuyến vẫn còn thức với chiếc máy ghi âm đặt trước mặt, trong một căn hầm chữ A riêng biệt, chắc chắn. Nghe lại cuốn băng mà tổ trinh sát kỹ thuật vừa mang đến, anh suy nghĩ rất lâu. Thế là X2 đã nhanh tay hơn anh, kịp thời thoát khỏi cuộc vây bắt, trốn lọt vào bờ, thanh toán tên X1 trước khi cán bộ trinh sát đến nhà Gia và hắn đã bắt liên lạc được với trung tâm tình báo địch. Rõ ràng, hắn là một loại đối thủ không phải thuộc loại “gián điệp vãi trấu” như anh tưởng mà là một tay có nghiệp vụ, hành động đúng bài bản, và là một tay cực kỳ mạo hiểm. Anh nghe lại băng một lần nữa.
“Núi Nưa gọi Hồng Hà ! Núi Nưa gọi Hồng Hà!” Tín hiệu liên lạc bình thường. “Hồng Hà đây ! Đây Hồng Hà!”. Mặt đất trả lời, tín hiệu không bình thường. Tiếng “Đây” đảo vị trí. X2 báo cáo đang gặp khó khăn.
X1 bị bắt hay bị hắn thủ tiêu. Trong máy vang lên tiếng hòi dồn:
— Tổ chim ? Tổ chim ?
Tiếng mặt đất trả lời: “Đàn chim 15 con đỗ trên dây thép”. Thế nghĩa là cái gì ? Tiếp theo là tiếng nói phát từ bầu trời, nói rất chậm:
— Chú ý! Chú ý! Có cơn giông. Tầm nhìn ra 66 phít. Tầm nhìn xa 66 phít! Tàu trở về tốc độ số một!”.
Đó là đoạn quan trọng nhất trong cả cuốn băng. Tuyến tạm ngừng máy. Anh chú ý đến thời gian liên lạc thông tin rất ngắn, nhưng nội dung thông tin rất súc tích, khác hẳn mọi lần. Chắc chắn bọn địch đang trao đổi về mục tiêu kho hàng. Còn mật ngữ về đàn chim phải chăng là tọa độ mục tiêu mà X2 báo cho bọn chỉ huy ? Anh giở mấy tấm bản đồ khu vực vũng Hòn Lăng, tỷ lệ lớn, bé khác nhau, xem mãi không thấy có một số liệu nào về tọa độ có dính dáng đến con số 15 cả. Đây là một quy ước định sẵn chăng? Quả thật là đau đầu. Nhưng tình hình khẩn trương lắm rồi, kẻ địch sắp ra tay, không thể kéo dài việc giải mã. Đang suy nghĩ về con só, bỗng mấy tiếng “trên dây thép” văng vẳng nổi lên trong tâm trí anh? “Phải rồi, đây chính là con đường ô tô chạy ven vũng biển“; sự liên tưởng bất ngờ ấy chỉ lóe lên trong giây lát giúp anh khẳng định con số 15 ám chỉ tọa độ mục tiêu. Anh thử lần tìm ký hiệu Các cột cây số trên đoạn đường chạy qua địa bàn. Lần này anh lại rơi vào trạng thái thất vọng. Chẳng có con số chỉ kilômét nào liên quan đến con số 15. Lại ôm đầu suy nghĩ. Chợt mắt anh lướt qua mảnh sơ đồ vũng Hòn Lăng vẽ tay trên một mảnh giấy cơrôki. Ký hiệu chiếc tàu vận tải hiện lên rõ nét. Tuyến sững người : “Có thể nào kẻ địch lấy vị trí con tàu làm chuẩn để xác định phương hướng chăng ?” Anh vụt chồm người tới, cầm chiếc bút chì dò qua dò lại trên tấm sơ đồ. Anh vạch ngang, vạch dọc nhiều đường, lấy vị trí chiếc tàu làm trung tâm. Anh sực nhớ đến vị trí của những kho hàng không ghi lên bản đồ, nhẩm lại từng điểm một và thử chấm định lên bản sơ đồ. Mắt anh bỗng sáng lên. Mục tiêu NZ nằm chếch về phía Bắc 15 độ đối chiếu với đường thẳng ngang từ chiếc tàu vào bờ, vuông góc với đường ô tô. Thế là rõ, X2 đã báo cho cấp trên vị trí của mục tiêu NZ, mục tiêu mà anh đã gà cho Liên hé lộ cho Hường biết. Bài toán khó thế là đã giải xong được phần đầu. Phần sau dứt khoát là một thông báo về thời cơ hành động. Tuyến đang có đà, viết luôn lên giấy con số 66. Anh lấy làm lạ là khác với thông thường mọi thông tin về tầm nhìn xa trên biển đều dựa vào hệ kilômét hoặc hải lý, ở đây kẻ địch dùng đơn vị phít, bộ. Chúng nó ẩn ý gì? Anh không nhớ chính xác số lẻ, cứ ước chừng mỗi phít tương ứng khoảng 33 cen ti mét. 66 phít là bao nhiêu mét? Anh thử làm phép nhân, tìm ra tích số 2178m. Lại suy nghĩ về con số này, con số có khả năng chỉ rõ thời gian. Anh cứ lảm nhảm trong đầu : “bộ, phít, phút... phít, phút”. Một tia sáng lóe lên trong đầu anh: 2178 mét, phải chăng con số ấy chỉ 2178 phút? Anh lại hí hoáy làm con tính nhỏ: con số chỉ 22 giờ 18 phút. Ra rồi! Con số một chỉ tốc độ chính là con số chỉ ngày. Có thể là ngày mồng 1, có thể là cách một ngày, cũng có thể là một ngày N quy ước nào đó cộng, trừ 1. Anh nhẩm tính ngày trên tờ lịch, tính đến khả năng quy ước thời gian trước giữa bọn chỉ huy với X2 rồi đi đến kết luận, chỉ một ngày nữa, địch sẽ hành động. Tạm thời, sự phân tích dừng lại ở đó.
Có khả năng, địch sẽ tập kích mục tiêu NZ ngay đêm mai. Thế mới biết chúng đã chuẩn bị sẵn sàng cho hành động phiêu lưu mạo hiểm này ở mức nào. Hắn bọn biệt hải đang có mặt trên hạm tàu ngoài khơi, chờ lệnh đổ bộ xâm nhập lên bờ. Tuyến vội vã thu xếp tài liệu, rời căn hầm, đi ngay đến tổ điện đài, gửi báo cáo về cho trung tá Giáp.
Đơn vị cơ động chuẩn bị cho trận đánh gián điệp biệt kích đã được ban chỉ huy công an vũ trang tỉnh điều đến từ mấy hôm trước. Đó là một phân đội đã từng chiến đấu nhiều trận và có nhiều thành tích trên tuyến biên giới phía Tây. Đội vũ trang của trạm biên phòng tạm thời được bổ sung vào biên chế của phân đội ấy. Vinh được tách ra khỏi ban chỉ huy trạm, bổ sung vào ban chỉ huy phân đội cơ động. Tuyến được ban chỉ huy tỉnh giao trách nhiệm chỉ huy chung các đơn vị có mặt trên địa bàn cảng dã chiến.
Việc bố trí Vinh làm phân đội phó đơn vị chiến đấu mới thành lập đã gây ra một cuộc tranh cãi gay gắt trong ban thường vụ đảng ủy và ban chỉ huy tỉnh. Chưa bao giờ thường vụ phải họp một phiên vừa bàn việc bổ nhiệm nhân sự mới, vừa bàn việc xem xét kỷ luật liên quan đến cùng một con người. Đó là trường hợp của Vinh. Sau vụ việc xảy ra đêm sập hầm, Vinh đã làm bản báo cáo kiểm điểm, tường trình rõ mối quan hệ yêu đương với Liên, không giấu giếm diễn biến sự việc xảy ra anh đã ngủ với Liên, nhưng chỉ nhận khuyết điểm về quân phong, quân kỷ về vai trò gương mẫu của một sĩ quan, còn cái mà mọi người đều coi là tội hủ hóa, anh kiên quyết không nhận. Anh khăng khăng cho rằng một khi tình yêu là chính đáng, thì không thể coi quan hệ xác thịt giữa hai người là hành động hủ hóa. Chi bộ trạm tranh luận sôi nổi, căng thẳng. Cuối cùng văn bản nghị quyết báo cáo lên thường vụ cấp trên ghi 60 phần trăm số đảng viên đề nghị lưu Đảng 6 tháng, cách chức trạm phó của Vinh; còn 40 phần trăm đề nghị chỉ cảnh cáo và điều chuyển công tác.
Cuộc tranh luận ở cấp thường vụ đảng ủy diễn ra trên một bình diện cao hơn, không những đề cập đến lập trường quan điểm mà còn đi sâu vào việc bố trí cán bộ. Trong trường hợp Vinh, cả hai vấn đề dính liền nhau, vì trước đó, thường vụ đã có quyết định sẽ bổ nhiệm Vinh làm phân đội trưởng phân đội cơ động hỗn hợp được thành lập để chuẩn bị cho trận đánh có nhiều khả năng sẽ xảy ra trên địa bàn trạm biên phòng cảng dã chiến. Tất cả các ủy viên đều phê phán hành động sai trái của một cán bộ chỉ huy cơ sở đang ở thời điểm căng thẳng của chiến dịch, làm mất uy tín không những của bản thân mà của cả đơn vị trước con mắt của bao nhiêu lực lượng phối hợp tham gia chiến dịch giải phóng hàng. Nhưng khi bàn về khía cạnh đạo đức, vấn đề hóa ra phức tạp, nhiều ý kiến trái ngược nhau. Câu nói vui của phó bí thư Giáp không ngờ lại châm ngòi cho cuộc tranh cãi. Anh phát biểu:
— Chúng nó yêu nhau thực tình, trai chưa vợ, gái chưa chồng, say đắm quá đi đến “ăn cơm trước kẻng”. Mà chúng nó tự đánh kẻng lấy cũng được chứ sao. Các đồng chí quan niệm vấn đề đạo đức có khắt khe quá chăng ? Đây là một tình yêu trong sáng như đối với nhiều người khác.
Lập tức, có nhiều ý kiến phản đối. Có người nói thẳng ra rằng ý kiến ấy không nghiêm túc. Ngoài việc phê phán gay gắt hành động hủ hóa của Vinh, những người phản đối tập trung vào điểm tình yêu của Vinh có trong sáng hay không. Cuộc tranh luận tưởng như lạc ra ngoài để vụ xem xét kỷ luật khi mọi người hướng về đồng chí phó bí thư, cố ý phản bác Giáp bằng việc nêu lên quan điểm giai cấp của người đảng viên. Họ cho rằng việc Vinh yêu một Cô gái thiên chúa giáo còn đáng kỷ luật hơn tội hủ hóa. Tội hủ hóa thuộc về lĩnh vực sinh hoạt; còn mối quan hệ yêu đương kia vi phạm lập trường giai cấp. Sở dĩ bí thư Đảng ủy chủ trì hội nghị không kéo cuộc họp trở lại vấn đề chính là xét kỷ luật một đảng viên phạm tội hủ hóa là vì ông cảm thấy anh em đang bàn đến một vấn đề thuộc về nguyên tắc Đảng, về lập trường giai cấp. Trong trường hợp của Vinh, giữa ông và phó bí thư qua nhiều lần trao đổi, không bao giờ ý kiến thống nhất với nhau. Ông muốn lấy ý kiến tập thể để Giáp chấp nhận lập luận của ông. Tuy vậy, với thái độ khách quan, ông cũng đính chính một vài điểm:
— Có nhiều đồng chí nói rằng cô Liên là một đối tượng của vụ án. Không đúng đâu, trước đây ta phân loại cô ta vào diện có liên quan với Hường, nhưng đồng chí Tuyến đã xác minh cô ta chỉ có quan hộ yêu đương ngày trước với Hường, nay đã cắt đứt và đã cộng tác với ban trinh sát làm được nhiều việc.
Ông nói thêm :
— Dù sao thì quan hệ luyến ái của đồng chí Vinh với một cô gái có đạo cũng là không chấp nhận được. Một đảng viên sĩ quan nằm trong lực lượng chuyên chính của Đảng và Nhà nước không được phép xử sự như vậy. Đề nghị đồng chí Giáp cũng nên xem lại quan điểm của mình.
Giáp tự bảo: “Anh ấy đưa mình lên mâm đây”. Vẫn với một giọng nhỏ nhẹ, chậm rãi, anh tiếp lời đồng chí bí thư:
— Không phải vì tôi đã cùng đồng chí Tuyến trước đây đưa ra với thường vụ đề nghị bổ nhiệm đồng chí Vinh làm phân đội trưởng đơn vị cơ động trong trận đánh sắp đến, cũng không phải vì tôi coi nhẹ những vấn đề thuộc về lập trường quan điểm, mà tôi phát biểu như vậy đâu.
Về chuyện này tôi đã suy nghĩ rất nhiều kể từ ngày đồng chí đại úy trạm trưởng Hạ gửi văn bản lên ban chỉ huy tỉnh khiển trách Vinh về chuyện yêu đương vô nguyên tắc. Tôi xin nói lên những ỹ nghĩ của tôi về chuyện này, những ý nghĩ vượt ra ngoài một mối quan, hệ luyến ái cụ thể như trong trường hợp đồng chí Vinh.
Đoạn mở đầu của Giáp làm cho hội nghị cảm thấy ngay anh sắp nói đến một vấn đề nghiêm túc mà mọi người chưa ai nắm được là vấn đề ý. Không khí phòng họp. Lắng hẳn xuống. Giáp ngừng lại một lúc, lại tiếp tục trình bày. Mắt anh nhìn về phía đồng chí bí thư, nhưng cái nhìn trông như đang hướng tới một điểm trong khoảng không vô tận. — Tôi không hiểu các đồng chí nhìn nhận người thiên chúa giáo theo quan điểm nào mà ngăn cấm tình yêu giữa một đảng viên và một nữ thanh niên công giáo.
Tôi được báo cáo là trong số 19 người lao động hy sinh trên vũng Hòn Lăng, có 4 người là giáo dân. Cô Liên là một giáo dân đi thanh niên xung phong đã lập nhiều thành tích trên tuyến lửa miền Tây. Từ ngày về cảng trạm, cô đã tỏ ra hăng hái lao động; tiếp tục lập thành tích, đã cứu sống một sĩ quan của ta. Đồng chí bí thư vừa có lời xác minh vai trò tích cực của cô trong vụ án ta đang tiến hành. Còn hàng trăm hàng ngàn người như họ trong cuộc sống chống Mỹ, cứu nước này. Vậy ta đánh giá họ như thế nào về mặt tư cách công dân, về mặt thành viên của cộng đồng dân tộc và về quan hệ xã hội? Họ là những người yêu Tổ quốc thật sự, đã tự nguyện xả thân vì sự nghiệp chung. Các đồng chí đặt ra một cái hàng rào về quan hệ xã hội quan hệ tình cảm, chẳng hóa ra các đồng chí coi họ là những người yêu nước giả ư ? Có nên coi cái chết của một giáo dân không cao cả bằng cái chết của một người cộng sản, cả hai cùng hy sinh cho Tổ quốc hay không? Về mặt nguyên tắc, mỗi tổ chức có một yêu cầu tuyển lựa và bố trí người riêng để phù hợp với tính chất nhiệm vụ, nhưng còn về mặt tình cảm, cụ thể là về quan hệ luyến ái, hôn nhân thì cả điều lệ Đảng lẫn hiến pháp không những không ngăn cấm mà còn ghi rõ quyền tự do hôn nhân kia mà. Chúng ta mang nặng thành kiến hẹp hòi một cách vô lý. Tự chúng ta trói buộc tư tưởng chúng ta, tạo nên một sức đè nén vô hình lên tư tưởng, tình cảm của đảng viên. Cứ kiểu này tôi e rằng cho đến khi xã hội tiến lên, tự chúng ta tách ra khỏi đông đảo quần chúng, làm cho người ta vừa sợ, vừa ghét chúng ta.
Đồng chí bí thư giơ tay ra hiệu. Giáp dừng lời ngay. Bí thư đảng ấy cảm thấy rõ ràng lời phát biểu của phó bí thư ít nhiều đã có tác động đến hội nghị. Không khí chung lắng hẳn xuống. Ông vội nói:
— Xin mời các đồng chí trở lại vấn đề chính. Chúng ta đang xem xét vụ kỷ luật của đồng chí Vinh cơ mà.
Cuộc thảo luận chỉ kéo dài thêm mười phút nữa thì kết thúc. Kết quả biểu quyết: 4 ủy viên thường vụ, kể cả bí thư tán thành khai trừ lưu đảng 6 tháng và cách chức trạm phó biên phòng của Vinh. 6 người tán thành mức kỷ luật cảnh cáo. Riêng đồng chí Tuyến, ủy viên thường vụ vắng mặt không tham gia biểu quyết. Đến mục bố trí cán bộ tiếp theo sau, tất cả Ban thường vụ nhất trí bổ nhiệm Vinh tham gia Ban chỉ huy đơn vị cơ động của tỉnh, nhưng chỉ giữ cấp phó, không giữ cấp trưởng như đã dự kiến trước đây.
Vinh có nỗi băn khoăn mới từ ngày Liên chuyển sang đi thuyền. Hình như Liên có điều gì còn giấu Vinh. Nỗi băn khoăn về quan hệ giữa Hường và Liên cứ ám ảnh Vinh, len cả vào giấc ngủ của anh. Thoạt tiên, tên của anh con trai này được Hạ nhắc đến trong câu chuyện về lý lịch của Liên. Không ngờ về sau, Hường trở về và có mặt trên vũng biển Hòn Lăng. Những ngày gần đây, anh được biết Liên đã xin chuyển sang tuyến vận tải trên biển, và chèo thuyền ra tàu đều đều. Vinh đã chuyển sang đơn vị mới nhưng vẫn công tác trên địa bàn cũ. Tin tức từ thuyền, bè, bến bãi không hiếm. Những cuộc gặp gỡ giữa Liên và Hường, Vinh có biết. Phải chăng, do gặp trắc trở quá nhiều trong tình yêu đối vói Vinh, Liên đã tự giải phóng và quay về với người yêu những buổi ban đầu? Hay đây là một biện pháp Hạ đã áp dụng để tách Vinh ra khỏi Liên? Mục đích để giữ tiếng cho đơn vị ? Một lần, Vinh đang ngồi trong hầm vẽ lại mảnh sơ đồ khu vực tác chiến dự kiến thì thấy Hạ từ đâu lẳng lặng chui vào, ngồi cạnh Vinh. Chẳng nói chẳng rằng, Hạ chăm chú xem Vinh vẽ. Tự ,nhiên, Vinh cảm thấy đầu óc căng thẳng. Hạ ghé thăm bất ngờ với mục đích gì ? Vinh dừng tay, ngẩng đâu nhìn Hạ, đôi mắt trân trân. Biết nói gì với nhau đây ? Dường như hiểu được nỗi băn khoăn, thắc mắc của Vinh, Hạ đưa mắt nhìn qua căn hầm một lát, rồi chậm rãi nói với Vinh:
— Xa cậu mấy hôm, mình nhơ nhớ. Đi ngang qua đây, tiện thể ghé chỗ cậu một tí. Có thế thôi. Bây giờ, mình đi đây.
Vinh trố mắt nhìn Hạ. Anh bất giác giơ tay ngăn Hạ đứng dậy:
— Khoan đã. Tôi chẳng hiểu gì hết. Chẳng phải chính , anh là người kiên quyết đưa tôi ra khỏi Đảng ư?
— Trên những bình điện khác nhau, có những cách ứng xử khác nhau. Mình không lầm lẫn. Nay Vinh căng vậy.
— Hóa ra, sau khi loại trừ tôi, anh vẫn còn thương hại tôi?
Hạ nhìn thẳng vào mắt Vinh đáp:
— Việc, xử lý còn do cấp trên. Còn việc mình đến đây là do ý riêng của mình. Cậu hiểu chứ?
— Tôi hiểu. Cảm ơn ý tốt của anh. Nhưng tôi không thích người ta thương hại mình. Anh đã nói thẳng thì tôi cũng xin thành thật hỏi thẳng một câu. Anh có chịu nghe chăng ?
— Vinh cứ nói đi. Tôi phải nói trước với cậu là lúc nhận được quyết định của cấp trên hạ mức kỷ luật cậu xuống cảnh cáo, tôi không hề thắc mắc hay bực bội đâu. Cậu có tin hay không là tùy.
— Tôi không quan tâm đến điều ấy. Tôi chỉ hỏi anh về trường hợp của Liên.
— Anh đẩy Liên về lại với tay Hường phải chăng là kế trả “châu về Hợp Phố “để tách hai đứa chúng tôi ra ?
— Việc đơn vị Liên chuyển sang vận tải hàng là do nhu cầu công tác.
- Hạ nhấn mạnh bốn tiếng “Nhu cầu công tác”. Nhưng Vinh chẳng nắm bắt được thông tin gì khác lạ lúc nghe Hạ giãi bày. Mặt anh vẫn khó đăm đăm, Hạ nói tiếp, chậm rãi hơn:
— Mình có thể xử sự với cậu đúng hoặc sai nhưng không bao giờ dùng thủ đoạn. Cậu hiểu chứ?
Hạ chui ra khỏi căn hầm. Trước khi chia tay, Hạ còn cúi xuống nói nhỏ với Vinh:
— Có lẽ cô Liên không nông cạn như cậu nghĩ đâu.
Biết nói thế nào với cậu đây!
Vinh, có cảm giác lần ấy, Hạ có điều gì khó nói với anh. Ngay sau khi gặp Hạ, Vinh gặp Liên một mình đi từ bến bãi lên núi. Từ cái đêm đáng nhớ ấy, Vinh tránh gặp cô. Có lẽ vì vậy mà vừa thấy Vinh, cô trách ngay :
— Anh sợ cả em nữa chăng ?
Câu hỏi thật bất ngờ. Nhưng với nỗi băn khoăn, thắc mắc đang đầy ứ trong ruột, Vinh đáp luôn:
— Anh không sợ em, nhưng phải sợ dư luận và sợ người khác.
— Ai vậy?
— Người bạn cũ của em, hiện đang ngoài tàu đấy!
Liên tái mặt trước câu nói thẳng tuột của Vinh. Cử chỉ của cô trở nên lúng túng. Mãi hồi lâu, Liên mới nắm lấy bàn tay Vinh, hỏi một câu ngắn gọn:
— Anh còn tin em chứ ?
— Còn yêu nhưng muốn tin thì phải có lời giải thích.
— Người ta phân công chúng em đi chở hàng. Tất nhiên, em phải tiếp xúc với Hường... Anh tưởng em không khổ tâm hay sao ? Em tưởng đã giải thích chuyện cũ của em khá đầy đủ rồi. Anh ghen ư?
Chưa kịp để Vinh trả lời câu hỏi trách móc, Liên bóp mạnh bàn tay Vinh trong bàn tay của mình, nói giọng năn nỉ:
— Anh đừng nghĩ sai về em mà tội nghiệp... Anh hứa đi !
Vinh lặng lẽ gật đầu. Liên nói tiếp:
— Tiểu đội của em vừa nhận được lệnh mới, chấm dứt công tác vận tải hàng, chuyển lên bờ làm nhiệm vụ tải thương. Với lại, anh chưa biết tin lão Hường đã bỏ trốn ư ?
Liên bất giác đưa một ngón tay lên miệng, nói khẽ: “Bí mật đấy nhé”. Vinh cười trước ý nghĩ ngây thơ của Liên:
— Bí mật cả với anh ư? Khá đấy. Bí mật con tò vò!
— Nói cho vui vậy thôi. Em biết tin anh không còn công tác ở trạm 601 mà chuyển sang phân đội cơ động. Lúc đầu, cứ tưởng anh bị “phạt đền” về chuyện ấy, em đã lo. Sau, nghe chúng nó kháo nhau, em mới biết anh đi chỉ huy chiến đấu.
Vinh ngắt lời:
— Và em càng lo hơn, phải không ?
Tự nhiên, Liên ngẩng đầu nhìn vào tầng không xanh thẳm, nói với Vinh:
Mọi việc, chúa đã an bài. Em chấp nhận hết.
Cô quay lại, nhìn thẳng vào mặt Vinh, nói giọng xa vời vợi:
— Em biết chúng em sắp được tham gia trận đánh của các anh. Chẳng biết họ sẽ bố trí chúng em ở cánh nào. Em mừng là được ở gần anh hơn. Gần đây, anh chẳng được thanh thản lắm. Còn em, em chẳng thể giãi bầy ngay một lúc để anh hiểu mọi tình tiết. Có lẽ phải chờ xong trận đánh, này... Được không anh?
Vinh trả lời, giọng mơ hồ, thiếu tự tin rõ rệt:
— Xong trận đánh này...
Liên nhìn quanh không thấy một bóng người nào, vội chụp lấy đầu Vinh, đặt lên môi anh một cái hôn thật dài. Vinh hoảng quá, định lùi lại, nhưng không kịp nữa rồi. Liên buông tay, nói với Vinh:
— Anh đừng ngờ vực tình yêu của em. Đừng làm em khổ tâm thêm. Từ khi vào bờ nhận nhiệm vụ tải thương, em đã nảy ra ý nghĩ dại dột là mong anh bị thương trong trận đánh sắp đến. Bị thương nặng hay nhẹ gì cũng mặc. Em sẽ cứu chữa cho anh và sau đó, dù anh có thế nào đi nữa em cũng chấp nhận anh. Chỉ có như vậy, anh mới hiểu được tình yêu của em đối với anh.
— Nói lại. Chính em lại ngờ vực anh rồi.
- Thế là hòa. Em đã nhận làm con dâu đất Thái Bình. Mãi mãi em sẽ là dâu con đất Thái Bình.
Đó là cuộc trò chuyện cuối cùng giữa Vinh và Liên, trước khi vào trận đánh.
Trận đánh gián điệp biệt kích diễn ra một cách ác liệt và phức tạp không ngờ, vượt ra ngoài dự kiến của những người chỉ huy dày dạn kinh nghiệm qua hàng chục trận thành công trên biên giới miền Tây. Cùng một lúc địch tung hai toán xâm nhập. Ngoài khu vực bắc vũng Hòn Lăng. Chúng cho một toán bí mật đổ bộ lên bờ biển cách trạm cảng hai ki lô mét về phía Nam, nơi ấy đồng bào thường gọi là Bến Cá. Toán này lẻn lên bờ đốt cháy hai mái nhà giấy dầu của trạm thu mua cá, lửa cháy rực trời. Chúng không đi sâu vào xóm nhỏ nhưng nổ mìn, lựu đạn liên tục tạo nên một ấn tượng âm thanh của một trận chiến đấu dữ dội. Đến khi nghe từ phía ấy rộ lên tiếng súng AK của dân quân địa phương, tự nhiên phía địch im tiếng. Chính cuộc đổ bộ nghi binh ấy đã có lúc làm phân tán quyết tâm của ban chỉ huy trong việc bố trí lực lượng cơ động ở hướng chính. Nhưng họ đã nhanh chóng nhận ra rằng Bến Cá không có ý nghĩa quan trọng về mặt quân sự, kinh tế và xã hội trong bối cảnh tình hình chung quanh vũng Hòn Lăng, chẳng qua là một hành động nghi binh của địch nhằm phân tán lực lượng của ta.
Ngược lại ở khu Vực bờ biển phía bắc, trận đánh diễn ra không phải dưới hình thức một hành động biệt kích phá hoại thông thường mà là một cuộc tập kích vũ trang của một đơn vị lính thủy đánh bộ, mặc dù địch chỉ sử dụng lực lượng biệt hải xuất phát từ căn cứ Đà Nẵng, quân số trên ba mươi tên, có trang bị cả súng M.79, trung liên. Đặc biệt hỏa lực phi pháo địch tập trung cao độ. Trước khi đội biệt kích đổ bộ, máy bay địch ném bom liên tục dựng thành hai hàng rào lửa từ núi ra tận mép biển, cô lập khu vực chiến đấu, cách mục tiêu NZ 500 mét về phía hướng Nam và hướng Bác. Dứt tiếng bom, đến lượt pháo tàu chiến ngoài khơi nã liên hồi vào bờ. dựng thành tuyến ngăn chặn trùng với những vệt bom còn mù mịt khói. Đèn dù sáng rực một khoảng trời. Khi một loạt xuồng cao su sắp đổ bộ, máy bay OV 10 bắn pháo sáng ngay trước của mục tiêu NZ. Dưới ánh sáng chói mắt của không biết cơ man nào là đèn dù, máy bay cánh quạt AD6 bắn rốc két, xối xả lên bãi cát dài chưa đầy một trăm mét là địa điểm địch chọn để đổ bộ. Tuy ta đã phán đoán đúng điểm xâm nhập của địch nhưng phương án chọn bắt những tên địch giữ xuồng sau khi để cho bọn biệt kích lên khỏi bãi cát hoàn toàn phá sản. Những tổ xung kích được bố trí bắn thẳng vào xuồng cao su của địch trước khi chúng đổ bộ cũng không phát huy tác dụng được vì ngay từ đầu hỏa lực đường không của địch đã chế áp mạnh dẩy lùi họ lên rìa bãi cát. Trong số sáu chiếc xuồng đổ bộ chỉ có một chiếc bị bắn chìm ở gần mép nước. Trận đánh mới mở màn, đã có năm chiến sĩ ta bị thương. Về mặt chiến thuật ta từ thế chủ động rơi vào thế bị động. Cách bố trí từng tổ nhỏ lẻ phục kích trên các tuyến dường lắm bờ bụi, dự kiến bọn biệt kích sẽ lách qua, bây giờ không thích hợp nữa vì không ai ngờ toán đổ bộ dám ngang nhiên chạy dọc đường ô tô, con đường ngắn nhất từ điểm đổ bộ dẫn đến mục tiêu, chưa đầy bốn trăm mét. Tình huống phức tạp đặt lên vai những người chỉ huy trực tiếp, tại chỗ là ban chỉ huy phân đội cơ động trách nhiệm nặng nề phải xử lý kịp thời. Tuyến và Hạ nằm cách mục tiêu sáu trăm mét bị hỏa lực tàu chiến tách ra khỏi khu vực chiến đấu. Phân đội trưởng Lâm và phân đội phó Vinh người chỉ huy cánh tây đường, người chỉ huy cánh bờ biển cũng không liên lạc được với nhau.
Sau năm phút đầu luống cuống trước sự biến đổi tình thế, Lâm ra lệnh rút ba tổ phục kích ở trước mục tiêu NZ luồn men vách đá về hướng bắc hình thành mũi đánh thọc sườn vào đội hình địch đang ngang nhiên hành tiến trên đường lớn. Bất chấp đạn AR.15 và M 79 bắn xối xả, họ đã chiếm lĩnh được vị trí mới gần đường. Cuộc chiến đấu thực sự xảy ra, ở thế giằng co, các chiến sĩ công an vũ trang quen đánh theo phân đội nhỏ, đánh tập kích nay chuyển sang đánh bằng hỏa lực đã tỏ ra không thành thạo, tuy lực lượng của họ gấp rưỡi địch. Nhưng nhờ ưu thế thông thuộc địa hình, họ đã di chuyển khéo léo cuối cùng ghìm chân địch được trước cửa kho. Tuy vậy có một toán biệt kích hung hãn đã xông thẳng tới mục tiêu, khi nghe tiếng mìn C4 nổ ầm ầm, bọn địch nằm trụ lại cạnh đường ô tô như được tiếng nổ kích thích càng bắn dữ dội.
Trong tiếng đạn pháo tàu thủy bắn liên hồi, tiếng nổ hòa thành dây chuỗi cả bên phải lẫn bên trái, Vinh ở mạn ven biển vẫn nghe rõ tiếng mìn nổ phía mục tiêu NZ, chiếc kho ngầm giả mà ta dựng lên để nghi binh.
Máy bay AD6 bay xèn xẹt qua đầu, liên tục khống chế bãi đổ bộ. Vinh nằm trong một căn hầm hơi nhô ra ngoài bãi, với tâm trạng day dứt lo âu, đầu óc căng thẳng, anh nhìn ra mép sóng nơi năm chiếc xuồng cao su còn nguyên vẹn của bọn biệt kích cứ dập dờn như trêu ngươi. Vẻn vẹn chi có mươi thằng lính hải thuyền nằm trên bãi gác xuồng mà anh không làm gì được chúng. Thế là mấy tiểu đội ở cánh đông do anh trực tiếp chỉ huy không hoàn thành nhiệm vụ. Họ chỉ đánh được một chiếc và phải trả giá năm chiến sĩ thương vong ngay từ đợt đầu. Lúc này cuộc chiến đấu đang diễn ra sau lưng anh mà nhiệm vụ giao cho anh là diệt phương tiện chuyên chở của địch vẫn chưa làm tròn. Các tổ dưới quyền anh đang phải bám vào những hầm hố rải rác nằm dưới những lùm cây lúp xúp. Chưa có trận đánh biệt kích nào Vinh bị đánh vỗ mặt như trận này. Những giây phút đầu tiên mất phương hướng qua đi, anh vẫn còn nhức nhối khi nhìn về những chiếc xuồng cao su. Nhức nhối hơn là khi nghe chi bộ biểu quyết kỷ luật khai trừ. Kỷ luật, một mình anh chịu còn hậu quả chiến đấu thất bại sẽ đè lên danh dự, lương tâm của cả đơn vị. Đối với anh lúc này, niềm hy vọng giữ được chút lòng tin của tập thể chỉ còn dựa vào bản lĩnh chỉ huy và lòng dũng cảm. Có lúc anh đã tính tổ chức mấy mũi, xông vượt qua bãi cát nhanh như chớp và đánh thẳng vào đội thuyền địch. Sự tỉnh táo cân nhắc lợi hại đã ghìm anh lại được. Anh nhìn xỉa xói vào đám xuồng, chán rồi chẳng suy nghĩ thêm được điều gì lại vớ vẩn nhìn lui nhìn tới. Anh chợt cau mày suy nghĩ khi luồng mắt anh lướt trên một rãnh nước cạn từ cổng đường ô tô chảy xuống. Ở chỗ rãnh nước giáp mép sóng có mấy chiếc thuyền nan bị máy bay bắn hỏng trông xác xơ, không biết ai kéo lên bờ từ bao giờ vẫn nằm dồn đống ở đấy. Một ý nghĩ mới mẻ lóe lên trong đầu Vinh. Anh bò ra khỏi căn hầm, luồn dưới những bụi cây dại, tìm gặp tiểu đội trưởng tiểu đội bên trái anh, ra mệnh lệnh phối hợp chiến đấu. Sau đó anh lại bò sang tiểu đội bên phải chọn hai chiến sĩ mang thủ pháo theo anh.
Chiếc ov 10 bay vè vè từ ngoài biển vào quần đảo một vòng lại mở rộng vòng bay. Vinh dẫn đầu tổ ba người lặn xuống rãnh nước cạn, dán mình vào đáy cát đen. Lại một vòng lượn của chiếc máy bay trinh sát qua đi. Vinh nhảy chồm mấy bước lao tới bên chiếc thuyền rách đầu tiên. Các chiến sĩ làm theo. Cứ thế họ ra tận mép nước. Xác một chiếc thuyền hỏng dập dềnh trên sóng di chuyển chậm chạp về hướng những chiếc xuồng ở trên bờ, tiếng sóng AK đột nhiên tập trung bắn dữ dội vào đội hình của tổ hải thuyền làm nhiệm vụ gác xuồng của địch. Ỷ thế có máy bay bắn rốc két yểm trợ, bọn này bắn trả không kém dữ dội. Cuộc đấu súng kéo dài bốn, năm phút. Xem ra, chẳng bên nào dám liều lĩnh vượt bãi cát. Tiếng súng phóng lựu M.79 từ bờ biển bắn lên nổ đanh giữa những lùm cây phía trên cao. Khi chiếc thuyền nằm úp trôi dạt chỉ còn cách đám xuồng cao su non ba mươi mét, cả ba người trong tổ Vinh cùng ném một loạt thủ pháo vào các bến đậu dã chiến ấy. Vinh nhìn rõ có một chiếc xuồng bị bật nghiêng úp mặt vào chiếc bên cạnh. Anh nhảy vọt lên khỏi mặt sóng. Từ đó, dựa vào sự che khuất từ phía bờ cao, Vinh bò dần về hướng bắc. Tổ của anh đã nằm trong vòng an toàn, không sợ bị máy bay AD6 đánh nữa. Lại một loại thủ pháo ném về phía bọn hải thuyền. Khói lửa bùng lên theo tiếng nổ sau những lườn cát.
Bọn hải thuyền trong lúc đang phải tập trung hỏa lực chống trả sự tấn công từ phía trên bờ, nghe loạt nổ đầu tiên ở dưới đám xuồng chưa phát hiện ra ngay tổ đột kích của Vinh, nhưng sau loạt thủ pháo thứ hai ném xuống các hõm cát, nơi chúng đang ẩn mình, lập tức chúng chia hỏa lực, đánh trả cả hai phía. Tổ của Vinh nấp sau gờ cát, nổ AK từng loại ngắn, nhưng vì địa hình che khuất, họ không thể sát thương bọn hải thuyền có hiệu quả. Trong lúc nằm nép mình gần mép nước, Vinh có thì giờ nhìn kỹ đám xuồng cao su. Hai chiếc đã bị phá hủy hoàn toàn. Anh đang nghĩ cách tiếp cận chế áp nhóm địch chỉ cách tỏ của anh có gang tấc thì một quả đạn M.79 nổ đánh “cắc” một tiếng sát mép nước, mảnh bay vèo vèo. Vinh thấy nhói ở vai bên trái. Máu rỉ ra thấm ướt áo. Cánh tay anh ê ẩm. Cùng một lúc, người chiến sĩ nằm sau anh bị thương vào chân, rên khe khẽ: “Em bị rồi thủ trưởng ơi”. Bọn địch bắn hú họa vào mục tiêu che khuất đã làm cả hai bị thương. Đúng lúc ấy, tiểu đội cánh phải đã kịp thời triển khai theo rạch nước, nằm sau gờ cát chỗ có những chiếc thuyền nan rách nát, nổ súng về phía bọn hải thuyền. Tổ của Vinh rút lui trót lọt. Họ vừa ra khỏi vòng an toàn thì rốc két từ máy bay phụt xuống mấy loạt liền làm bị thương hai chiến sĩ của tiểu đội bên phải. Một đồng chí hy sinh. Vinh cùng đồng đội chạy vọt lên những căn hầm cũ, mạo hiểm vượt qua quãng trống dễ bị máy bay phát hiện. Mãi một lúc lâu sau khi vào hầm, anh mới thấy đau rát ở chỗ vết thương. Tâm, tiểu đội trưởng tiểu đội bên phải mở cuộn băng cá nhân băng vết thương cho anh. Máu thấm loang trên lớp băng dày. Vinh nói với Tâm giọng mệt mỏi:
— Ngốc quá ! Đáng lẽ tập trung đánh luôn mấy chiếc thuyền mình lại tham ăn, muốn xơi gọn cả tổ của hải thuyền.
— Không ngờ chỉ một nhóm nhỏ thế mà chúng nó lắm đạn M.79 đến thế ! Nếu không có mấy thằng AD6 thì...
Bỗng nhiên, Vinh giục Tâm cho tiểu đội quay vào sát đường ô tô, phối hợp với cánh tây đánh bọn biệt kích đang có chiều hướng rút lui. Tiểu đội bên phải cũng nhận được lệnh mới. Máu ra nhiều, Vinh thấy người yếu lắm. Anh tựa lưng vào vách hầm, thở mệt nhọc. Những ánh lửa chớp từ những loạt pháo giăng hàng rào ngăn chặn loang loáng lóe lên liên tục.
Nhìn về hướng có tiếng nổ, Vinh chợt nhận ra có những cột khói màu đỏ dâng lên cao, lan tỏa vào không gian. Bọn địch rút lui đến đâu đã ném hỏa pháo đến đó, làm tín hiệu cho máy bay yểm trợ, ngăn chặn các mũi tiến công của ta. Hàng rào khói chuyển dần xuống bãi cát. Bên ngoài vòng an toàn ấy, máy bay AD6 bắn phá dữ dội. Tiếng nổ của bom, của pháo rung chuyển căn hầm.
Máu ra nhiều, Vinh hoa mắt. Anh đổ xuống nền hầm. Khi tổ chuyển thương đến nơi anh cố giương đôi mắt trắng nhợt lướt nhìn gương mặt mấy cô gái trẻ. Anh thều thào trong hơi thở yếu ớt: “Liên !... Liên...” Chẳng ai nắm bắt được những tiếng kêu ấy. Người ta vội vã khiêng anh đi.
Vinh không biết rằng Liên ở một tổ chuyển thương khác ở phía tây đường.
Từ lúc biết tin Hường bỏ trốn khỏi chiếc mảng ngoài tàu, Liên cứ nơm nớp chờ đợi giờ phút hắn đến tìm Liên. Về hắn, đen trắng đã rõ ràng. Nhưng với Liên, những giờ phút đợi chờ giải thoát ở màn cuối vở kịch, chờ đợi được trở lại là mình sao mà nặng nề đến thế. Mấy hôm nay, cô không thổ lộ ra cho Vinh biết vai trò cô đóng bên cạnh Hường. Cô đành chịu một sự dồn nén âm thầm. Sự nghi ngờ của Vinh, khi thì nói xa xôi bóng gió, khi thì nói thẳng ra như trong lần gặp gần đây nhất càng làm tăng thêm áp lực tâm lý ở Liên. Nhưng cô tin ở chú Tuyến. Tiếng nói của chú sẽ thuyết phục được Vinh. Liên đã được dặn dò ở nguyên trong căn hầm sát chân núi, nơi chú Tuyến đã bố trí. Tổ chuyển thương của Liên đã vào vị trí tập kết từ lúc xẩm tối. Riêng Liên vẫn chưa nhận được lệnh di chuyển. Bỗng đạn pháo nổ mít trời. Căn hầm chao đảo. Liên thở phào nhẹ nhõm: “Xong rồi!” Trận đánh bắt đầu, có nghĩa là Hường không thể mạo hiểm mò đến hầm của Liên, như đã quy ước với nhau. Những ánh chớp nhoáng nhoàng ngoài trời xé toạc màn đêm dường như cũng xua tan luôn nỗi lo đợi chờ đến thắt ruột của Liên. Nhưng, tiếng nổ càng dồn dập, căn hầm càng chao đảo. Một nỗi lo khác đến với Liên. Rất có thể cô bị chôn vùi ở đây, lẻ loi, đơn chiếc. Liên vội quỳ xuống, đưa tay làm dấu thánh giá :
— Nhân danh Đức chúa cha, Đức chúa con và Thánh thần. A men... Cầu cho chúng con hàng ngày dùng đủ và tha lỗi cho chúng con cũng như chúng con đã tha lỗi cho những kẻ mắc lỗi chúng con. A men!
Liên cảm thấy lòng mình thanh thản trở lại. Cô không sợ chết. Có một sức mạnh mới vừa ập vào trong cô. Tự nhiên, Liên mỉm cười một mình. Cô nhớ lại cảnh ngồi hầm đêm nào cùng với Vinh. Giả thử đêm ấy, loạt bom tọa độ thổi tung cả hầm lẫn người lên trời, biến tất cả thành xác vụn, thì... Liên không dám nghĩ tiếp. Ôi hạnh phúc bất ngờ và khó khăn! Anh chỉ mới biết cái gan con gái quê em, chứ anh chưa hiểu hết tình yêu cháy bỏng của riêng em đối với anh. “Xong trận đánh này”, câu nói xa vời vợi của anh, ước mong giản dị của anh đã tiếp thêm nghị lực cho em vượt qua những giây phút căng thẳng này. Xong trận đánh này, chiến dịch vận tải sẽ kết thúc. Đối với anh và em, lại là một sự bắt đầu mới mẻ của những ngày hạnh phúc mới mẻ.
Bỗng có bóng người choàng vải dù ngụy trang chạy nhào vào cửa hầm. Mặt Liên biến sắc. “Thằng Hường liều đến thế kia ư? Biết xoay xở làm sao bây giờ”. Người mới đến, cất chiếc mũ có lưới ngụy trang khỏi đầu. Liên nhận ra trạm trưởng Hạ. Tuy vậy, lồng ngực, cô chưa hết đập thình thịch. Hạ nói ngay:
— Cô Liên chuẩn bị dồn tổ chuyển thương dự bị vào tuyến trong, vào gặp anh Lâm. Thương binh đợt đầu đã chuyển lên sát chân núi. Sẵn sàng rồi chứ?
— Em sẵn sàng đi ngay !
Miệng đáp, tay cầm lấy chiếc mũ sắt chụp lên đầu, quàng chiếc túi cấp cứu lên vai, hai mắt Liên vẫn không rời nhìn Hạ. Người trạm trưởng hiểu ngay điều cô gái muốn anh nói thêm. Anh hơi khó chịu trước câu hỏi ngầm của Liên, câu hỏi chắc chắn có liên quan đến Vinh. Nhưng cái nhìn của cô gái quá nhẫn nhục, gương mặt cô lúc này trông đến tội nghiệp. Hạ bỏ qua không đành, phải thốt lên:
— Đợt đầu đã có năm chiến sĩ thương vong. Các cô phải giúp một tay chuyển ra khỏi khu vực chiến đấu tất cả các thương binh.
Liên gật đầu. Câu trả lởi gián tiếp của Hạ đủ cho cô yên tâm về Vinh, con người mà cả hai không muốn nhắc đến trước mặt nhau lúc này.
Liên tưởng chỉ có tổ chuyển thương phải vượt bức tường đạn đại bác tàu thủy địch, xông vào khu chiến. Nhưng trước các cô một quãng, Hạ đang dẫn một tiểu đội chiến sĩ biên phòng men theo vách núi hành tiến về phía bắc.
Phân đội dự bị này được tung ra để đón lõng ở một vị trí lắm ghềnh đá trên bờ biển phía bắc vũng Hòn Lăng. Khi ban trinh sát bắt được mật hiệu phát đi từ máy bay trực thăng nói đến một cái “Hang cua” nào đó, thiếu tá Tuyến nói ngay với Hạ:
— Chúng nó hẹn đón tên Hường đây!
Hai người dở bản đồ, đánh dấu những điểm xuồng cao su có thể ẩn náu trên bãi ngang. Vi trí “Hang cua” được xác định. Đó là nơi rừng dương ăn ra sát biển, bờ đá hiểm trở, có nhiều tảng đá lớn ngăn chân dưới nước, tạo ra nhiều khe hở.
Nhiệm vụ đón lõng được trao cho trạm biên phòng. Khi phân đội vừa triển khai, trận đánh đã bắt đầu, buộc Hạ phải dẫn đơn vị vượt qua khu chiến. Vượt qua hàng rào hỏa lực ngăn chặn, đã nghe tiếng súng bộ binh nổ ran từ bãi biển trở vào chân núi. Thực ra, sự nguy hiểm giảm đi rất nhiều. Liên vừa bố trí cho hai cặp cứu thương khiêng hai thương binh nặng vượt qua tuyến bắn chặn của tàu chiến địch, đi về hướng bắc thì có một chiến sĩ chạy tới tìm gặp cô, giọng đứt quãng:
— Chị cứu thương ơi! Cứu thủ trưởng mau, máu ra nhiều lắm!
Liên tái mặt, hỏi lại:
— Thủ trưởng nào? Ở đâu?
Người chiến sĩ chẳng trả lời, kéo tay Liên đi ngay. Hai người bò qua bãi cây rành rành chi chít những hố pháo. Anh chiến sĩ dẫn Liên đến cạnh một người nằm sấp, bàn tay trái nắm chặt cánh tay phải bị thương máu chảy lênh láng.
— Ủa, anh Hạ ! — Liên thốt lên.
— Trúng mảnh đại bác, chưa đau nhưng tê buốt lắm.
Liên không kịp hỏi gì thêm, nhanh chóng băng bó vết thương cho Hạ, làm những động tác sơ cứu. Hạ bị trúng một mảnh đại bác gần khớp vai, mất máu khá nhanh. Tuy vậy, anh vẫn còn đi được. Liên bảo người chiến sĩ trở lại đơn vị chiến đấu để một mình cô dìu trạm trưởng ra trạm phẫu dã chiến. Anh chiến sĩ này thuộc quân số đơn vị đón lõng ở phía bắc, do đó, sau khi giao Hạ cho Liên, anh ta không quay lại khu chiến mà chạy vọt lên trước cho kịp phân đội của mình. Hạ đi được một đoạn, người cứ lả dần. Liên phải dìu anh đi từng bước. Cô chỉ mong gặp một chiếc cáng nào đi ngược chiều, cô sẽ bảo chị em khiêng Hạ đi tiếp. Nước da anh ta đã tái xanh. Có khi vết thương chạm vào mạch máu. Khi hai người bám vai nhau đi giữa bãi cây lúp xúp che khuất đầu người. Hạ bảo Liên dừng lại một lát, nghỉ lấy sức. Hai người ngồi đối diện nhau trên thảm lá khô. Liên tránh nhìn mặt Hạ. Ánh mắt nghiêm nghị của cô phóng ra xa tắp. Trong đôi mắt ấy, Hạ chỉ bắt gặp một ý thức trách nhiệm rõ rệt, ngoài ra chẳng ghi nhận một tình cảm nào khác. “Cô ấy còn giận mình”, Hạ thầm nghĩ.
Lần đầu tiên, anh nhìn Liên bằng một con mắt khác. Anh khẽ thốt lên:
— Cô Liên này !
Liên ngửng đầu hỏi lại:
— Gì anh?
Nhưng Hạ không nói tiếp. Anh nhìn Liên trân trân. Im lặng.
Liên tiếp tục dìu Hạ đi.
Chính vào lúc đó, trận đánh trên bãi biển đã kết thúc. Mười sáu tên biệt kích trong tổng số ba mươi tên, được máy bay yểm hộ mạnh mẽ rút lui được xuống bãi cát. Chúng vội vàng nhào xuống biển, tranh nhau nhảy lên những chiếc xuồng cao su. Chỉ còn lại hai chiếc thuyền, trên đó sáu tên của đội hải thuyền đã chiếm chỗ trước. Không thể chở hết cả mười sáu tên. Thế là chúng nó giành giật nhau chỗ bíu tay trên hai mạn xuồng căng phồng. Pháo ngoài tàu bắt đầu chuyển làn, bắn trùm lên bãi cát và trận địa của ta ở trên bờ. Máy bay ngăn chặn tích cực, buộc chiến sĩ ta giạt ra ở một cự ly khá xa. Nhưng bọn biệt kích không thể nhanh chóng rời bờ. Chúng càng lúng túng khi đạn từ sau lưng vẫn quất vù vù trên đầu chúng. Dù sao, cuối cùng, hai chiếc xuồng vẫn đi thoát. Trên bến đậu, còn sót hai tên bị thương không bám nổi vào xuồng. Ở dưới nước, có hai tên bị đồng bọn đẩy xuống biển đang vùng vẫy lóp ngóp. Đó là bốn tên bị bắt cuối cùng. Không một tên biệt kích chết hoặc bị thương được cả bọn mang trở về tàu.
Thế là kết thúc trận đánh mà ngay sáng hôm sau, đài “Tiếng nói Hoa Kỳ” đưa tin : “Một đơn vị biệt kích Việt Nam cộng hòa đã đổ bộ lên bờ biển Bắc Việt, tại một điểm cách Đà Nẵng 200 dặm về phía bắc. Với sự yểm trợ hữu hiệu của hạm đội và không lực Hoa Kỳ, đơn vị này đã phá hủy hoàn toàn một kho tiếp liệu lớn của cộng sản Bắc Việt. Kho này chứa khoảng tám ngàn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh nhằm tiếp tế cho các đơn vị Bắc Việt đang xâm nhập phá hoại chế độ Việt Nam cộng hòa. Một tiểu đoàn quân đội Bắc Việt đồn trú tại khu vực mục tiêu đã bị đánh thiệt hại nặng”.
Về chi tiết “một tiểu đoàn quân đội Bắc Việt” có sự trùng hợp trên thực tế. Ngay khi trận đánh bắt đầu, một tiểu đoàn bộ đội địa phương đóng ở phía bắc vũng Hòn Lăng đã cấp tốc hành quân đến chi viện cho các đơn vị đang chiến đấu tại chỗ. Nhưng trận đánh chỉ diễn ra vẻn vẹn có ba mươi phút. Đơn vị chi viện tới nơi, thì hai chiếc xuồng biệt kích đã rút ra biển khơi.
Tuy vậy, sau khi tiếng súng đã im, phân đội dự bị của trạm biên phòng 601 hành tiến theo vạt rừng dương dọc bờ biển đã lập được chiến công. Họ phát hiện ra một chiếc xuồng cao su ở đoạn có nhiều tảng đá nhô ra mặt biển. Chiếc xuồng đang nổ máy rời bờ. Chưa ra khỏi lạch nước nằm giữa hai ke đá thì bị bắn chìm. Một tên biệt kích bị bắn chết. Một tên nữa bị thương nặng bị bắt sống. Hắn chính là tên Hường.
Hắn đã trải qua hai mươi bốn giờ căng thẳng. Hắn đã phải luồn lách, chui lủi trên sườn núi phía sau “tổ Chim”; đó là mật danh quy ước hắn dùng để chỉ kho hàng bí mật. Hắn biết rõ không dễ gì phát hiện được hắn trong đám bụi rậm, hoang dại. Tuy vậy, giữa ban ngày, mấy lần các tổ truy lùng rảo bước đi sát ngay gần chỗ hắn nấp, hắn vẫn run. Cho đến lúc trời tối, hắn mới bớt lo. Hắn bắt đầu quan sát dải đất hẹp, từ trên cao. Hắn giật mình. Hắn thấy nhiều tốp nhỏ bộ đội lặng lẽ di chuyển giữa rừng dương trơ trụi, trong ánh pháo sáng chập chờn. Thì ra, dưới kia, họ đang triển khai lực lượng đối phó với cuộc tập kích đêm nay. Hắn hoảng quá. Hắn chịu bó tay không có cách nào báo tin này về trung tâm. “Cơn giông” sắp xảy ra mà trực thăng chẳng thấy xuất hiện. Nếu hắn không truyền tin kịp thời, có nguy cơ “Cơn giông” bị dập.
May thay, trước giờ quy ước nổ ra “Cơn giông” hắn thấy trực thăng bay đến. Hắn truyền tin ngay. Bầu trời ra lệnh cho hắn nhanh chóng di chuyển về “Hang cua”. Ở đó có xuồng đón hắn. Hắn đã thuộc lòng vị trí của “Hang cua”. Pháo tàu chiến phát hỏa khi hắn vừa xuống núi. Những loạt đạn nổ đanh, dồn dập, đối với hắn thật là bất ngờ. Hắn cứ tưởng trận tập kích sẽ diễn ra trong vòng bí mật, ít nhất trong giai đoạn khởi đầu. Dù đã được hắn báo tin, trung tâm vẫn không ngừng lại. Thì ra, họ quyết định dùng sức mình hỏa lực phi pháo đề yểm trợ cho một cuộc cường tập. Tiếng bom, tiếng đạn pháo rền vang, không dứt. Hắn ở ngoài vòng nguy hiểm, nhưng nghe tiếng nổ mà sốt ruột. Kế hoạch của trung tâm thay đổi thế này, làm sao hắn có thể liều mạng xông vào khu chiến để báo tin cho Liên và kéo cô ta đi cùng? Còn đâu là yếu tố bí mật? Trung tâm có thể bỏ quên một cộng tác viên, nhưng đối với hắn Liên không chỉ là một cộng tác viên mà là nửa cuộc đời của hắn. Hắn tin rằng Liên không thể bị lộ vì tên H.12 phản bội chưa biết một tý gì về hành tung của cô. Nhưng làm thế nào để bắt liên lạc với Liên đây! Giữa một trời bom đạn bời bời, loằng nhoằng pháo sáng, hắn biết rằng không thể liều mạng. Hắn phải lo trước tiên đến sự an toàn của chính hắn.
Xuống đến vạt rừng lúp xúp dưới chân núi, hắn thấy loáng thoáng có bóng người khiêng cáng từ khu chiến đi ra. Có một trạm cứu thương nào đó của cộng sản ở phía này chăng? Hắn không thể hiểu bằng cách nào họ vượt qua được hàng rào lửa, lại còn vai gánh, vai khiêng thế kia. Có một tốp đi qua trước mặt hắn. À, thì ra họ là một tổ nữ cứu thương. Nấp trong bụi rậm, hắn chờ cho họ đi qua. Hắn chợt thấy, tiếp sau đó có một cô gái dìu người bị thương lê từng bước, tách xa toán đi trước. Hai người đi qua chỗ hắn nấp. Hắn giật mình nhận ra khuôn mặt Liên lấp ló dưới vành mũ sắt, hắn mừng quá. Trong đầu hắn nảy ra một kế hoạch hành động. Mục tiêu phải giải quyết đầu tiên là người thương binh đi kề bên Liên. Cơ may trời cho, hắn không thể bỏ lỡ. Hắn lao nhanh ra giữa con đường mòn, từ phía sau dùng chân gạt ngã người thương binh, tay rút lẹ lưỡi dao lá lúa. Trước khi xuống tay, hắn quát mấy tiếng rất đanh:
— Liên ! Tránh ra !
Hắn cúi xuống, đâm lưỡi dao vào ngực anh thương binh. Bỗng cánh tay hắn bị đánh bật ra. Chiếc mũ sắt trong tay cô gái nện tới tấp vào đầu, vào lưng hắn. Nhưng hắn vốn khỏe. Chỉ sau giây lát bị bất ngờ, hắn hiểu ngay tình thế và có phản ứng tức thì. Hắn trợn mắt nhìn Liên, tay trái gạt chiếc mũ sắt của Liên, tay phải hắn đâm luôn ba nhát trúng giữa ngực cô gái. Trong cơn điên giận, hắn còn muốn băm vằm người mà hắn tưởng nhầm đã quay lại yêu hắn, người đã phản bội hắn. Nhưng hắn chẳng còn thời gian. Phía sau hắn, đã có tiếng chân bước rậm rịch. Hắn vội bỏ cô gái và anh thương binh nằm giữa rừng, lủi nhanh ra mạn ngoài. Hắn bươn qua không biết bao nhiêu là bụi rậm đầy gai góc, lao về hướng “Hang cua” là nơi hắn bị bắn và bị bắt.
Hạ được cứu sống nhưng Liên đã hy sinh. Thi hài Liên được mai táng cùng một lần với sáu chiến sĩ biên phòng tại nghĩa trang liệt sĩ gần xóm Bến Cá. Nghi lễ thời chiến được tổ chức đơn giản nhưng trang nghiêm. Cả Vinh lẫn Hạ, không ai được dự lễ mai táng đồng đội hy sinh. Riêng Vinh, anh bị lên cơn sốt và nằm liệt ở hầm quân y mấy hôm liền. Sau đó, xe cứu thương đơn vị chở thẳng anh ra Hà Nội vào viện 108.
LƯƠNG SĨ CẦM