Tuy nhiên, đất nước Cuba lúc này phaœi đối phó với một tình hình khá căng thẳng, đó là quan hệ thù nghịch với Mỹ, quốc gia chỉ cách họ có chín mươi dặm. Fidel Castro sợ cuộc cách mạng của mình sẽ bị Mỹ cướp khỏi Cuba như nền độc lập đã bị cướp đi cuối cuộc chiến Tây Ban Nha - Mỹ năm 1898.
Mỹ cố tìm cách loại bỏ Fidel, sau khi ông chuyển cuộc cách mạng thành chống Mỹ và theo Cộng sản. Ngay cả trước khi chính phủ Eisenhower biết chuyện ở Cuba, họ vẫn nhất quyết tìm cách loại bỏ Fidel để thay bằng nhà nước khác. Người Cuba không chiếm hay quốc hữu hóa tài sản của Mỹ trên đảo quốc, nên Mỹ không có lý do gì để phàn nàn. Thật ra, bề ngoài Mỹ tỏ ra thân thiện với Fidel. Ðầu tháng giêng, Mỹ là nước thứ hai trên thế giới (sau Venezuela) công nhận chính phủ cách mạng. Mỹ cử đại sứ mới tới Cuba gặp Fidel vào tháng ba và nói chuyện thân mật. Hôm sau, Fidel nói chuyện trên đài truyền hình và tỏ ý muốn sang thăm Mỹ vào tháng sau với tư cách khách mời của một tòa báo Mỹ. Tháng ba năm 1960, chính phủ Mỹ quyết định tăng cường các hoạt động chống lại Fidel, CIA bắt đầu vũ trang cho một nhóm phiến quân chống Fidel ở vùng núi thuộc miền trung Cuba. Nhóm này chủ yếu là lính cũ của Batista và giới điền chủ giàu có song sau đó bị CIA bỏ.
Mùa xuân năm 1959, lúc Fidel Castro chuẩn bị đi Mỹ thì quan hệ hai bên đã căng thẳng. Chiến dịch chống Cuba đã bắt đầu trong chính phủ Mỹ, quốc hội, truyền thông và những hoạt động này không thoát khỏi tầm mắt của Fidel. Tháng ba, Fidel quyết định hoạt động để dân chúng Mỹ nhìn khác đi về cuộc cách mạng Cuba. Ông đã nhận lời mời của hội các chủ bút Mỹ nói chuyện trước cuộc họp thường niên của họ ở Washington và khởi động “chiến dịch sự thật” vì quyền lợi của báo giới Mỹ, có vẻ như Fidel nhận được nhiều cảm tình của người Mỹ.
Chuyến thăm Mỹ giữa tháng tư của Fidel, chủ yếu là quan hệ quần chúng và làm cho dân Bắc Mỹ hiểu về chủ nghĩa dân tộc Mỹ La tinh. Ở Mỹ, Castro được xem như thần tượng và ông biết nói những chuyện người Mỹ muốn nghe. Ông cũng được mời tới Nhà Trắng dùng bữa với đại diện thư ký chính phủ và nói chuyện hơn hai giờ với phó tổng thống Nixon, sau đó ăn trưa ở câu lạc bộ báo chí quốc gia, trả lời các câu hỏi của nhà báo, phỏng vấn trên truyền hình, viếng thăm các nghị sĩ, tổ chức chiêu đãi ở tòa đại sứ Cuba nơi ông ở. Lúc rảnh rỗi, Fidel đi thăm các đài tưởng niệm Lincoln và Jefferson, rồi đi loanh quanh những khu đất quanh nhà của Washington. Ở New York, Castro đến Liên Hiệp Quốc, nói chuyện với đám đông ba chục ngàn người ở công viên trung tâm, với các nhà xuất bản, giới kinh doanh và tài chính. Ông đã gây được ấn tượng tuyệt vời trong lòng người dân Mỹ. Từ New York, Castro đi xe lửa xuống Boston, nói chuyện ở trường đại học Harvard, rồi đi Montreal và từ đây đi ngay tới Buenos Aires dự hội nghị kinh tế Liên Mỹ.
Sau Bắc Mỹ, Fidel Castro quyết định đi Nam Mỹ để khẳng định độc lập cuœa Cuba với Mỹ và vai trò của ông đối với cách mạng Mỹ La tinh, rằng Cuba sẵn sàng giúp đỡ cho người Mỹ La tinh lưu vong muốn lật đổ chế độ độc tài trong nước được sống và làm việc ơœ Cuba. Fidel ở Nam Mỹ mười ngày, một thắng lợi nữa của riêng ông và cách mạng. Ông thu hút đông đảo mọi người, họ hoan hô cuồng nhiệt và lôi cuốn sự chú ý của các lãnh đạo địa phương. Ở Tây Ban Nha, ông được Thủ Tướng Eric Williams chào đón. Ở Sao Paulo, Fidel tuyên bố “hoài bão của chúng tôi giống như của toàn dân Nam Mỹ,” đoạn bay đến thủ đô tương lai của Brazil, tiếp kiến tổng thống Juscelino Kubitschek. Qua Buenos Aires, ông gặp tổng thống Arturo Frondizi. Ở Montevideo, ông được chính phủ Uruquay chào đón và nói chuyện trước cuộc mít tinh lớn ngoài phố. Sau đó, ông trở lại Brazil gặp lại tổng thống nước này, nói chuyện trong buổi mít tinh rồi dự hội nghị kinh tế ở Buenos Aires.
Bất cứ nơi đâu Fidel đến, ông cũng đều hòa vào đám đông và luôn là mục tiêu dễ ám sát. Tuy vậy, công chúng không có ý muốn chống lại ông. Ở New York, khi được cho xem bài viết có tựa đề “âm mưu ám sát”, Fidel cười nói, “Tôi không có gì phaœi lo lắng. Ðến lúc phải chết thì tôi sẽ chết, chứ không đòi sống thêm ngày nào hết.”
Fidel trở về Havana vào đầu tháng năm và hôm sau, ông khởi đầu giai đoạn mới của cách mạng Cuba. Fidel luôn cảm thấy phải tiếp xúc với quần chúng, nên ông tổ chức buổi mít tinh với sự tham dự cuœa hàng chục ngàn người tại Quảng Trường Cách Mạng và cam kết, “Cách mạng không bao giờ từ bỏ những nguyên tắc nhân bản và công lý xã hội ở Cuba.” Ðến giữa tháng năm thì luật cải cách ruộng đất được cả nội các ký. Viện Cải Cách Ruộng Ðất Quốc Gia được lập để làm nhiệm vụ quan trọng nhất của chính phủ cách mạng.
Cuối mùa xuân 1959 là giai đoạn nguy hiểm cho cách mạng trong và ngoài nước. Tuy vậy, ông vẫn nhắc nhở đồng đội rằng phải làm cách mạng cẩn thận và từ từ. Trong nước, Fidel và cách mạng vẫn được công chúng ủng hộ, song Fidel cảm thấy có những dấu hiệu bất ổn ở đâu đó. Ông không chắc Phong Trào 26 tháng Bảy vẫn trung thành, đặc biệt là “cánh hữu tư bản”, có những người toœ ý muốn đòi chức vụ và quyền lợi, đã khiến cho Fidel giận dữ.
Về mặt đối ngoại, Fidel ngày càng sợ Mỹ can thiệp, đặc biệt sau khi ký Luật Cải Cách Ruộng Ðất. Mỹ nhất quyết ngăn cản các nước khác bán vũ khí cho Cuba. Ngay sau chiến thắng, Fidel cho hiện đại hóa Quân Nổi Dậy bởi ông tin đó là công cụ chính của chính quyền cách mạng, nên không cần lớn lắm song phải chuyên nghiệp và được vũ trang kỹ để khi có sự cố thì có thể hành động ngay. Cuối cùng, ông thấy nên chuẩn bị lực lượng quân dân vũ trang trên cả nước vì ngại có nguy cơ phản cách mạng và lo sợ Mỹ tấn công. Fidel nói với một triệu dân Cuba tại cuộc mít tinh ở dinh chủ tịch rằng nếu “chúng ta không mua được máy bay, chúng ta sẽ đánh dưới đất. Chúng ta sẽ huấn luyện cho công nông dân. Nếu người Anh không bán vũ khí cho chúng ta thì chúng ta sẽ mua ở nơi nào có người bán. Nếu quân đội không có đủ tiền mua máy bay chiến đấu thì toàn dân sẽ cùng nhau đóng góp mà mua...”
Ðợt vũ khí đầu tiên từ Tiệp Khắc và Liên Xô bắt đầu đến Cuba vào cuối năm 1960, vài tháng sau khi quan hệ kinh tế Mỹ-Cuba tan vỡ.
Năm 1959, ngoài Mỹ ra, Fidel còn sợ bị kẻ thù tấn công từ Cộng Hòa Dominica. Trujillo, người của Batista đã lập nên một tổ chức “đội quân ngoại quốc” gồm những lính đánh thuê Caribê, những người Cuba chống đối Fidel, các cựu binh Phát Xít Xanh Tây Ban Nha, Ðức và người Croatia cánh hữu. Trujillo cho tình báo liên lạc với hai viên chỉ huy Quân Nổi Dậy mà y cho là sẵn sàng phản bội Fidel. Một người là lính đánh thuê Mỹ tên William Morgan và người kia là Eloy Gutiérrez, đã từng cùng anh trai là Carlos tham gia cuộc tấn công của Ban Chỉ Huy Cách Mạng Sinh Viên vào dinh Batista năm 1957. Trujillo có lẽ đã giao cho họ một triệu Mỹ kim để phát động quân phiến loạn nổi dậy ở vùng núi Escambray, sau đó sẽ được nhóm Cuba lưu vong và đội quân Dominica của y vào bờ giúp sức. Trujillo không ngờ là hai người này đã báo cho Fidel biết âm mưu trên và cuộc trao đổi mua bán này đã bị người Cuba ghi âm lại. Fidel gài bẫy và tóm gọn chúng.
Ở Havana, Fidel có văn phòng trong khách sạn, ngôi nhà bên bờ biển Cojíma và nhà Celia Sánchez trên phố Mười Một, ngoài ra còn có một nhà khác dành riêng cho ông ở cạnh nhà hát Chaplin ở Miramar. Ông cũng có cơ sở chỉ huy quân sự mật ở khu phố Velado. Dù Fidel thường xuyên qua lại giữa những nơi này, ông chẳng lúc nào ngơi nghỉ. Thỉnh thoảng, ông tới sân vận động vào chiều tối để chơi bóng chày trong chốc lát, hoặc đi ăn kem nói chuyện với mấy ông chủ tiệm cà phê, hay ghé qua buổi tiếp tân của đại sứ quán ngoại quốc. Có khi ông đến quân trại Oriente vài ngày, chuyện trò với quân đội, đọc sách và viết lách. Vào những ngày mưa dầm dề, Castro thích chơi cờ hay đôminô và chẳng tỏ vẻ gì nóng vội. Celia thường đi cùng ông, và Castro có vẻ thích có đồng đội và cận vệ đi cùng. Fidelito có ghé thăm cha ở nhà Cojíma, song do cậu ở nội trú nên không gặp cha thường xuyên lắm. Mùa xuân năm 1959, Fidelito bị tai nạn xe hơi gần Matanzas, rách lá lách và phải mất mấy giờ người ta mới tìm thấy Fidel để đưa ông tới bệnh viện với con trai.
Fidel Castro ưa tìm tòi những điều mới lạ nên ông đã khám phá và thám hiểm Vịnh Con Heo hai năm trước khi người Mỹ nghĩ tới chuyện này. Khi CIA quyết định gây bất ngờ ở đầm lầy lớn ở phía nam, họ không biết Fidel đã rành rọt Ciégana de Zapata như lòng bàn tay nên ông đã thắng không khó lắm. Ðây là sự trùng hợp ngẫu nhiên trong lịch sử. Vùng đầm lầy Ciégana de Zapata thật bao la, hầu như không có dân cư, trải dài dọc theo bờ biển phía nam Havana và tỉnh Matanzas, lãnh địa của cát lầy, thợ than, cá sấu và muỗi. Sau khi chinh phục Sierra Maestra, chắc đó là nơi thách thức duy nhất còn lại ở Cuba, bởi nơi đây còn hoang sơ và hiểm trơœ hơn caœ vùng núi Sierra nên Fidel càng bị lôi cuốn. Thế là tháng ba năm 1959, ông bắt đầu đến khu này thường xuyên hơn. Ít nhất hai lần, ông đã suýt mất mạng giữa đầm lầy bao la quái ác.
Cách Fidel tiếp cận Ciénaga là cách tiếp cận hăng hái, phóng khoáng và thực tế với các dự án phát triển kinh tế xã hội. Ông có ý tưởng đưa hệ thống thoát nước vào để biến 480.000 mẫu phía tây Ciénaga thành vựa lúa bao la, để các gia đình thợ than phát đạt nhờ trồng lúa và mở rộng du lịch, kênh đào, đường xá và các khu nghỉ mát. Tuy nhiên, vì thiếu tài nguyên, kỹ thuật mà hai mươi lăm năm sau những kế hoạch tham vọng nhất của cách mạng đã phai lạt, chỉ cứu được cá sấu và lợn biển mà thôi.
Trong lần đầu đến đầm lầy, chiếc tàu chở ông, Celia và hai người bạn bỗng bị chìm và chỉ có ông nhanh nhẹn nhảy được lên bờ. Khi những người kia tới được bờ thì thấy Fidel đang thư giãn đọc quyển Quá Khứ Xa Xôi của Giovanni Papini mà tình cờ ông có trong túi áo. Mấy ngày sau còn nguy hiểm hơn. Thoạt đầu, phi công lái chiếc trực thăng của Fidel, Thiếu tá Pedro Luis Diaz Lanz - Chỉ Huy Trưởng Không Quân, nói với ông là nhiên liệu không đủ để đi vòng quanh Ciénaga. Anh ta để ba người ở lại Playa Girón, đoạn đi về nhà máy đường ở hướng bắc lấy thêm xăng, hứa vài giờ nữa sẽ quay lại. Ba người ở trên bãi biển tập bắn mãi mà vẫn không thấy Diaz Lanz quay lại, họ đành phải ngủ lại trong lều đánh cá. Sáng ra, ba người đành đi bộ gần mười lăm dặm ra trạm lính để gọi điện về nhà máy đường mới biết chiếc trực thăng vẫn chưa đến đó. Castro gọi máy bay tìm kiếm từ Havana đến, rồi leo vào chiếc máy bay hạng nhẹ với một phi công và cất cánh trong mưa tìm Diaz. Một giờ sau, ông thấy có chiếc máy bay trực thăng bị rơi nhưng không có dấu hiệu người sống sót. Trong khi đó, Raúl Castro, Che Guevara và các viên chức cao cấp khác đến trong chiếc máy bay riêng của Fidel, chiếc Sierra Maestra từ Havana có hai trực thăng đi theo. Fidel leo lên một chiếc, bão vẫn dữ dội và bốn chiếc máy bay nhẹ, một trong số đó có Raúl, đi phía sau. Khi máy bay của Fidel đáp xuống gần chiếc máy bay bị nạn, thì máy bay của Raúl biến mất trong màn mưa. Cuối ngày hôm đó, Fidel tìm thấy và cứu Diaz Lanz ở đầu kia đầm lầy, trong khi Raúl vẫn biệt tăm. Sáng hôm sau, máy bay Raúl được tìm thấy lún dưới bùn gần bãi biển. Raúl và hai viên phi công bị lạc trong đầm lầy, song được đội tìm kiếm cứu thoát và đưa lên tàu bay hải quân trên bãi biển.
Các chuyến phiêu lưu cùng những cạm bẫy ở Ciénaga không làm Fidel nản chí. Ðầm lầy đã trơœ thành dự án được ông lưu tâm và thường được Fidel nhắc đến trong những lần nói chuyện trước công chúng. Sau lễ Giáng Sinh, ông cho dựng một văn phòng nhỏ với vách bằng nhôm, vừa để ở vừa làm việc, ở Laguna del Tesoro ngay giữa Ciénaga. Có dạo, đây là nơi trú ẩn ưa thích và là chỗ tiếp các vị khách quý của Fidel.
Tháng 7 năm 1959, Chủ Tịch lâm thời Urrutia bỗng đổi thái độ. Giữa mùa xuân, ông này tránh né những buổi họp nội các do Fidel chủ trì và cứ trì hoãn việc ký luật. Sau đó, ông này còn bắt đầu phát biểu chống lại đaœng Cộng saœn, Fidel thấy như vậy là toœ thái độ chống cách mạng. Giữa tháng 7, đài phát thanh và truyền hình Cuba thông báo Fidel từ chức thủ tướng (vẫn giữ chức Tổng Tư Lệnh) vì Urrutia đã cản trở luật cách mạng và những chính sách khác của chính phủ. Hai ngày sau, nội các triệu cuộc họp ở dinh chủ tịch. Tối đó, Fidel lên truyền hình nói chuyện suốt hai giờ giải thích ông từ chức là do thái độ của Chủ Tịch Urrutia. Ông chỉ trích Urrutia đã đơm đặt dèm pha Cộng Sản ở Cuba và tự ý sắm sửa nhà với giá ba bốn chục ngàn Mỹ kim.
Dân chúng đã tụ tập đòi Urrutia từ chức và ông chủ tịch đã ký đơn này giữa lúc Fidel vẫn còn nói chuyện trên truyền hình. Các bộ trưởng chấp nhận đơn từ chức và đưa Osvaldo Dorticós, bộ trưởng chuyên thảo luật cách mạng lên làm chủ tịch mới. Mấy hôm sau, công nhân nhà máy dệt tổ chức mít tinh ở sân vận động và các liên đoàn lao động đình công cả giờ đồng hồ để đòi Fidel phục chức. Ba hôm sau, Castro nói chuyện trước một triệu người ủng hộ ông ở Quảng Trường Cách Mạng, đồng ý trở lại làm thủ tướng.
Ba ngày sau khi Mỹ công nhận nhà nước cách mạng ở Cuba thì Fidel phải giải quyết đến vấn đề Liên Xô. Năm 1952, chính quyền Batista đã ngưng quan hệ với Moscow và từ lúc đó cho đến thời điểm này chưa có bên nào đề nghị nối lại.
Một ngày giữa tháng 10, Camilo Cienfuegos tiếp chuyện với một phóng viên hãng thông tấn TASS tên Aleksandre Alexeiev tới Cuba muốn xin gặp Fidel. Ký giả Liên Xô trong bộ đồ đen và cà vạt xám được hai người lính dẫn đường. Ðến nơi, thấy Fidel và bạn ông Nunez Jiménez trong bộ đồ xanh ô liu, Alexeiev chào và trao cho Fidel một gói quà gói trong giấy báo Moscow, trong đó có một chai rượu vodka, vài hộp trứng cá đen và một album ảnh về Moscow. Anh phóng viên người Nga nói dân chúng Liên Xô vô cùng ngưỡng mộ Fidel Castro và cuộc cách mạng Cuba. Chính phủ Xô Viết và đảng Cộng sản rất trân trọng việc ông làm vì sự tiến bộ xã hội của Cuba. Castro vui vẻ trả lời anh ta rằng chính phủ Cuba sẵn sàng giao thương với Liên Xô vào thời điểm thích hợp.
Họ cùng trò chuyện trong chốc lát, sau đấy một viên chức mang bánh vào và cả ba dùng. Fidel quay sang Nunez nhận xét, “Trứng cá và rượu vodka ngon quá! Nunez à, tôi thấy lập quan hệ thương mại với Liên Xô là rất đúng đắn phải không nào?”
Alekseiev nói, “Như vậy thì hay quá, đó là tái lập quan hệ về kinh tế, nhưng còn về điều quan trọng nhất là quan hệ ngoại giao thì sao, thưa ngài?” Fidel đáp, “À! Tôi hiểu tại sao ông lại ăn mặc trịnh trọng như vậy rồi. Ðể xem, chúng tôi cần đợi có điều kiện thích hợp. Ông có nhớ Lenin đã từng nói muốn một chính sách hay tư tưởng mới được chấp nhận thì cần thuyết phục quần chúng cùng tham gia vào không? Chúng tôi sẽ làm như vậy. Ý tưởng hội chợ thương mại anh vừa đề nghị ban nãy tuyệt lắm. Ðó là dịp để cho dân Cuba thấy Liên Xô đã tiến bộ như thế nào. Tới bây giờ mà người ta vẫn còn nói những điều không hay về Liên Xô và chúng tôi sẽ làm cho người ta hiểu đúng về đất nước cuœa các anh. Mình bắt đầu bằng hội chợ và chuyến viếng thăm của phó thuœ tướng Mikoyan được không? Mình đã bắt đầu với trứng cá và vodka rồi đây này.” Ba người chạm ly và Castro nói, “Bây giờ, điều cơ bản là quan hệ ngoại giao, song quan trọng nhất là dân Cuba và dân Nga đã là bạn.”
Trong vòng ba tháng, Mikoyan đã đến Havana để khởi đầu quan hệ sâu rộng với Cuba. Aleksandr Alexeiev sau này thành đại sứ Liên Xô thứ hai đến Cuba.
Cuối tháng 10 năm 1959, cách mạng Cuba mất đi một vị lãnh đạo quan trọng. Trong một chuyến bay, chiếc máy bay nhỏ chở Camilo Cienfuegos đã mất tích không để lại dấu vết. Người ta vẫn chưa xác định được đây là tai nạn hay một âm mưu phá hoại. Ðích thân Fidel tham gia tìm kiếm và tiến hành những chuyến bay cứu hộ. Camilo đã là một người bạn chiến đấu rất đặc biệt đối với Che trong cuộc chiến chiếm vùng Occidente ở phía tây. Giản dị, sống hết mình, không ham muốn gì hơn là được tham dự ở những nơi sôi động nhất, Camilo là một đối trọng cuœa phần tư duy của Che. Tuy vậy, cũng như Che, Camilo sống hồn nhiên và vui thú như một đứa trẻ khác không bao giờ lớn hẳn. Sau hai tuần tập trung tìm kiếm, mọi người đi đến quyết định chiếc máy bay đã thật sự mất tích. Ðó là một mất mát lớn với Fidel và chính phủ cách mạng ở Cuba.