Fidel Castro và John F. Kennedy là người cùng thế hệ. Cả hai đều mang trong mình một trí tuệ phi thường và có tầm nhìn lịch sử bao quát. Họ chưa từng gặp nhau song vẫn thu hút nhau vì là đối thủ và lãnh tụ cao cấp của đất nước mình. Các cuộc thảo luận riêng với từng người đã cho thấy điều đó. Người này cũng đặc biệt quan tâm đến mọi điều liên quan đến người kia, họ tôn trọng tri thức của nhau. Về lịch sử, họ có tác động lớn tới nhau và với đất nước mình: Fidel đẩy Kennedy vào bi kịch Vịnh Con Heo và khởi xướng các chương trình Liên Minh Tiến Bộ với Mỹ La Tinh, còn Kennedy, vẫn khiến Fidel e ngại sau vụ việc ở Vịnh Con Heo, dẫn tới chuyện Cuba phải yêu cầu Liên Xô bảo đảm quân sự và lắp vũ khí hạt nhân trên đảo quốc, gây ra khủng hoảng tên lửa năm 1962, làm thế giới suýt phải đối đầu với chiến tranh hạt nhân.
Theo nghĩa này, Fidel và Kennedy có chung số phận. Tới tận hôm nay, Fidel vẫn tin là nếu Kennedy còn sống, sớm muộn gì, họ cũng sẽ giải quyết khéo léo mâu thuẫn cơ bản giữa Cuba và Mỹ. Bản thân Fidel cũng là mục tiêu ám sát, cái chết của Kennedy là điều bất hạnh lớn và ông hay nói tới chuyện này. Liệu Kennedy có muốn hòa giải để cho Fidel tại vị không - các nhà sử học Mỹ có những ý kiến khác nhau về chuyện này.
Nhưng rõ ràng Fidel là đã đóng vai trò trung tâm trong lịch sử nhiệm kỳ của Kennedy và Kennedy và các chính sách của ông ta đã dẫn Fidel tới cách cư xử khác nhau với Mỹ và Liên Xô. Cuối cùng, Fidel cũng là vấn đề buộc hai siêu cường phải nghĩ lại và xem lại các chiến lược hạt nhân căn bản của họ. Nói cách khác, lịch sử cách mạng Cuba trong thập niên 1960 phần lớn là chuyện tác động qua lại giữa Fidel Castro và John F. Kennedy.
Castro chọn năm 1961 là “Năm Giáo Dục” công khai học thuyết Marx-Lenin, đây cũng là năm chính quyền Kennedy, kế thừa Eisenhower, tiến hành kế hoạch xâm lược ngầm để loại bỏ Fidel.
Eisenhower cắt đứt quan hệ ngoại giao với Cuba hồi tháng giêng. Giờ đây Mỹ tự do theo đuổi mọi hướng hành động để có thể loại bỏ được Fidel. Lúc John Kennedy đang làm lễ nhậm chức ở Washington thì dân Cuba lưu vong vẫn được huấn luyện để xâm lược ở các doông trại mật của CIA ở Guantemala. Fidel đã nhân kỷ niệm chiến thắng hàng năm để báo cho dân chúng hiểm họa “đế quốc” vẫn còn và duyệt binh ở Havana với vũ khí mới của Liên Xô, Czech và Bỉ. Ông thường tự nhủ, hiểm họa bên ngoài, nhất là thực tế gian khó hàng ngày là để giữ cho tinh thần cách mạng luôn mạnh mẽ.
Trong năm 1960, Fidel đã ưu tiên dạy chữ cho dân (40% trong sáu triệu dân mù chữ) cùng lúc lo cho kinh tế và quốc phòng. Bởi vậy, tuần lễ đầu năm 1961, ngay giao thừa, ông đã ăn tối với mười ngàn giáo viên tiểu học ở Trại Columbia tại Havana, nay chuyển thành trường học, để khởi động chiến dịch dạy chữ quốc ngữ và thông báo “đế quốc” sắp gây hấn.
Bước vào giai đoạn đối đầu Mỹ – Cuba, Fidel cảm thấy tự tin ông sẽ bảo vệ được Cuba chống lại bất cứ cuộc tấn công nào do Mỹ hỗ trợ, ông nghi Kennedy sẽ cho lính Mỹ vào Cuba tham chiến cùng lính lưu vong. Ở Washington, CIA đốc thúc tổng thống mới đừng trì hoãn cuộc xâm lăng vì sợ phi công Cuba đuœ thời gian học lái máy bay trực thăng MiG mà Liên Xô sắp cung cấp, ở Czechoslovakia. Fidel cũng nghi quân phiến loạn ở Escambray có thể nghe lời CIA giúp sức cho cuộc xâm lăng của lính lưu vong, nên đầu tháng ba ông lên núi để theo dõi tình hình. Mỹ lúc này cũng cấm công dân nước mình qua Cuba du lịch.
Ðầu tháng 3, chính quyền Kennedy tuyên bố kế hoạch cấm vận hàng hóa Cuba. Sau đó, Kennedy cấm bán nông sản của Mỹ cho Cuba và các tuần tiếp theo, Kennedy và Fidel thực hiện một loạt những hoạt động ảnh hưởng tới hai nước, đôi khi theo cách thức mâu thuẫn nhau.
Tổng thống Kennedy đã hùng hồn mời Mỹ La tinh gia nhập “Liên Minh Tiến Bộ” với Mỹ để cải thiện đời sống dân chúng và giúp kinh tế phát triển, hứa dành hai mươi lăm tỉ Mỹ kim trong một thập niên đóng góp cho mục tiêu này. Kennedy toœ veœ hứng khởi với Liên Minh Tiến Bộ còn hơn cả các kế hoạch cho Vịnh Con Heo. Tuy vậy, cả hai việc này đều bắt nguồn từ cách mạng Cuba, một là ngăn cách mạng nổi dậy ở nơi khác trong Mỹ La tinh và hai là dẹp bỏ cách mạng. Họ hứa hẹn Liên Minh sẽ xây dựng tương lai sáng lạn của Mỹ La Tinh trên tro tàn của cách mạng Cuba. Nhiều năm trước, Mỹ đã gạt bỏ ngoài tai mọi lời kêu gọi của Mỹ La tinh về chương trình phát triển kinh tế trên diện rộng, vậy mà giờ đây dưới thời vị tổng thống trẻ, Mỹ lại làm y hệt điều mà Fidel đã đề nghị ở Buenos Aires cách đó hai năm. Tuy nhiên, họ đã đánh giá thấp vị trí của cách mạng Cuba ở bán cầu.
Nhiều năm sau, khi bàn về Liên Minh này, Fidel Castro nhìn nhận có mối liên hệ trực tiếp giữa cuộc cách mạng của ông và sáng kiến này của Kennedy. Liên Minh có mục đích y như giai đoạn đầu của cách mạng Cuba: khái niệm cải cách ruộng đất, công bằng xã hội, phân phối tốt hơn tài sản quốc gia, cải cách thuế, v.v. Fidel thấy Liên Minh là “chiến lược thông minh” song là nỗ lực vô vọng vì Mỹ La tinh không có cơ sở để cải cách thật sự. Theo ông, chỉ có thể tiếp cận các điều kiện ở Mỹ La tinh bằng hai cách: cải cách xã hội hoặc “đàn áp chính trị” và theo nghĩa này thì Liên Minh là “ý tưởng chính trị khôn ngoan,” dù cải cách cũng không đủ đáp ứng nhu cầu. Cơ bản thì Liên Minh là để tránh cách mạng.
Fidel cũng có ấn tượng với ý tưởng lập Quân Ðoàn Hòa Bình dù như vậy theo ông vẫn chưa đủ. Ông thấy đó là phiên bản “chủ nghĩa quốc tế” của Mỹ, tức trực tiếp liên quan vào quá trình phát triển của nước khác thông qua các nhóm hay cá nhân trợ giúp. Theo một cách nào đó thì việc Cuba bổ nhiệm hàng ngàn bác sĩ, y tá, giáo viên và kỹ thuật viên sang châu Phi và Nicaragua là mô phỏng trên diện rộng Ðội Quân Hòa Bình của Kennedy: Cả Kennedy và Fidel đều hiểu cần thiết phải lập liên hệ trực tiếp ở Thế Giới Thứ Ba để tạo ảnh hưởng. Biết vậy, nên dù Cuba còn thiếu tài nguyên nhưng mùa xuân năm 1960, Fidel vẫn cho gửi một tàu chở thuốc men, thực phẩm và quần áo sang cho nạn nhân sóng thần ở Chile. Cũng năm đó, Fidel đã cho phe cánh tả ở Guyana vay năm triệu Mỹ kim.
Cuộc tấn công sắp xảy ra không có gì lạ với Fidel và cục tình báo rất hiệu quả của ông. Fidel đã quyết tâm chuẩn bị tâm lý cho cả nước khi có tấn công. Mạng lưới an ninh và tình báo của ông làm việc rất hoàn hảo. Bộ trưởng Nội Vụ lúc đó là Ramiro Valdés, người đã lập ra cục an ninh, nói tình báo Cuba còn nắm rõ từng bước kế hoạch chuẩn bị xâm lăng cuœa Mỹ từ Miami tới Guatemala nữa. Dựa trên thông tin từ Miami, Trung Mỹ và trong nước, Cục An Ninh Quốc Gia từ đầu tháng 4 đã bắt tay vào vây bắt những kẻ bị tình nghi có liên kết với CIA hay các hành động phá hoại và hoạt động mật chống chính phủ.
Gần giữa tháng 4, Tổng thống Kennedy nói trong cuộc họp báo ở Washington là quân Mỹ không nên tham gia vào cuộc chiến ở Cuba. Fidel đã lường trước chuyện này. Ông nhận định lời nói của Kennedy có nghĩa là sắp có xâm lăng nhưng là cuộc chiến của dân Cuba lưu vong. Trước cuộc tấn công, Fidel đã có chiến lược cho nhiều khả năng khác nhau, trong khi CIA và các cố vấn Lầu Năm Góc chưa biết họ sẽ gặp chuyện gì. Một lần nữa, Fidel lại “may mắn vì bị đánh giá thấp”.
Fidel cho triển khai và cơ động lực lượng theo các đơn vị chiến thuật. Ông có 25.000 quân vũ trang được huấn luyện kỹ cộng với 200.000 dân quân chia làm các quân đoàn và đóng ở các vùng chiến lược khắp cả nước. Quân đội chia làm ba vùng chiến thuật ở đông, tây và trung với ba tư lệnh là Raúl Castro, Che Guevara và Juan Almeida. Fidel là tổng tư lệnh phối hợp mọi hoạt động từ trụ sở bí mật ở Havana, dù ông cũng di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác nếu cần. Trước cuộc tấn công hai tuần, Fidel cũng đã đi xem xét các nơi ở Ciénaga, Vịnh Con Heo nơi kẻ thù có thể đổ quân vào. Lúc này, đạo quân xâm lăng đã đi tàu từ Puerto Cabezas ở Nicaragua có Hải Quân Mỹ hộ tống. Cuộc đổ bộ được định vào trước nửa đêm ngày 17 tháng 4.
Ngày 15 tháng 5, tám chiếc máy bay hạng nhẹ B-26 đi thành từng đôi bỏ bom vào các căn cứ không quân Cuba nhằm phá hủy không lực của quân đội Cuba để dọn đường trên không cho cuộc xâm lăng hai ngày sau, bom đã rơi trúng một số khu dân cư đông đúc. Sau khi bỏ bom, chúng không biết có vô hiệu hóa được không lực của Cuba không, cũng không biết Fidel dự định làm gì để đối phó lại cuộc xâm lăng. Song dù có không kích hay không thì cuộc xâm lăng cũng thất bại bởi Fidel đã có vũ khí bí mật và những bất ngờ dành cho đối thủ.
Trong vòng năm giờ, quân xâm lược đầu tiên gồm 1.500 lính đổ vào Vịnh Con Heo. Fidel biết Vịnh Con Heo là khu vực chính nên ông đã cho khởi động chiến lược bất ngờ dưới đất và trên không từ trước, giờ đây vũ khí bí mật đang chờ quân xâm lược đến để hành động.
Trước hết, Fidel gọi điện cho đại úy José Ramón, Gallego Fernández ở trụ sở trường quân sự Managua, nam Havana bảo ông này tới Vịnh Con Heo ngay, cùng với đội quân dân ưu tú 870 người ở Matanzas, và nắm quyền chỉ huy toàn khu vực đó cùng với đơn vị dân quân 339 từ Cienfuegos đang đóng ở khắp đầm lầy rộng lớn. Fidel không biết quân xâm lăng đông cỡ nào, song bằng mọi giá không được để địa bàn đổ bộ đủ rộng để quân lưu vong có thể lập chính quyền lâm thời và xin thế giới công nhận. Ý định của CIA đúng là như vậy. Trong khi Fernández đang đi xe jeep về hướng nam thì Fidel ra lệnh cho các đơn vị pháo binh từ Managua và Havana di chuyển gấp đến chiến địa và cho xe tăng T-34 Liên Xô tới đó.
Từ Punto Uno, Fidel gọi điện cho căn cứ không quân ở San Antonio de Los Banos, chỗ hôm trước máy bay B-26 của địch đã tấn công. Sẵn sàng xuất kích trên đường băng là hai chiếc Sea Fury, hai chiếc B-26 và hai máy bay phản lực T-33. T-33 chính là vũ khí mật của Fidel trong chiến lược trên không sáng tạo của ông. Hai chiếc Sea Furys trang bị tên lửa sẽ tập trung tấn công đội quân xâm lăng gồm tám chiếc tàu sao cho chìm càng nhanh càng tốt, trong khi ba chiếc T-33 (nhưng một chiếc đã bị phá hủy hôm trước) sẽ vô hiệu hóa không lực địch. CIA và Lầu Năm Góc tưởng không lực nhỏ bé của không quân Cuba bị phá hủy hết vì đợt không kích rồi, nên tàu của họ không thèm trang bị vũ khí đối không. Mỹ không biết hai máy bay phản lực của Fidel có trang bị mỗi chiếc hai súng máy cỡ 50. Do vậy, hai chiếc T-33 có khả năng hoạt động và tốc độ hơn hẳn những chiếc B-26 ì ạch của địch từ sáng sớm đã bay đi bay lại chiến đấu giữa Nicaragua và Vịnh Pigs. Vậy là mấy chiếc phản lực nhỏ lại đóng vai trò lớn trong chiến thắng của Fidel, ngăn đội tàu cuœa Mỹ nhận được sự hỗ trợ từ trên không để cho hai chiếc Sea Fury thoải mái truy đuổi.
Fidel lệnh cho các phi công tìm diệt các tàu chở vũ khí, đạn dược, thực phẩm và đồ dự trữ, để sau đó cô lập những chiếc tàu ở nơi đổ bộ rồi đè bẹp. Ông không muốn quân lưu vong lên được vùng đất cao ở các đầm lầy Zapata, cách xa nơi đổ bộ rồi kiểm soát ba xa lộ nối Vịnh Con Heo với đất liền ở phía đông và bắc, vì ơœ vị trí đó chúng sẽ được tiếp tế từ ngoài biển và không thể nào đánh bật ra được nữa. Fidel đã đoán đúng kế hoạch của địch và theo đó mà hành động.
Lúc 4:30 sáng, Fidel gọi căn cứ không quân và yêu cầu phi công lái chiếc Sea Fury là Enrique Carreras đi đánh đắm mấy con tàu. Carreras điều khiển chiếc Sea Fury có tên lửa và đại bác 20 mm, theo sau là chiếc Sea Fury kia và một chiếc B- 26. Tới Vịnh Con Heo, Carreras thấy tàu địch đang đi vào vịnh và chiếc tàu lớn chở hàng đang đến Playa Larga. Lượt đầu, ông bắn hụt, nhưng lượt thứ hai thì tên lửa trúng tàu chở hàng và vài giây sau chiếc Sea Fury thứ hai cũng bắn trúng. Tới 6:30 sáng, chiếc tàu này mắc cạn cách điểm đến năm dặm về hướng nam và quân địch không thể lên bờ để chiến đấu được. Một chiếc tàu chỉ huy khác của CIA cũng bị súng máy trên chiếc Sea Fury bắn hỏng nên bỏ chạy ra biển. Sau đó, Carreras quay về tiếp thêm vũ khí và nhiên liệu rồi trở lại bắn trúng và làm đắm chiếc tàu chở hàng khác. Trước tình hình đó, các tàu xâm lăng khác quay ra khỏi vịnh, bỏ lại 1.350 người kẹt lại trên bãi. Chỉ sau tám giờ, trận chiến trên Vịnh Con Heo chỉ nhờ vào hai chiếc Sea Fury mà thắng. Chiếc Sea Fury do Carreras lái bị chiếc B-26 địch bắn trúng một động cơ, nhưng rồi cũng quay lại được San Antonio để sửa chữa. Hai chiếc T-33 thì đối phó và bắn hạ được bốn chiếc B-26 của địch ngay hôm đó. Fidel bị mất hai chiếc Sea Fury (trừ chiếc của Carreras lái) và hai chiếc B-26 song vũ khí bí mật của ông đã hoàn thành nhiệm vụ.
Về phần Fernández thì lúc 8 giờ sáng, đoàn quân của ông này đã tới nhà máy đường Úc ngoài đầm lầy Zapata và Fidel ra lệnh cho Fernández nắm giữ làng Palpite, một trong hai điểm đổ bộ của quân địch cách phía bắc Playa Larga ba dặm. Fernández đến vừa kịp lúc bắt được các đơn vị quân nhảy dù. Nhóm lính dù khác thì lạc vào vùng của quân đoàn Cienfuegos.
Chiến sự còn diễn ra thêm hai ngày nữa giữa lính trên tàu và đoàn quân hậu tập. Tới ngày 19 tháng tư thì thắng lợi hoàn toàn thuộc về quân đội cuœa Fidel. Kennedy có cho các máy bay phản lực Mỹ giúp bảo vệ những kẻ di tản từ bãi Girón song cũng không làm được gì.
Hôm sau, Fidel ra bãi Girón xem xét và nói chuyện với tù binh. Những tù binh mới đầu sợ bị hành quyết, nhưng họ rất ngạc nhiên vì được đối xử hoàn toàn tử tế và nhân đạo. Phải mất nhiều ngày mới gom hết những tàn dư của đoàn tàu. Cuối cùng 1.189 tù nhân, gồm cả ban chỉ huy cao cấp, được đưa về Havana và giam giữ ở Bệnh Viện Hải Quân gần pháo đài La Cabana. Fidel mất 161 người trong cuộc chiến và đội tàu mất 107 lính.
Thắng lợi ở Vịnh Con Heo đã định hướng cho quan hệ tương lai của Cuba với Mỹ và Liên Xô. Cách mạng Cuba chiến thắng vì chiến lược của Fidel hơn hẳn của CIA, tinh thần cách mạng cao cộng với yếu tố bất ngờ cùng sự chuẩn bị thấu đáo, Che Guevara là người đứng đầu Ban Huấn Luyện Các Lực Lượng Vũ Trang Cách Mạng, lo việc tổ chức và huấn luyện dân quân còn Fernández chỉ huy các trường sĩ quan dân quân đã tập hợp được hơn 200.000 nam nữ chiến sĩ cho cuộc chiến. Ngoài ra, cuộc chiến Vịnh Con Heo mang lại tinh thần đoàn kết mới cho nhân dân Cuba. Qua cuộc chiến này, Fidel còn được dân chúng ủng hộ nhiều hơn chiến thắng hồi năm 1959.
Fidel biết trong thập niên 1960, CIA đã nhiều lần cố tìm cách ám sát ông song ông lại không bao giờ tin việc làm này là do Tổng Thống Kennedy chỉ định. Ngày 23 tháng 11, năm 1963 khi tổng thống Kennedy bị ám sát ở Dallas thì ông đang họp với một chủ bút tạp chí Pháp là Jean Daniel ở Cuba, người này đã đem đến cho ông thông điệp của tổng thống Mỹ. Theo lời Fidel thì Kennedy đã bảo Daniel qua Havana hỏi ý ông xem về chuyện “bàn bạc và đối thoại với Mỹ để tìm cách vượt qua căng thẳng lớn hiện tại.” Trong khi ông và Daniel đang nói chuyện này thì đài phát thông báo tin tổng thống từ trần. Vì lẽ đó, ông có cảm tưởng Kennedy đang nghĩ tới chuyện đặt quan hệ lại với Cuba.
Fidel cũng xem bài nói chuyện của tổng thống Kennedy hồi mùa xuân năm 1963 ở trường Ðại Học Washington, đề nghị thương lượng kiểm soát vũ khí hạt nhân với Liên Xô, là một “diễn văn hòa bình.” Ông cho là Kennedy đã kế thừa chiến dịch Girón của Eisenhower và Kennedy là người đầy lý tưởng, có mục tiêu, trẻ trung và hăng hái song thiếu kinh nghiệm chính trị, dù rất thông minh, khôn ngoan, cẩn thận và có tính cách. Ông cảm thấy rất đau lòng và bị sốc khi hay tin Kennedy mất.
Và Fidel Castro đã luôn nhớ tới John Kennedy không chỉ vì sự việc ở Vịnh Con Heo mà còn vì cuộc khủng hoảng tên lửa vào năm sau đó.