Tái lập mối liên hệ của Cục Tình Báo Trung Ương Mỹ với các kế hoạch ám sát Fidel Castro dù sao cũng là câu chuyện lịch sử không trọn vẹn. Bởi tính chất cực kỳ nhạy cảm của các kế hoạch được đem ra thảo luận và mưu tính, về nguyên tắc không có hồ sơ ghi chép chính thức nào về kế hoạch, về sự chuẩn y hay về việc thực hiện còn được lưu lại nữa. Một ít hồ sơ được viết tay vẫn còn lưu lại hoặc gần như không mấy liên quan tới các biến cố chính hoặc nhớ mà chép lại mấy năm sau đó. William Harvey đã giữ lại các ghi chú tổng thể những hoạt động của ông ta trong những năm ấy và đó là nguồn thông tin có ghi ngày tháng tốt nhất của chúng tôi. Bác sĩ Edward Gunn, thuộc Văn Phòng Dịch vụ Y Tế, có ghi chép lại về những nhân vật ông đã gặp và thời gian gặp cũng như các lời ám chỉ khó hiểu về những đề tài đã bàn. ------ của TSD, có ghi lại hai hoặc ba cuộc hẹn có liên quan. Gunn và ------ chỉ dính líu vào các khía cạnh kỹ thuật trong việc lên kế hoạch. Mặc dù rời rạc, manh mún, song các ghi chép của họ cũng giúp đáng kể trong việc tái lập khung thời gian các sự kiện. Trong một số trường hợp, các hồ sơ chiến dịch cũng rất hữu ích, vì chúng cung cấp ngày tháng các cuộc họp, những điều cốt yếu của chúng có thể được suy ra từ các thông tin gián tiếp.
Tuy vậy, phần lớn chúng tôi phải dựa vào các thông tin được kể lại từ những người mà trí nhớ của họ theo thời gian đã không còn chính xác nữa. Ðặc biệt là họ không nhớ rõ về ngày tháng, và một số lại không nhớ được hết các chi tiết của từng kế hoạch. Chúng tôi đã phỏng vấn tất cả những người mà chúng tôi nhận thấy họ có thể biết về vấn đề này, trừ ông Dulles và Tướng Cabell. Bản danh sách đầy đủ được đính kèm trong tab A. Chúng tôi không mất công sức và thì giờ vào những cuộc tìm kiếm mà biết rằng sẽ chẳng đi đến đâu. Nếu làm vậy chúng tôi hẳn đã mạo hiểm biến nhiều nhân viên trước đây không tham gia trở thành có tham gia và, theo sự đánh giá của chúng tôi, cũng chỉ thêm vào rất ít chi tiết có sẵn từ những người có liên quan trực tiếp. Các lời kể có khác nhau, nhưng hầu hết có thể lọc lựa bằng cách đối chiếu với những thông tin do những người đáng tin đã từng tham gia vào một kế hoạch cụ thể, và rồi sau đó thì kiểm tra lại dựa trên những ngày tháng cụ thể nhờ đó có thể biết được mức độ chính xác tới đâu. Chúng tôi tin rằng việc tái lập những gì đã xảy ra cùng những suy nghĩ liên quan đến điều đó đã được tiến hành hợp lý. Nếu trong bản báo cáo có những sự không chính xác quan trọng, có thể đó là do các chuỗi biến cố đã bị xếp sai trật tự. Chuyện xảy ra vẫn còn được nhiều người nhớ khá nhiều, song họ lại không nhớ chính xác thời điểm xảy ra.
Khi tiến hành điều tra, điều chúng tôi biết rõ rất sớm đó là sự hăng hái trong Cục khi đeo đuổi các kế hoạch sát hại cá nhân Fidel Castro có khác nhau tùy theo mức độ mong muốn lật đổ chế độ Castro của chính phủ Mỹ. Chúng tôi có thể phân định được năm giai đoạn riêng biệt trong các kế hoạch ám sát của Cục Tình Báo, dù sự chuyển tiếp giữa các giai đoạn không phải lúc nào cũng được xác định rõ ràng. Mỗi giai đoạn đều phản ánh thái độ đang thắng thế trong chính phủ Mỹ vào lúc đó đối với chế độ ở Cuba.
A. Trước tháng 8 –1960: Hầu hết những kế hoạch có thể biết được vào trước tháng tám năm 1960, có thể với một ngoại lệ, là chỉ nhằm làm mất uy tín cá nhân của Castro bằng cách tác động đến thái độ cư xử hoặc làm thay đổi bề ngoài của ông.
B. Từ tháng 8 năm 1960 đến tháng 4 năm 1961: Những âm mưu được dự tính vào cuối năm 1960 và đầu năm 1961 được theo đuổi một cách triệt để và ít ra cũng được một số người tham gia xem như một phần trong toàn thể nỗ lực lật đổ chế độ mà đỉnh điểm là biến cố Vịnh Con Heo.
C. Từ tháng 4 năm 1961 đến cuối năm 1961: Kế hoạch chính bắt đầu từ tháng 8 năm 1960 đã bị ngưng lại sau biến cố Vịnh Con Heo và xếp xó trong nhiều tháng, như đa số các hoạt động khác liên quan đến Cuba của Cục Tình Báo.
D. Cuối năm 1961 đến cuối năm 1962: Kế hoạch đặc biệt đó đã được hoạt động trở lại vào đầu năm 1962 và được đẩy mạnh trong thời kỳ phát động kế hoạch Con Cầy và trong bối cảnh chính phủ Mỹ gây áp lực với CIA buộc phải làm điều gì đó đối với Fidel và đất nước Cuba.
E. Cuối năm 1962 cho đến năm 1963: Sau cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba vào tháng 10 năm 1962 và sự sụp đổ của kế hoạch Con Cầy, kế hoạch hiếu chiến này - đã bắt đầu vào tháng 8 năm 1960 và được hồi sinh vào tháng 4 năm 1962 - cuối cùng kết thúc vào đầu năm 1963. Hai âm mưu khác cũng đã khởi sự vào năm 1963, nhưng cả hai đều bất khả thi và dẹp bỏ.
Chúng tôi không quá cường điệu mức độ mà những nhân viên Tình Báo có trách nhiệm tự cảm thấy khi phải chiều theo áp lực gay gắt của chính quyền Kennedy để làm điều gì đó đối với Fidel và chế độ của ông. Nhưng khi nhìn lại sự việc thì những âm mưu thiếu thực tế và không hiệu quả nên được xem xét dưới hoàn cảnh đó.
Nhiều người được chúng tôi phỏng vấn đã nhấn mạnh hai điểm hiển nhiên đến nỗi có ghi ra thì cũng thấy thừa. Dù vậy chúng tôi tin rằng những điểm này có liên quan đến câu chuyện đang trình bày ở đây. Ðó là việc loại bỏ một nhân vật chủ chốt trong một chính phủ, thậm chí khi lòng trung thành của người khác được đặt riêng vào cá nhân người đó hơn là đặt vào cả một chính phủ, cũng nhất thiết không làm chính phủ đó sụp đổ được. Ðiểm này được nhấn mạnh liên quan đến Castro và quốc gia Cuba trong một tài liệu phác thảo lưu hành nội bộ CIA vào tháng 10 năm 1961, được khởi xướng để trả lời cho ước muốn có một kế hoạch dự phòng của Tướng Maxwell Taylor. Ðại ý của tài liệu này là việc kết liễu Fidel Castro, dù với nguyên do nào, cũng khó lòng giải phóng Cuba khỏi chế độ cộng sản và sự kiểm soát của khối Xô Viết. Ðiểm thứ hai, đặc biệt có liên quan tới cuộc điều tra của chúng tôi hơn, là muốn lật đổ một chính phủ nhất thiết phải loại các nhà lãnh đạo của nó ra khỏi các vị trí quyền lực và luôn có rủi ro là những người tham gia phải dùng đến phương cách ám sát. Việc loại khỏi các vị trí quyền lực như trường hợp giam lỏng Mossadeq của Iran hoặc cuộc tháo chạy của Batista của Cuba cũng sẽ không làm cho người ta bỏ qua các việc sát hại Diệm ở Việt nam hoặc Trujillo ở Cộng hòa Dominique bởi chính các lực lượng được Chính phủ Mỹ khuyến khích nhưng không thể kiểm soát được.
Còn một điểm thứ ba mà những người được chúng tôi phỏng vấn không trực tiếp nêu ra, nhưng hiện rõ trong các cuộc phỏng vấn và trong lúc tham khảo hồ sơ. Ðiểm này thường được gọi là phép hoán dụ – đề cập chỉ một phần vấn đề nhưng phải hiểu cái tổng thể hay ngược lại. Bởi vậy, chúng tôi gặp những lời ám chỉ được lặp đi lặp lại như cụm từ “loại trừ Fidel,” có thể hiểu theo nghĩa đen, hẹp là ám sát ông ta, còn muốn nói với nghĩa bóng bẩy, rộng hơn thì là loại trừ chế độ Fidel. Xét ngược lại, chúng tôi thấy rằng khi người ta nói một cách mù mờ “làm một điều gì đó đối với Fidel,” thì rõ ràng là trong đầu họ đang nghĩ đến việc giết chết ông ta. Trong tình huống mà người nói có thể không thực sự muốn nói những điều mà họ có vẻ như muốn nói hoặc có thể đã không nói những gì họ thực sự muốn nói, thì sẽ đừng ngạc nhiên về họ nếu thấy việc ghi tốc ký những lời họ nói lại được diễn giải khác với ý của họ.
Ðiều gợi ra cho chúng tôi rằng các chiến dịch nhắm mục đích ám sát Castro có lẽ được phát sinh trong một bầu không khí căng thẳng trong các ấn bản tình báo viết về khả năng Fidel qua đời và về việc tái lập trật tự cấu trúc chính trị sẽ nối gót theo sau. Xem lại các ấn bản tình báo từ 1960 đến 1966, bao gồm các bản Ðánh Giá Tình Báo Quốc Gia (NIE) [National Intelligence Estimates], Ðánh Giá Tình Báo Quốc Gia Ðặc Biệt [ Special National Intelligence Estimates (SNIE), bản Ghi Nhớ Tình Báo và bản Ghi nhớ gửi Giám Ðốc. Tài liệu NIE về “Hoàn Cảnh cùng Triển Vọng ở Cuba” cho những năm 1960, 1963 và 1964 có vài đoạn vắn tắt về những chính phủ có khả năng kế vị một khi Fidel bị loại khỏi chính trường. Chúng tôi cũng tìm thấy những phần ngắn tương tự nhắc đến trong tài liệu SNIE tháng 3 năm 1960 và trong bản Ghi nhớ Tình Báo Tháng 5 năm 1965. Ở mỗi trường hợp cách xử sự này hoàn toàn phù hợp với cách xử sự mà ta sẽ mong được tìm thấy trong những tài liệu tổng hợp thông tin kiểu như vậy. Chúng tôi kết luận rằng không có lý do nào cho thấy những người thừa hành đã bị ảnh hưởng thái quá bởi nội dung của các ấn bản tình báo.
Bài báo của Drew Pearson ngày 7 tháng 3 năm 1967 đã nhắc đến kế hoạch ám sát Fidel Castro năm 1963 của CIA. Pearson cũng có thông tin, tuy chưa phổ biến, hàm ý là có cuộc họp ở Bộ Ngoại Giao bàn chuyện ám sát Fidel, rằng một toán người đã đổ bộ lên Cuba mang theo những viên thuốc độc dùng trong việc ám sát này. Thực tế thì có cơ sở cho từng báo cáo trong ba báo cáo đó:
a. Nhân viên CIA chuyển vũ khí ám sát cho một điệp viên CIA người Cuba tại một cuộc họp ở Paris vào ngày 22 tháng 11 năm 1963. Ðó là một cây bút bi có gắn một ống tiêm. Nhân viên CIA đề nghị điệp viên Cuba đổ vào ống tiêm này chất độc Lá Ðen 40. Chứng cứ này cho thấy là cuộc họp được xúc tiến ngay lúc Tổng Thống Kennedy bị bắn.
b. Có một cuộc họp của Nhóm Ðặc Biệt (tăng cường) tại phòng hội nghị của Bộ Trưởng Ngoại giao Rusk ngày 10 tháng 8 năm 1962, ở đó Bộ Trưởng McNamara đã nhắc đến chuyện loại bỏ các nhà lãnh đạo Cuba. Cuộc thảo luận dẫn tới việc Edward Landale soạn thảo bản ghi nhớ hành động cho Kế Hoạch Con Cầy. Tại cuộc họp khác của Nhóm Ðặc Biệt vào ngày 31 tháng 7 năm 1964, có cuộc thảo luận về thông tin mới được tung ra gần đây của ở Mật Vụ về âm mưu ám sát Fidel của một người Cuba lưu vong. CIA đã từ chối cấp ngân quỹ theo yêu cầu của người này và không can dự vào âm mưu đó.
c. CIA đã hai lần (lần đầu vào đầu năm 1961 và lần khác vào đầu năm 1962) cung cấp những viên thuốc độc cho các thành viên của nghiệp đoàn kinh doanh cờ bạc của Mỹ hoạt động dưới danh nghĩa của CIA trong một âm mưu ám sát Fidel Castro. Cuộc mưu sát năm 1961 này bị hủy bỏ và thuốc độc bị thu hồi. Cũng những viên thuốc đó được cung cấp vào tháng 4 năm 1962, đại diện của Nghiệp Ðoàn Cờ Bạc đã chuyển cho một nhà lãnh đạo Cuba lưu vong ở Florida và ông này gởi thuốc tới Cuba vào khoảng tháng 5 năm 1962. Vào tháng 6 năm 1962, nhà lãnh đạo lưu vong này báo cáo rằng một toán gồm ba người đã được phái đến Cuba để chiêu mộ thành viên cho điệp vụ này. Nếu có cơ hội, toán đó có lẽ sẽ dùng những viên thuốc này để mưu sát Fidel.
Bản báo cáo này mô tả chi tiết từng thời kỳ một; đặt chúng vào trong trật tự xa gần và sẽ thấy lộ ra rằng trong khi các biến cố do Drew Pearson mô tả đã xảy ra và được chắp nối lại với nhau thành một câu chuyện hoàn chỉnh, thì mối liên hệ nhân quả, trực tiếp giữa chúng là thiếu cơ sở.