1
Bà cụ Vân chống gậy chậm rãi bước trên đường làng, ai đi qua nhìn thấy bà cụ đều dừng lại chào hỏi vài câu. Hôm nay ngày rằm nên cụ ra chùa tụng kinh từ sớm, khi nắng lên quá đỉnh đầu cụ mới về nhà.
Bà cụ Vân vừa đẩy cổng bước vào sân, mấy đứa cháu nội đã reo ầm lên:
- Bà về rồi, bà có mua quà cho bọn cháu không. Đứa bé nhất cỡ 4 tuổi cũng lạch bạch chạy ra mếu máo nói với bà nội:
- Cháu đói quá, cháu đói quá bà ơi.
Bà Vân từ tốn mở túi nylon lấy ra hai chiếc oản và nửa đĩa xôi gấc, đó là lộc nhà chùa bà đem về chia cho các cháu, mấy đứa trẻ đói bụng từ sáng nên vồ lấy tranh nhau ăn, thằng cu bé nhất ngoạm miếng oản rõ to nên bị nghẹn, bà Vân lấy cho cháu cốc nước uống rồi bước vào nhà, dù ngoài sân nắng chói chang nhưng trong ngôi nhà vẫn bốc mùi ẩm mốc, bà Vân mở toang các cửa sổ cho nắng chiếu vào nhà.
Đang nằm ngủ bị nắng rọi vào mặt, Linh rỗ là con trai bà Vân ngồi dậy bực bội nói với mẹ:
- Mới sáng bảnh mắt bà đã mở cửa làm tôi không ngủ được, người ta vừa chợp mắt được chút, chẳng may gió lùa bị cảm thì sao! Nói xong Linh rỗ bước ra chiếc bàn uống nước với tay cầm chiếc ấm tích ngửa cổ tu một hơi, dường như vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn, y bước ra cửa lấy chiếc điếu cày làm một bi thuốc lào, Linh rỗ vừa phả khói vừa lim dim mắt trong khi người thì xiêu vẹo dựa vào chiếc cột chống, lũ trẻ đang ăn thấy vậy thì reo lên vui vẻ:
- Bố lại say thuốc lào rồi chúng mày ơi. Mặc cho lũ trẻ vây quanh, Linh rỗ vẫn nhắm nghiền mắt, sáng ra y chưa ăn gì lại bắn bi thuốc lào nên không gượng được, bà Vân nhìn con đầy ngao ngán, không nói ra miệng nhưng bà biết ông con trai đã ngồi xóc đĩa cả đêm bên nhà lão My chột ở cuối làng, chính vì con trai bà bê tha rượu chè cờ bạc nên đứa con dâu đã âm thầm bỏ đi biệt xứ để lại cho bà phải nuôi ba đứa trẻ lít nhít.
Lúi húi cơm nước xong, bà Vân bê mâm cơm lên nhà đã không thấy ông con trai đâu, cả ba đứa trẻ đều đồng thanh mách bà nội:
- Bố cháu cắp chai rượu đi xuống quán đình rồi.
***
Lão My chột ngồi co chân trên chiếc trường kỷ, lão vừa uống rượu vừa coi phim chưởng bộ do thằng con trai đi thuê về, trước mặt lão có một bát xương đầy có ngọn do lão vừa gặm xong, ngửa cổ nốc hết chỗ rượu trong cốc, lão buông một tiếng cụt lủn:
- Dọn.
Nghe bố nói vậy, con bé Nhài vội bưng mâm bát ra ngoài giếng để rửa, ở trong nhà bố nó và ba thằng anh trai lộc ngộc nằm xem phim với nhau. Con bé Nhài là út nhưng mọi việc đều đến tay nó, mấy thằng anh trai nếu không đi tán gái thì cũng hay mò sang sân chùa ngay kế bên để hái trộm xoài, trộm ổi mang bán, nhiều lúc bà Thanh sợ hãi nói với mấy thằng giời đánh nhà mình:
- Sao lại đi ăn trộm của chùa, phải tội chết. Nghe mẹ nói vậy cả ba thằng con đều cười hềnh hệch, lão My quát vợ một trận:
- Có tội thì lội xuống ao, đói rã họng còn nhiều chuyện. Biết tính vũ phu của chồng nên bà Thanh đành im lặng mặc kệ cho mấy bố con nhà lão tác oai tác quái.
Ngày trước mấy đứa con nhà lão My đều được cắp sách đến trường, nhưng không đứa nào học quá lớp ba.
Có lần đi họp cho con về, lão gọi vợ ra nói:
- Con nhà này học lắm cũng toi cơm, thời buổi này “văn hay chữ tốt không bằng học dốt lắm tiền”, dẹp hết không cần học, cứ ra phố kiếm tiền là có tất. Vậy là cả ba thằng đều bỏ học lêu lổng, duy nhất con bé Nhài chăm chỉ học hành nên đã học tới lớp 7 rồi. Nhiều lúc ngồi uống rượu trên phản lão My chột lè nhè nói với con gái:
- Bố cho mày học nhiều như vậy cũng vì cô giáo mày có cặp mông mẩy căng. Nói xong lão lại cười khùng khục như ma làm.
Ngày nào cơm tối xong, Nhài cùng mẹ lại xuống gian nhà dưới, trong lúc Nhài chong đèn học bài, bà Thanh bận lúi húi khâu vá, gian nhà trên được lão My chột tổ chức thành sới bạc chuyên xóc đĩa ăn tiền. Khi khách đã có mặt đông đủ, lão My chột sai ba thằng con ra ngoài canh chừng, để yên tâm lão còn thả đàn chó dữ ra canh cửa.
Tiếng lành đồn xa, khách từ Hải Phòng về, khách từ Thanh Hóa ghé qua rồi từ Hà Nội đến khiến cho sới bạc của lão My chột luôn đông khách, riêng số tiền hồ thu của khách mỗi đêm cũng thừa đủ cho lão và ba thằng con giời đánh không phải làm gì mà vẫn sống phong lưu nhất làng Văn Xá này.
Các con bạc quen lệ, cứ nghe thấy tiếng chuông chùa, tiếng gõ mõ tụng kinh sớm của sư cụ bên chùa vọng lại là tan đám bạc, lúc này đường làng vẫn vắng vẻ, còn trời chưa sáng rõ mặt người, chỉ có đám chó sủa râm ran khắp từ đầu làng tới cuối làng tiễn chân những con bạc khát nước.
***
Làng Văn Xá thời xưa còn có con một con đường cổ, các cụ cao niên trong làng quen gọi là “đường Quai” vốn là con đường Thiên Lý để vào kinh thành Thăng Long. Chùa Văn Lâm Tự vốn tên chữ Nôm là chùa Lành, ngôi chùa hơn trăm năm tuổi ngày trước thuộc làng Văn Xá, tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Sư cụ Đàm Minh đã trụ trì tại ngôi chùa làng hơn 50 năm kể từ ngày người xuất gia một lòng thành tâm hướng Phật, sáng nào sư cụ cũng thức dậy từ 5 giờ sáng để gõ mõ tụng kinh, hiềm nỗi điều khiến sư cụ phiền lòng nhất chính là đám thanh niên trong làng, dù làng Văn Xá nằm sát cửa ngõ thủ đô nhưng cuộc sống nơi đây vẫn tù túng và mang nhiều hủ tục, hầu như ngày nào trong làng cũng có đám đánh chửi nhau do say rượu, do cờ bạc, nợ nần, ngay như nhà chùa hễ trồng được cây gì ra trái cũng bị đám trộm trong làng lẻn vào vặt sạch sẽ.
Như lệ thường, sáng nay sư cụ vào gian chính điện để thắp hương và tụng kinh, khi người vừa ngước lên hương án đã giật mình hoảng hốt, chiếc lư hương cùng đôi lọ độc bình, tất cả đều là đồ cổ có từ thời Hậu Lê đã không cánh mà bay, chiếc hòm công đức cũng bị phá tan, còn số tiền trong đó cũng biến mất luôn.
Điều đau xót hơn cả là bức tượng đồng đen Phật Thích Ca sơ sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, dưới chân ngài là đài hoa sen có khắc câu kệ:
Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sinh lão bệnh tử
cũng bị tên trộm lấy đi luôn cùng chỗ cổ vật quý giá. Sau phút giây kinh hoàng sửng sốt, sư cụ bèn tọa thiền ngay dưới nền gian chính điện.
***
Chiều muộn nhưng Linh rỗ vẫn lang thang trên các con phố ngoài Hà Nội, ngắm cảnh chán chê, y bèn vẫy một chiếc xích lô chở lên phố Lê Văn Hưu để gặm chân chó, đây là món khoái khẩu mà đám cờ bạc từ Hà Nội về sới bạc nhà lão My chột hay kháo nhau. Vừa nốc rượu vừa gặm chân chó trong buổi chiều nhập nhoạng nơi phồn hoa đô hội khiến cho Linh cảm thấy rạo rực, sẵn có xấp tiền trong túi, khi đã ăn uống no say, y lại vẫy một chiếc xích lô chở ra vườn hoa Pasteur để kiếm gái, mặc mấy cho bà cháu vẫn đang ở nhà ngóng chờ.
Sáng hôm sau Linh rỗ bắt xe về làng, vừa bước vào trong sân, y nhìn thấy mấy đứa con tha thẩn chơi với nhau bên gốc rơm bèn hỏi:
- Bà đâu rồi mà để mấy đứa nghịch bẩn thế này. Nghe bố hỏi thằng cu Khoai lớn tuổi nhất bèn thông báo:
- Bà ra chùa có việc rồi bố, đến trưa bà mới về. Nghe cu Khoai nói vậy, Linh rỗ lẩm bẩm:
- Mùng một không phải, ngày rằm cũng chưa đến, ra đó làm gì lắm thế, đúng là già rồi rách việc. Thấy bố nói vậy cu Khoai nhanh nhảu kể:
- Không phải bà đi lễ đâu, cả làng đang ầm lên vì sư cụ đã mất khi đang ngồi thiền ngay gian chính điện, con nghe các bà kháo nhau nhà chùa đêm qua còn mất trộm nữa. Nghe cu Khoai nói vậy, Linh rỗ bất giác chột dạ, y bước hẳn vào nhà lấy từ trong túi quần ra xấp tiền, nhìn ra cửa thấy ba đứa con vẫn đang mải chơi, Linh bèn mở hòm quần áo rồi nhét xấp tiền xuống tận đáy, tần ngần giây lát, y tặc lưỡi rút ra một thếp mỏng để tối nay lại sang nhà lão My chột gỡ gạc số tiền đã thua bạc.
Kể từ lúc bán chỗ đồ cổ cho một tay chuyên buôn cổ vật ở làng Yên Phụ, Linh luôn tự an ủi bản thân, nếu sau này trời Phật phù hộ cho hắn “ăn nên làm ra” hắn sẽ chuộc lại số đồ đã bán hoặc công đức vào chùa một số tiền để chuộc lỗi.
Linh nằm xuống phản để chợp mắt sau một đêm chơi bời trác táng, nhưng hắn không sao ngủ được, tiếng chuông chùa từ xa vọng khiến hắn cảm thấy bồn chồn lo sợ, mồ hôi túa ra ướt đẫm chiếc áo đang mặc.
2
Trời về chiều, hoàng hôn như nhuộm màu đỏ sẫm, từng đàn cò sau một ngày tất tả kiếm ăn đã bay về những bụi tre ở cuối làng, chỉ chút nữa thôi khi màn đêm buông xuống, những con vạc lại bắt đầu rời tổ đi ăn đêm. Bên chùa Văn Lâm vẫn vẳng sang tiếng gõ mõ tụng kinh của các bà vãi già trong làng thay nhau dâng hương và cúng tuần cho sư cụ vừa viên tịch hồi tuần trước.
Do mất điện từ chiều nên bốn cha con nhà lão My chột cởi trần trùng trục ngồi ăn nhậu ngay sân gạch trước hiên nhà, ở giữa chiếc chiếu có một chiếc chậu nhôm vốn hay dùng để rửa mặt, bên trong chậu cơ man nào là các đầu xương ống cùng nhiều loại xương khác. Cứ cuối ngày lão My chột lại sai con bé Nhài vác cái chậu nhôm ra hàng phở đầu làng, họ sẽ trút hết chỗ xương để ninh nước phở ra chậu nhôm cho con bé Nhài mang về, vì đồ này ninh nhừ hết nên họ bán rẻ như cho không, nếu nhà lão My chột không mua, họ cũng đem cho mấy nhà có nuôi chó Béc giê gặm, dân nhậu quen gọi đống xương này là “xương bốc mả”.
Lão My chột vừa gặm đống xương vừa lè nhè chửi mấy thằng con trai:
- Chúng mày đúng là lũ ăn hại, tao đã dặn bao lần rồi không nghe, cuối cùng để cho lũ trộm từ nơi khác vào chùa khuân hết đồ cổ, bây giờ đã trắng mắt ra chưa, trộm thế mới bõ công, chứ vặt vài quả xoài, chặt mấy buồng chuối vẫn mang tiếng là trộm, đúng là miếng ăn dâng tận miệng mà còn bị cướp mất, nhục lắm. Chửi lũ con xong, lão My chột ngửa cổ nốc cạn chén rượu rồi dằn mạnh chiếc chén xuống mâm. Thằng Nhất là con cả của lão thấy vậy vội bê bình rượu ngâm thuốc bắc rót thêm vào chén của lão rồi thầm thì:
- Con nghĩ thằng trộm này cũng chưa tinh đâu bố, chùa làng mình có mấy ai công đức đâu mà có tiền trong hòm, cái bức tượng phật cũng chỉ là đồng hun thôi. Đang nói dở nó thấy bà Thanh bưng ra nồi miến bốc khói nghi ngút, mấy bố con im lặng coi như không có chuyện gì. Bà Thanh đặt nồi miến vào trong chiếu rồi lui xuống gian nhà dưới, nhìn điệu bộ lấm lét của mấy cha con, bà đoán chắc lại sắp có chuyện gì mờ ám.
Thằng Nhất vặn cho ngọn đèn tọa đăng sáng hơn rồi nói tiếp:
- Con đã tìm hiểu kĩ rồi, cổ vật giá trị nhất trong chùa có chiếc chuông cổ và đôi hạc bằng đồng, thằng trộm lần trước chắc có một mình nên không bê được. Vừa nghe nói vẫn còn cổ vật bên chùa, ngay lập tức bốn cha con nhà lão My chột chụm đầu vào nhau để bàn mưu tính kế. Bay vụt trên đầu cha con nhà lão My chột là mấy con quạ, tiếng kêu của đàn quạ nghe như tiếng éc éc của lợn và kéo dài trong màn đêm.
***
Dưới gian bếp lợp mái tranh xiêu vẹo, mấy đứa trẻ đang ngồi xì xụp ăn cháo trai do bà nội nấu, chợt nghe tiếng động ngoài cổng, cả ba đứa Ngô, Khoai, Sắn ngó ra và reo ầm lên sung sướng khi thấy bố chở chiếc ti vi vào nhà. Thông qua người quen, Linh rỗ đã mò lên tận chợ giời mua chiếc ti vi hàng nội địa Nhật được các thủy thủ tàu viễn dương đem về. Do chiếc ti vi là hàng cũ một hệ NTSC, nên khi mua xong, Linh rỗ lại phải mang ra phố Huế thuê thợ chuyển sang hệ Pal để xem các chương trình TV.
Trong lúc bố đang dò kênh, thằng cu Khoai chạy ra sân xoay cây sào tre có gắn chiếc ăng ten để bắt tín hiệu, từ tối nay mấy anh em nó sẽ không phải chạy sang nhà hàng xóm xem nhờ như mọi ngày. Nhìn chiếc ti vi và sự vui sướng của đàn cháu, bà Vân đoán ông con trai đêm qua vừa thắng bạc nên nổi hứng mua ti vi, còn việc có đem bán để gỡ bạc như mọi lần hay không còn chưa biết được.
Vừa cơm tối xong, trong lúc mấy bà cháu đang ngồi coi chương trình thời sự, Linh rỗ vào buồng mở hòm quần áo rồi rút ra một tệp tiền, nhìn xấp tiền giờ vơi đi khá nhiều, thoáng chút tần ngần như suy nghĩ, Linh rỗ khẽ tặc lưỡi khóa hòm lại rồi lầm lũi bước ra khỏi nhà.
Bà Vân thở dài nhìn theo bóng người con trai đang mất hút ngoài ngõ, con trai bà đổ đốn từ khi vợ bỏ đi, chắc đêm nay nó cũng đi suốt đêm như mọi lần. Tiếng chó sủa râm ran khắp đường làng khiến lòng bà thấy không yên, bà Vân thắp ngọn đèn dầu trên bàn thờ phật rồi ngồi thiền cho tâm được tĩnh tại.
***
Bà Thanh đi chợ về cũng là lúc lão My chột đang ngồi ăn sáng trong nhà, bà ngồi xuống hiên nhà vừa quạt cho mát và thông báo cho chồng những tin tức thu lượm được ngoài chợ:
- Làng mình vô phúc, đêm qua bên chùa lại bị bọn trộm vào khuân nốt chuông đồng và đôi hạc rồi, lũ ôn vật này rồi sẽ bị quả báo cho mà xem. Đang ngồi co chân trên chiếc trường kỉ ăn bánh cuốn, nghe vợ nói vậy, lão My chột gắt lên:
- Của chùa mất chứ có phải của nhà bà mất không mà ầm ĩ vậy, đúng là đồ đàn bà rỗi hơi.
Nghe chồng nói vậy, bà Thanh chùng giọng xuống:
- Thì đây là việc nhà mình, tôi nói để ông còn liệu mà tính toán. Tôi nghe người làng kháo nhau, thằng Nhất nhà mình có cảm tình với con bé Mộc Miên nhà bác Ngoãn. Đang ăn ngon lành bỗng nghe vợ nhắc đến ông Ngoãn. Lão My chột nhảy dựng lên như bị điện giật, lão gào lên:
- Giời ạ, bao năm nay bà vẫn luôn tơ tưởng đến thằng đó sao, đúng là oan gia ngõ hẹp, gái làng này chết hết hay sao mà tôi phải đi thông gia với nhà đó. Lão My chột réo gọi con trai:
- Thằng Nhất đâu rồi, mau ra đây tao bảo…
Nghe chồng nói vậy, bà Thanh thở dài xách túi đồ thức ăn đi xuống gian bếp.
***
Ngày xưa cả làng Văn Xá hầu như ai cũng biết chuyện tình cảm của anh Ngoãn và chị Thanh, thậm chí hai gia đình đã đi lại thăm hỏi nhau để kết tình thông gia, tuy nhiên khi chiến tranh chống Mỹ bước vào giai đoạn quyết định, anh Ngoãn cùng bao thanh niên trong làng đã nhập ngũ để vượt dải Trường Sơn trong cuộc kháng chiến thống nhất đất nước. Những năm đó trong làng ngoài ngõ chỉ còn phụ nữ và các cụ già, thỉnh thoảng trong làng lại tổ chức lễ truy điệu cho những liệt sĩ hy sinh tại mặt trận phía Nam, nhiều gia đình có con ra trận đều mong chờ tin của con em mình ở chiến trường B.
Xã đội trưởng của làng Văn Xá hồi đó là anh chàng My chột, do ngày bé anh ta tự quấn pháo không may bị nổ nên hỏng mất một bên mắt, chính nhờ con mắt bị hỏng nên My chột không phải đi lính, dù biết cô Thanh có người yêu đang chiến đấu trong Nam nhưng My chột vẫn quyết tâm tấn công, cứ đến tối là My chột lấy cớ đi tuần lại cầm đèn pin ghé vào nhà bố mẹ cô Thanh ngồi chuyện phiếm.
Mặc cho anh chàng My chột bám riết, cô Thanh vẫn một lòng chờ tin người yêu, nhiều lúc cô nói thẳng vào mặt My chột:
- Gái làng mình đâu thiếu, anh đừng theo đuổi tôi làm gì. Đáp lại lời cự tuyệt của Thanh, lão My chột vẫn lỳ lợm quyết không lui bước. Mùa xuân năm 1975, khi đất nước được thu về một mối, những người lính cũng trở về làng quê trong sự chào đón của bà con họ mạc, riêng anh Ngoãn vẫn bặt vô âm tín, cô Thanh đã bao đêm khóc ướt đẫm gối trong sự mong chờ vô vọng. Cuối năm đó, trước sức ép của gia đình, đám cưới cô Thanh và anh chàng My chột được tổ chức.
Oái ăm thay, khi cưới nhau được vài tháng, anh chàng Ngoãn lù lù vác ba lô về làng, lúc này cô Thanh đang mang thai đứa con đầu lòng với lão My chột. Vừa nghe tin Ngoãn trở về, cô như chết đi sống lại vậy.
Hóa ra đơn vị Ngoãn đã tiến vào được Sài gòn, sau ngày 30.4 Ngoãn được điều vào đơn vị quân cảnh đến tận giữa năm 1976 anh mới chính thức phục viên về làng. Lão My chột nghe tin anh Ngoãn trở về thì nghiến răng ghen tức, lão cấm vợ được qua lại thăm hỏi “người xưa”.
Không biết nghe ai bày cách, để trói chặt vợ bên cạnh mình, trong ba năm liền, lần lượt ba đứa con trai được ra đời. Vốn là người ít học và cũng cho đỡ nhầm tên, lão My chột đặt tên cho mấy thằng con theo thứ tự: Nhất, Nhị, Tam. Chỉ đến khi vợ mang thai đứa thứ tư và sinh hạ ra một bé gái, hôm đi ra ủy ban xã làm giấy khai sinh cho con, lão My nhìn thấy mấy bông hoa nhài trong vườn nhà hé nở, vậy là lão đặt luôn tên con gái là Nhài, sau này mỗi lần trà dư tửu hậu với đám bạn nhậu, lão luôn dương dương tự đắc cho rằng mình cũng là người hay chữ khi đặt tên con như vậy. Có lẽ quá hiểu tính lão My chột nên không ai thèm phản bác.
Cô Thanh xinh đẹp ngày nào giờ đã thành thiếu phụ bốn con, cô sống lầm lũi như một cái bóng bên người mà mình không hề yêu thương, tuy nhiên tình cảm với anh Ngoãn ngày nào cũng nhạt phai theo năm tháng cùng bao sự lo toan của cuộc sống hàng ngày. Điều bà Thanh lo nhất chính là sự hư hỏng của ba thằng con trai, chính sự tiếp tay của chồng bà khiến chúng càng ngày càng bất trị.
***
Đúng ngày Xá tội vong nhân, các bà các cụ trong làng Văn Xá hoan hỉ nghênh đón sư Đàm Thy được giáo hội Phật giáo của tỉnh cử về trụ trì chùa làng. Khác với sư cụ, sư Đàm Thy là người rất hoạt ngôn, khi về chùa Văn Lâm sư có mang theo một đứa cháu họ xa về cùng, dân làng quen gọi là tiểu Kính Phương. Việc đầu tiên khi về chùa, sư Đàm Thy cho thả xơ rau muống xuống ao để tiểu Kính Phương có nhiệm vụ hái ra đem ra chợ bán hàng ngày, mọi loại hoa trái trong chùa nếu ngày trước sư cụ hay cho trẻ con trong làng, sư Đàm Thy cũng gọi người vào bán hết.
Để yên tâm phòng trộm, sư còn ra chợ Văn Điển mua cả một đàn chó con về nuôi để khi lớn chúng sẽ canh chùa, kể từ hôm đó, cứ đêm đến là đàn chó trong chùa được thả rông và sủa vang một góc làng phá tan bầu không khí thanh tịnh vốn có khi xưa của ngôi chùa làng.
***
Đêm khuya thanh vắng, ánh trăng soi tỏ cảnh vật trong làng, mọi người sau một ngày dài lao động đã chìm vào giấc ngủ mê mệt để quên đi gánh nặng mưu sinh, nửa đêm bên chùa vẫn có người múc nước giếng đem vào nhà tắm lộ thiên ở góc sân chùa, tiếng dội nước nghe lúc khoan lúc nhặt, dưới sáng sáng vằng vặc của trăng mười sáu, mọi đường nét lõa lồ của người phụ nữ nhìn rõ như ban ngày.
Lão My chột nhẹ nhàng như một con mèo đực đi hoang leo lên cây gạo sát tường ngăn cách với nhà chùa, dù chỉ còn một mắt nhưng bù lại thị lực của mắt đó còn tinh hơn rất nhiều người, từ trên cây gạo, lão chăm chú quan sát người phụ nữ đang tắm và luôn miệng nuốt nước bọt.
Khi người phụ nữ bên chùa tắm xong, lão My vẫn ngồi im trên chạc ba của cây một lúc lâu, sau khi chép miệng tiếc rẻ lúc trèo xuống khỏi cây gạo, miệng lão khẽ lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp, cái loại đàn bà đêm không ngủ được phải tắm dưới trăng là có vấn đề. Sau bao năm lăn lộn khắp nơi, lão tự cho mình quá hiểu về “những người đàn bà tắm dưới trăng”.
Khi chân vừa chạm đất, lão My chột vạch quần đứng đái ngay dưới gốc cây để giải tỏa sự dồn nén, vừa đái trong đầu lão My chột lóe lên một ý tưởng điên rồ.
3
Vào vụ gặt trên mọi con đường ở làng Văn Xá phủ đầy rơm rạ, mới hơn 6 giờ sáng, thằng Nhất con trai cả của lão My chột đã vè vè chiếc xe cub 81 ”kim vàng giọt lệ” từ đầu làng đến cuối làng, khi Nhất chạy xe vào một con ngõ nhỏ phía thôn Thượng, cu cậu tắt máy rồi ngó vào bên trong nhà ông Ngoãn, Nhất thừa biết giờ này ông Ngoãn chưa về, còn bà Liên đã ra đồng từ sớm, ở nhà chỉ còn mình cô bé Mộc Miên.
Đang lúi húi nấu cám lợn trong bếp, Mộc Miên thấy hai con chó nhà mình chạy ra đứng gần cổng thi nhau sủa ầm ĩ , ngó ra phía ngoài cô thấy cậu Nhất đứng lởn vởn bên hàng rào, nhìn điệu bộ lấc cấc của anh ta khiến cô mất cảm tình. Mộc Miên không nói gì mà quay vào bưng nồi cám vừa nấu đổ ra máng, sau đó trộn thêm xơ rau đã thái nhỏ rồi khuấy đều lên cho cám mau nguội, mấy con lợn ngửi thấy mùi cám đều nhất loạt chạy ra sát cửa chuồng réo ầm lên. Chuẩn bị xong lợn gà cám bã, Mộc Miên thay quần áo rồi đạp xe đến trường cho kịp giờ lên lớp, vừa ra đến đầu ngõ, tiếng xe máy của anh chàng Nhất đã áp sát ngay bên cạnh, Nhất nói với Mộc Miên:
- Em cất xe đạp để anh chở tới trường cho nhanh. Mộc Miên vừa đạp xe vừa trả lời Nhất:
- Thôi em cảm ơn anh, bao năm nay em đạp xe đi học quen rồi. Vừa nói cô vừa đạp nhanh hơn nhằm thoát khỏi anh chàng này.
Không muốn bỏ cuộc, Nhất vẫn rồ ga bám theo người trong mộng của mình, khi đến gần cổng làng, Mộc Miên nhập hội cùng hai cô bạn học cùng trường, cả ba vừa đạp xe vừa trò chuyện rôm rả mặc cho anh chàng Nhất bám theo phía sau, chạy bám đuôi được hơn 500 mét thấy không có kết quả, Nhất bèn quay xe về quán đình để tụ tập với hội trai làng. Từ ngày được bố sắm cho xe máy, trong mắt đám trai làng Văn Xá, Nhất được coi như kẻ cầm đầu mọi cuộc chơi bời tụ bạ, có lẽ chỉ mấy cha con lão My chột mới biết rõ tiền mua xe đến từ đâu.
***
Lão Ngoãn thong thả đạp chiếc xe lọc cọc không phanh, không gác đờ bu về nhà sau khi đã thịt bốn con lợn cho nhà mụ Tám béo. Dắt chiếc xe đạp vào sân, lão Ngoãn vào nhà mở lồng bàn đã thấy con gái để phần một đĩa cơm rang trộn dưa cùng một đĩa trứng tráng có hành, lão bèn mở ngăn tủ ly lấy chai rượu nếp cẩm, sau khi rót một chén nhỏ, lão bắt đầu khề khà uống rượu và đưa cay bằng những miếng trứng tráng vàng rộm, uống xong chén rượu cho giãn gân cốt lão mới thong thả ăn đĩa cơm rang, vừa ăn lão vừa xúc mấy thìa cơm hắt xuống nền nhà cho hai con chó tranh nhau.
Nắng mùa thu rọi xuống khiến cho sân nhà lão rực lên một vàng óng, màu của rơm rạ, màu của thóc được phơi sau thu hoạch, ngồi trong nhà lão Ngoãn lơ đãng nhìn những bằng khen được lồng khung treo khắp nhà, đó là kỉ niệm thời kì lão còn tại ngũ trong quân đội, cái thời mà bọn thanh niên như lão khi nhận lệnh hành quân vào chi viện cho chiến trường miền Nam đều xác định “chết xanh cỏ, sống đỏ ngực”.
Hồi mới phục viên về làng, lão Ngoãn được chính quyền tạo điều kiện phân công nhiệm vụ theo nguyện vọng, dù sao thế hệ của lão đã hoàn thành nhiệm vụ thời chiến. Không suy nghĩ nhiều lão Ngoãn đã xin vào HTX nông nghiệp với mong ước chung sức với bà con xây dựng quê hương giàu đẹp. Tuy nhiên mới làm được vài tháng, vì không chịu được những sự ngang trái, lão Ngoãn đã liên tục viết đơn tố cáo gửi lên UBND xã, không chịu được sự thẳng tính của lão, cuối cùng HTX đã kiếm cớ rồi cho lão nghỉ.
Ngồi nhà mấy tháng cũng chán, lão đã xin làm chân thịt lợn cho mụ Tám béo, lão tưởng chỉ làm đồ tể vài năm rồi buông dao làm ruộng, nhưng không ngờ lão đã hành nghề gần hai mươi năm.
Nghề thịt lợn cũng có bí quyết riêng của nó, mỗi khi đến nhà nào bắt lợn, chỉ cần liếc nhìn cái bụng lặc lè của con lợn, lão Ngoãn biết ngay nhà chủ đã cho lợn ăn liên tục nhằm tăng thêm đến chục cân khi bán. Bước vào chuồng lợn, lão Ngoãn không vội lao vào trói ngay, lão giả vờ tóm hụt để lợn chạy khắp chuồng, khi túm chân lợn để trói, lão tì mạnh đầu gối vào bụng con lợn, vậy là toàn bộ số phân lợn đều được thải ra chuồng, chú lợn tụt hẳn vài cân trước sự bất lực của chủ nhà.
Khi vợ lão sinh con bé Mộc Miên, lúc đứng làm thịt cho chủ mang ra chợ bán, dù nắng hay mưa, dù mùa hè hay mùa đông, lão Ngoãn bao giờ cũng đi một đôi ủng khá to, mới nhìn qua ai cũng tưởng lão muốn tránh bị nước ăn chân do phải bì bõm trong chỗ làm lợn ngập nước, nhưng kì thật việc đi ủng còn nhằm mục đích khác, chỉ cần con mụ Tám béo ngó sang chỗ khác chưa đầy một phút, lão Ngoãn nhanh tay xẻo ngay miếng thịt mông sấn nhét ngay vào trong ủng, lúc khác sẽ là một vài lạng thịt nạc thăn.
Về đến nhà, việc đầu tiên lão Ngoãn sẽ tháo đôi ủng đưa cho vợ, không cần nói nhiều, bà Liên vợ lão sẽ đem đôi ủng ra cầu ao rồi dốc ngược từ trong ủng sẽ có vài miếng thịt rơi ra, miếng thịt nạc sẽ được làm ruốc cho con bé ăn dần, miếng thịt vừa mỡ vừa nạc sẽ được kho tàu với nước dừa.
Làm nghề này hầu như ngày nào nhà lão cũng có thịt ăn mà không phải mất tiền mua, cứ nghỉ trưa xong lão Ngoãn lại đạp xe đến nhà mụ Tám béo lấy tiền công giết thịt mấy con lợn hồi sáng, nhiều lúc hứng chí lão hay nói với vợ con, làm nghề sát sinh tuy vất vả nhưng “sáng cấy chiều gặt” nên luôn có tiền tươi thóc thật chứ không phập phù như làm nông nghiệp.
Cuộc sống của lão Ngoãn không đến nỗi vất vả, hiềm một nỗi dù rất muốn nhưng lão chỉ có độc một đứa con gái. Mộc Miên con gái lão đang học cấp ba tại trường huyện và định thi vào Cao đẳng Sư phạm huyện cho gần nhà, nhìn con gái đã lớn khôn, tự dưng lão lại thèm có một mụn con trai để lo việc hương hỏa sau này. Dù lão hết tỉ tê ngọt nhạt đến bóng gió xa xôi nhưng bà Liên vợ lão nhất quyết không đẻ nữa. Thuyết phục vợ không được nên dạo này cứ hết giờ làm công việc sát sinh, thay vì vùi đầu vào ngủ bù cho việc phải thức giấc từ 4 giờ sáng, lão Ngoãn đạp xe từ đầu làng tới cuối làng rồi rẽ vào hàng nước của cô Thoa, người đàn bà quá lứa nhỡ thì nhưng vẫn còn chút xuân sắc…
***
Sư thầy Đàm Thy ngồi buộc từng bó rau rút và rau muống rồi dặn tiểu Kính Phương:
- Con phải nhớ khi bán hàng là tiền trao cháo múc, dù có quen mặt cũng quyết không bán chịu như mấy lần trước, bán nhanh còn về phụ các vãi đóng oản cho giỗ tổ ngày mai. Nghe sư phụ dặn dò, tiểu Kính Phương vâng dạ rồi gánh rau ra chợ bán, để có được gánh rau tươi mang bán, tiểu Kính Phương phải dậy từ 5 giờ sáng lội ao hái cho kịp buổi chợ sáng.
Sư thầy Đàm Thy đóng cổng chùa rồi xuống gian nhà ngang mở sổ sách xem lại các khoản thu trong tháng. Từ ngày sư thầy về trụ trì chùa Văn Lâm mọi việc được đi vào quy củ hơn trước. Để tránh thất thu nguồn hoa lợi, sư Đàm Thy đã thuê thợ mang các mảnh thủy tinh vỡ cắm lên tường bao quanh chùa phòng lũ trẻ con vào hái trộm hoa quả, sư thầy cũng mua và thả rông đàn chó trong chùa nên người ngoài khó mà lọt được vào.
Dân làng Văn Xá đều biết rõ, nhà sư thầy có truyền thống đi tu, nhà sư có 6 anh chị em nhưng có tới 4 người chọn quy y cửa Phật, bản thân sư Đàm Thy không xuất gia từ bé như anh chị em của mình, sư lấy chồng nhưng không có con lại gặp người chồng rượu chè cờ bạc, sống với nhau được vài năm không hạnh phúc, cuối cùng hai người chia tay nhau. Chính trong lúc khủng hoảng nhất của cuộc đời mình, sư Đàm Thy đã quyết định xuống tóc đi tu.
Nhờ có sự quen biết và tác động từ mấy vị sư là anh ruột của mình nên học xong trung cấp Phật giáo, sư Đàm Thy được phân về ngôi chùa Văn Lâm cổ kính.
Đang chăm chú nhìn vào cuốn sổ thu chi, sư thầy Đàm Thy bỗng giật mình khi nghe thấy tiếng chào:
- Bạch thầy, hôm nay tôi sang quấy quả nhà chùa có chút việc.
Ngẩng đầu lên sư Đàm Thy nhìn thấy lão My chột từ đâu lù lù hiện ra trước mặt, rõ là sư có đóng cổng chùa và thả rông đàn chó, vậy mà không con nào sủa lấy một tiếng, thậm chí đàn chó nhìn thấy lão My chột còn ve vẩy đuôi mừng rỡ, tuy bực mình nhưng sư Đàm Thy vẫn tươi cười mời lão My chột ngồi xơi nước, dù sao nhà lão cũng gần nhà xa ngõ với ngôi chùa làng, chắc sư Đàm Thy phải ngạc nhiên vô cùng nếu biết được, dù sống sát vách nhưng suốt mấy chục năm qua, chưa một lần lão My chột bước chân sang đất của nhà chùa.
Không gian trong chùa tĩnh lặng, thoảng trong mùi trầm hương xen lẫn mùi rơm rạ phơi khắp đường làng, tại gian nhà ngang có hai người đang rủ rỉ nói chuyện, không biết họ nói những gì mà lâu lâu cả hai lại cất tiếng cười vui vẻ. Đã lâu lắm rồi sư Đàm Thy mới được nói chuyện với một người tâm đầu ý hợp. Về phần lão My chột, có lẽ đây là cuộc nói chuyện duy nhất kể từ thủa cha sinh mẹ đẻ mà lão cố nhịn không hề văng tục câu nào, để kìm nén không văng bậy theo thói quen cũng là một sự cố gắng lớn của lão rồi.
Lão My chột phải nhịn không văng tục có mấy chục phút thôi mà đã cảm thấy như người bị táo bón lâu ngày vậy.
Cuộc đàm đạo vô tiền khoáng hậu chỉ dừng lại, khi tiểu Kính Phương đã bán hết chỗ rau nhanh hơn dự kiến và quay về chùa. Chủ và khách chia tay nhau trong lưu luyến, lão My chột vừa ra khỏi cổng chùa đã buột miệng chửi thề:
- Mẹ kiếp, trời nóng thế này lại sắp đến rằm tháng tám, đêm nay trăng sáng phải biết. Văng ra được một câu cửa miệng quen thuộc, lão My chột cảm thấy trong lòng vô cùng khoan khoái, đang bước đi trên con đường làng, lão My chột bất giác dừng lại hếch cái mũi lên trời hít hà như đánh hơi, trong muôn vàn các loại mùi đặc trưng của vùng quê đang vào vụ gặt, lão vẫn nhận ra mùi chả chó thơm nồng từ hàng thịt chó của con mẹ Dậu quắt ở sát đình làng.
Không thèm đảo về nhà dù có hẹn với khách, lão My chột nuốt nước bọt khan rồi thẳng hướng quán thịt chó bước tới. Lão muốn đánh chén tưng bừng để có sức mà thức trọn đêm nay, lúc đi ngang qua nhà văn hóa xã, lão thấy ai đó viết lên tấm bảng thông tin mấy câu thơ:
“Dưới ánh trăng đêm ngó nên thơ
Bến im bờ vắng thấy lững lờ
Chỉ còn tiếng dế tiếng giun ấy
Mặt sông trăng vẽ đẹp như mơ”.
Dù không hiểu hết ý của toàn bài thơ, nhưng đọc thấy câu “dưới ánh trăng đêm..” tự dưng lão My chột cười khùng khục như ma làm vậy.
4
Giữa trưa nắng chang chang, Linh rỗ vẫn đạp xe từ thôn Thượng xuống thôn Hạ rồi vòng ra sân đình, không phải y rỗi hơi mà vì công việc mưu sinh. Từ ngày nướng hết chỗ tiền bán cổ vật vào sới bạc nhà lão My chột, dạo này Linh rỗ nhận làm chân bảo nông cho HTX. Ngoài ra y còn trông coi tất cả các rặng nhãn đang mùa thu hoạch, những rặng nhãn đó được mụ Tám béo đứng ra nhận thầu với xã, tối đến dù thèm cái không khí ăn thua ở sới bạc, nhưng Linh rỗ phải trông hồ cá theo thỏa thuận.
Ngày trước HTX quản lí toàn bộ nhưng năm nào cũng lỗ, từ ngày cho các hộ gia đình nhận bao thầu, mọi việc đổi khác, mấy năm nay nhà mụ Tám béo đều trúng thầu và thắng lớn khiến không ít người trong làng ghen tức, thói đời là vậy. Sở dĩ mụ Tám béo phải thuê Linh rỗ vì năm ngoái, khi hồ cá nhà mụ đến ngày chuẩn bị có thương lái từ Hà Nội về thu mua, bỗng sáng ra cá chết nổi trắng cả mặt hồ, con nào chưa chết thì cũng đang trong tình trạng ngắc ngoải, vậy là hơn 6 tấn cá mất trắng trong tích tắc, không những vậy mụ Tám béo còn phải thuê người vớt cá đem chôn ngay, nếu không mùi cá chết sẽ làm ô nhiễm cả làng Văn Xá.
Mụ Tám béo hôm đó như chết lặng, không cần mất công tìm hiểu, mụ nhìn thấy vỏ chai thuốc trừ sâu bị kẻ nào vứt ngay gần hồ là hiểu ngay nguyên nhân đàn cá bị chết. Rút kinh nghiệm xương máu từ năm đó, năm nay nhân dịp Linh rỗ vay nóng năm triệu đem nướng vào xóc đĩa, mụ đã bắt Linh rỗ nhận chân bảo vệ để trừ nợ, mụ Tám béo biết rõ ngoài máu me cờ bạc ra, Linh rỗ là đứa xông xáo và được việc.
***
Mùa Hạ dần khép lại để đón mùa Thu sang, trong tiết trời se lạnh của những ngày chớm Thu, tiểu Kính Phương vẫn thức dậy từ 5 giờ sáng để lau dọn các ban thờ và quét sân chùa sạch sẽ. Khi trời hửng sáng, tiểu Kinh Phương đi chợ mua về những bó sen cuối vụ để dâng lên cúng Phật.
Trong lúc tiểu Kính Phương ra ngoài, sư thầy Đàm Thy ngồi thiền ngay gian chính điện cho tĩnh tâm, sau khi ngồi thiền một tiếng, sư thầy ngồi đọc kinh sách bàn luận về cõi tạm cũng như kiếp người nơi trần thế, từng dòng chữ hiện ra trước mắt của sư thầy Đàm Thy như lời nhắn nhủ
“Đức Phật từ bi và trí tuệ, xin hãy về dưới chân Ngài để một lần buông xuống tất cả những mộng ảo trần gian, để một lần được tắm mình trong dòng sữa pháp thiêng liêng, cho thân tâm được gột rửa những bụi trần đã in sâu trong tâm khảm. Cõi đời tạm bợ, trần thế tạm nương, không gì là mãi mãi khi vô thường là bản chất phù sinh nên ta hãy hướng tâm mình đến con đường đạo lý, đi tìm cái gì đó thanh cao và vững chãi lâu bền.
Một khi đã giác ngộ thì thảnh thơi giữa biển đời sinh tử, ra vào tự tại ba cõi và tiếp tục công cuộc độ sanh. Được như thế mới không uổng phí kiếp người.
Chẳng biết rong chơi miền Tịnh độ
Làm người một kiếp cũng như không”
Đọc xong chương sách đó, sư thầy Đàm Thy nén tiếng thở dài bắt đầu gõ mõ tụng kinh như thường lệ, tiếng chó sủa râm ran ngoài cổng chùa báo hiệu sự có mặt của các bà vãi đến làm công quả và chuẩn bị cho lễ cúng rằm tháng tám.
Phía bên kia tường rào, nhà lão My chột sáng đèn thâu đêm để phục vụ các con bạc khát nước sát phạt nhau.
***
Bà Liên bưng chiếc đĩa sứ có mấy quả chuối và hai lạng cốm được bọc trong lá sen để lên bàn, trong lúc lão Ngoãn đang ăn chuối và thò tay bốc từng nắm cốm nhét vào mồm để nhai, bà Liên thủ thỉ nói với chồng:
- Tôi nghe người làng kháo nhau, dạo này mình hay la cà ở quán nước nhà cô Thoa phía cuối làng phải không. Nếu người khác tôi không dám có ý kiến nhưng cô Thoa nổi tiếng là người hay lang chạ khắp làng, con Mộc Miên cũng lớn rồi, mình làm gì cũng để ý chút, nếu không sau này con mình sẽ khó mà lấy được chồng vì người ta “lấy vợ xem tông”. Không đợi cho vợ nói hết câu, lão Ngoãn ngửa cổ dốc nốt chỗ cốm từ lá sen vào miệng, vừa nhai chỗ cốm trệu trạo trong mồm lão vừa nói:
- Ở cái làng này toàn đứa rỗi hơi chuyên ngồi lê đưa chuyện, người ta là gái chính chuyên còn hơn chán vạn nhà các bà, tôi nói đẻ thêm thằng con trai thì bà kêu không đẻ được, vậy tôi tự đẻ được chắc.
Nghe chồng nói vậy bà Liên im lặng bê chiếc đĩa xuống bếp.
Sau khi rít một hơi thuốc lào, với vẻ mặt sảng khoái, mặc cho bà vợ lúi húi nấu cơm trong bếp, lão Ngoãn dắt con xe lọc cọc ra ngõ để đạp xuống cuối làng, chỉ có ở nơi đó lão mới cảm thấy sự thanh xuân đang trở lại trong thân hình bắt đầu lão hóa theo thời gian của mình.
Việc khát khao có một thằng cu nối dõi đang dần thành hiện thực khiến lão cảm thấy phấn chấn lạ thường, đường làng giữa trưa khá vắng vẻ, tiếng gà gáy từ xa vọng lại, tiếng chó sủa mỗi khi có người qua lại cộng thêm mùi rơm rạ khiến cho không gian của làng mang nét đặc trưng riêng của nó.
Vừa nhìn thấy lão Ngoãn, cô Thoa đã cười rinh rích, cô đưa tay đỡ lấy cặp lồng mỡ từ tay người tình rồi đem vào trong nhà. Giữa trưa nên hàng nước của cô không có khách, con đường cuối làng dẫn ra cánh đồng giờ này cũng không một bóng người. Lão Ngoãn vội vàng dắt con xe vào nhà cô Thoa rồi đóng cửa lại, cái nắng nóng oi ả của tháng tám cũng không làm giảm sự nhiệt tình của hai người, họ lao vào nhau với sự thèm khát y như nắng hạn gặp mưa rào vậy, mặc cho tiếng chửi bới của bà hàng xóm bị mất gà đang réo rắt từ xa vọng lại.
***
Trời vừa sẩm tối cũng là lúc tiếng trống ếch vang lên khắp đường làng ngõ xóm, hôm nay sân đình sẽ là nơi bày cỗ trông trăng của các cháu thiếu nhi. Ngay từ chiều Mộc Miên và các bạn trong đoàn thanh niên của xã đã chăng đèn kết hoa, trẻ em của làng đều được bố mẹ đưa ra sân đình vui chơi.
Đám thanh niên cũng nhân dịp này góp mặt để tán tỉnh nhau, thằng Nhất nhà lão My chột ngay từ chiều cũng đã ngồi dưới gốc đa ngắm nhìn cô bé Mộc Miên, hễ có thanh niên nào cười nói với Mộc Miên là nó lại sôi máu ghen tức, nó không dám gây sự công khai nhưng sẽ nhớ mặt từng người để trả thù vào dịp khác. Cô bé Nhài là em gái Nhất cũng có mặt trong tốp chuẩn bị bày cỗ trung thu, riêng hai thằng Nhị và thằng Tam lại không khoái mấy trò này, bọn chúng chỉ thích lượn sang các làng bên để trộm chó mang ra thị trấn Văn Điển bán lấy tiền tiêu xài.
Mấy đứa con đi vắng hết, tranh thủ lúc chồng còn đang nằm ngáy vang cả nhà, bà Thanh lau dọn nhà trên, bình thường nơi đây là chỗ tiếp khách và kiêm luôn sới bạc mỗi khi đêm về nên bà và con gái hiếm khi ngó vào. Lúc cúi xuống quét dọn dưới ban thờ, bà Thanh nhìn thấy một bao tải được buộc dây chun bèn kéo ra xem, không biết bao tải có gì mà nặng chịch. Lúc mở được bao tải ra bà Thanh bủn rủn hết cả chân tay, bên trong bao tải là một con rùa bằng đồng khá to, trên mu rùa vẫn còn nguyên vết chân của con hạc nhưng đã bị tách ra khỏi lưng rùa cho gọn, bà Thanh nhìn kĩ trong gầm ban thờ thì thấy con hạc bằng đồng được bọc trong chiếc vỏ chăn cũ của gia đình và được nhét tít sâu bên trong.
Ngồi bần thần bên đống đồ vừa lôi ra, bà Thanh đã hiểu vì sao tự dưng mấy cha con nhà này dạo gần đây có nhiều tiền đến vậy, hóa ra không phải tiền đánh bạc, mấy vụ trộm cổ vật bên chùa lại do chồng và con bà thực hiện.
Đang mải suy nghĩ về tội lấy của nhà chùa, bà Thanh bất giác giật mình bởi tiếng quát của lão My chột:
- Bà làm gì mà dám lôi đồ của tôi ra để tơ hơ như vậy, vợ với chả con ngu lắm, rồi chẳng may đứa nào nhìn thấy có mà rũ tù cả đám. Nói xong lão My chột đẩy bao tải có con rùa vào trong ban thờ và đuổi vợ xuống bếp.
Bằng sự lọc lõi của mình, ngay khi bốn cha con sang chùa trộm được chiếc chuông cổ và đôi hạc đứng trên lưng rùa, tất cả đều được đúc tinh xảo bằng đồng có tuổi đời vài trăm năm tuối, lão My chột bán quả chuông cổ cho một tay trùm buôn đồ cổ ở Hải Phòng, lão biết rõ bọn này có đường dây móc nối với thủy thủ tàu viễn dương để mang ra nước ngoài bán cho các nhà sưu tập cổ vật ở nước ngoài. Đôi hạc đứng trên lưng rùa, lão My quyết định chỉ bán một con, nếu bán cả đôi sẽ không được giá, người mua dù rất thích nhưng lão My chột vẫn luôn mồm khẳng định, đôi hạc quí do chiến tranh loạn lạc nên chỉ còn một con duy nhất.
Bán xong hai món đồ ăn cắp thu về một mớ tiền, mấy cha con lão vung tiền mua sắm, thằng Nhất và thằng Nhị được mua mỗi thằng một xe máy chỉ để đi tán gái làng, riêng thằng Tam còn ít tuổi nên chưa được mua. Con hạc còn lại chưa bán, lão My cậy ra khỏi lưng con rùa để nhét gọn dưới ban thờ. Lão My chột biết rõ đồ cổ càng để lâu càng có giá trị, biết đâu sau này con hạc này chính là tiền dưỡng già của vợ chồng lão.
***
Trời càng về khuya, ánh trăng càng sáng tỏ, trăng rằm có vẻ đẹp riêng của nó, từng con đường làng ngõ xóm dù đã tắt hết điện nhưng vẫn được soi sáng nhờ trăng rằm. Đêm khuya thanh vắng, đám thanh niên làng cũng đã về ngủ từ rất lâu, trong nhà lão My chột các con bạc vẫn say sưa dõi theo kẻ cầm cái mỗi lần mở bát, tiếng đồng xu vang leng keng trong chiếc đĩa được úp trong bát sứ khiến bao kẻ tan cửa nát nhà.
Cờ bạc đã ngấm sâu vào máu của các con bạc, nó như không khí để thở vậy, không có nó các con bạc sẽ cảm thấy vô cùng trống vắng, chẳng thế nhiều con bạc sau khi đã tán gia bạn sản, dù không còn tiền để chơi, hàng đêm vẫn cố chen chân xin được ngồi chầu rìa để nghe tiếng đồng xu ma quái, để được đắm mình trong tiếng hò reo của kẻ thắng, tiếng rền rĩ xen lẫn tiếng chửi rủa của kẻ thua.
Trong lúc các con bạc đang vào cao trào, liếc nhìn đồng hồ đã gần 2 giờ sáng, lão My chột bước nhẹ ra ngoài sân, lũ chó đang nằm phủ phục ngoài hiên thấy chủ bèn chạy lại vẫy đuôi mừng rỡ, lão My vẫy thằng Nhị đang ngồi phì phèo thuốc lá và canh cổng lại dặn dò:
- Mày nhớ đừng có ngủ quên, đề phòng công an xã ập vào nhớ chưa. Thằng Nhị nghe bố dặn thì gật đầu một cách miễn cưỡng, nó đang bực vì thằng Nhất chạy xe ra thị trấn Văn Điển chơi cả đêm không về, còn nó phải ngồi canh chừng.
Lão My chột bước ra sau vườn, vẫn nhẹ nhàng như một con mèo, lão trèo lên cây gạo và bắt đầu quan sát, lúc trước dù ngồi trong chiếu bạc với đủ âm thanh hỗn tạp khác nhau, vậy mà lão vẫn nhận ra tiếng dội nước bì bõm từ bên chùa vẳng lại. Khi đã yên vị trên cây, lão My chột thoáng nhìn thấy bóng một con chim bay qua cùng tiếng kêu éc éc, thoáng chút rùng mình vì gặp phải chim lợn, lão lẩm bẩm chửi thề rồi dùng con mắt còn lại hướng về đất của nhà chùa.
Ngồi quan sát một cách chăm chú được 15 phút, dường như hết chịu nổi nên lão My chột lại tụt xuống đất và tung ngay chiếc chăn bông rách lên bờ tường cắm đầy mảnh thủy tinh rồi trèo sang bên đất chùa. Lão đã quan sát kĩ nhiều ngày, cả một đoạn tường rào ngăn cách giữa đất chùa với đất vườn nhà lão, duy nhất có đoạn tường này chỉ cắm vài miếng thủy tinh chiếu lệ chứ không như các chỗ khác, ngoài mảnh thủy tinh còn chăng thêm cả dây thép gai.
Lão My chột chỉ cách nhà tắm chưa đầy 5 mét, tiếng nước dội vẫn vang lên như mời gọi, như thúc giục, như khiêu khích mọi giác quan của lão, mọi thứ lúc này đối với lão cũng chỉ bé bằng cái móng tay.
Khi bước gần đến nơi, đất dưới chân lão bỗng sụt xuống khiến lão không kịp phản ứng và rơi ngay xuống hố, chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, lão đã phải gào lên trong đau đớn, tiếng kêu của lão My chột phá tan bầu không khí tĩnh lặng của đêm rằm tháng tám, ánh trăng rằm khi nãy đang sáng vằng vặc bỗng bị đám mây đen che khuất khiến mọi thứ bỗng tối sầm lại.
Trước khi ngất lịm đi, lão My chột lại thấy bóng con chim lợn bay lượn trên đầu.
5
Trời tối đen như mực, từng đợt gió lạnh thổi từng cơn, mới hơn 4 giờ sáng nhưng lão Ngoãn đã phải ra khỏi giường như mọi ngày, vừa chui ra khỏi chăn lão đã rùng mình vì lạnh. Sau khi bắn một điếu thuốc lào cho ấm phổi, lão đạp xe đến nhà mụ Tám béo bắt đầu công việc sát sinh. Trong lúc đợi cho nước sôi, lão Ngoãn lôi 5 con lợn ra chuẩn bị hóa kiếp, đây là số lợn sẽ phải thịt trong sáng nay, nếu sang tháng Chạp lượng thịt tiêu thụ mạnh, có hôm phải thịt 8 con mới đủ cho mụ Tám béo bán, những ngày sát tết lão Ngoãn sẽ phải thịt tới 15 con lợn.
Lão Ngoãn mở túi đồ nghề lấy ra 3 con dao to nhỏ các loại và một thanh thép tròn thu nhỏ dần về đầu mũi, đây là thanh liếc dao cho sắc, làm bằng loại thép cứng và phải thửa riêng mới có. Cứ sau khi dùng dao phóng tiết xong, lão Ngoãn lại chuyển sang dùng con dao khác to bản hơn để mổ phanh con lợn rồi moi đống nội tạng vứt ra chậu để người phụ việc lo làm sạch cỗ lòng, không kịp nghỉ tay một phút, lão Ngoãn lại dùng con dao to bản để chặt xương và phanh các tảng thịt theo yêu cầu của mụ Tám béo.
Miệt mài làm đến con lợn thứ tư, dù trời vẫn lạnh mà lưng áo của lão Ngoãn ướt sũng vì mồ hôi, cứ chốc chốc lão lại dùng cái liếc để cho dao được sắc hơn. Lão Ngoãn đứng lên vặn người một chút cho đỡ mỏi lưng rồi chuẩn bị giết thịt con cuối cùng, cũng như mấy con trước, lão vung dao nhanh gọn và dứt khoát, sau khi đã chuyển các tảng thịt lên xe máy để lão chồng mụ Tám béo chở ra chợ, lão Ngoãn đến ngồi bên cạnh bếp lửa cho ấm.
Vừa hơ tay bên bếp lửa hồng rực, lão Ngoãn liếc nhanh vào đôi ủng đi ở chân, bên trong ủng đã được nhét khá nhiều miếng thịt thăn, thịt ba chỉ mà vợ chồng mụ Tám béo dù đứng kè kè ngay đó cũng không phát hiện ra. Đang chuẩn bị thu dọn đồ nghề ra về, chợt lão thấy người phụ việc kêu lên hãi hùng, theo tay người phụ việc lão Ngoãn thấy trong chiếc tràng của con lợn cuối cùng mà lão vừa giết thịt có 5 con lợn con đã thành hình, lão chợt toát mồ hôi vì điều tối kị trong nghề sát sinh là giết con vật đang có chửa, tuy nhiên sau phút sững sờ, lão cho cả 5 con lợn con vào túi nylon rồi mang về nhà.
Lão Ngoãn bê bình rượu ngâm rễ cây đinh lăng rót ra một cốc đầy, với vẻ mặt khoan khoái lão cho mấy nhánh tỏi vào chảo mỡ đang sôi, đợi cho mùi tỏi bốc lên thơm lừng, lão bèn ném cả 5 chú lợn con vào chảo rồi chiên vàng. Trong tiết trời se lạnh của những ngày cuối năm, lão Ngoãn nhâm nhi cốc rượu và xơi món lợn bao tử một cách sung sướng, phía ngoài cầu ao bà vợ lão đem chỗ thịt nhét trong đôi ủng ra chế biến thức ăn đủ cho mấy ngày.
Trong lúc lão đang say sưa thưởng thức món lợn bao tử chiên giòn, tiểu Kính Phương từ ngoài cổng đi vào gặp lão và thông báo:
- Thầy con mời bác ghé sang chùa, có chút việc quan trọng thầy con cần trao đổi.
Nghe thấy sư trụ trì muốn gặp, lão Ngoãn vội đứng ngay dậy trả lời:
- Sư bác cứ về chùa, tôi chuẩn bị rồi sang chùa ngay kẻo thầy phải đợi.
Đợi tiểu Kính Phương đi khỏi, lão Ngoãn ngồi nhâm nhi chén rượu và nhai món khoái khẩu, bữa rượu sáng vừa xong cũng là lúc lão Ngoãn nằm lăn ra làm một giấc, mãi đến 5 giờ chiều lão mới đạp xe dọc con đường làng để đến chùa theo lời gặp sư thầy có việc.
***
Bà Thanh đi cắt thuốc của cụ lang Đào trên tận phố ga Thường Tín trở về, khi đạp xe đến gần quán đình, bà Thanh nhìn thấy lão Ngoãn, người tình một thuở đang đạp xe theo chiều ngược lại. Vì không muốn giáp mặt cố nhân nên bà đã rẽ ngay vào con ngõ gần đó để tránh mặt. Chuyện lão Ngoãn đi lại thậm thụt với cô Thoa khiến cả làng Văn Xá bàn tán một thời gian, ai cũng ái ngại cho bà Liên và con bé Mộc Miên, còn bà Thanh chỉ biết thở dài. Lão chồng bà tệ hại đã đành, giờ lại đến lượt lão Ngoãn cũng vậy.
Vừa về đến đầu nhà, bà Thanh đã nghe thấy tiếng chửi rủa của lão chồng kèm theo tiếng chó sủa, có lẽ đã quen với những âm thanh hỗn tạp như vậy nên con bé Nhài vẫn im lặng ngồi học bài và chuẩn bị cơm tối dưới bếp. Bà Thanh biết chắc, như mọi ngày mấy thằng con trai vô tích sự còn đang lêu lổng ở đâu đó không thèm vác mặt về.
Các cụ nói “ngày tháng mười chưa cười đã tối” không sai, chưa đến 6 giờ mà trời đã tối sầm, từng cơn gió mùa đông bắc thổi khiến cho hàng cây trong vườn xào xạc. Lão My chột lèm bèm chửi bới có lẽ do vết thương ở chân bị đau nhức vì thời tiết chuyển lạnh, từ trưa đến chiều lão đã nốc hai chai rượu để thay cho thuốc giảm đau, khổ nỗi rượu nốc rồi mà vẫn không say, còn chân vẫn đau nhức cho nên lão chửi cho sướng miệng và trút giận lên vợ con.
***
Đêm hôm rằm tháng tám, khi lão My chột rơi cả người xuống hố sâu, ngay khi chân vừa chạm xuống đất, lão đã gào lên trong đau đớn vì dính bẫy, dưới hố có đặt mỗi cái bẫy sắt khá to. Loại bẫy mà lão My chột dính phải có tên gọi bẫy “cạp là”, đây loại bẫy cực mạnh được bà con dân tộc hay dùng để bẫy thú. Loại bẫy này được các thợ rèn chế tác từ 2 miếng thép có một hàm răng lược đan vào nhau, cùng với 2 lò xo cực mạnh nhằm giữ chặt chân con thú khi bẫy sập.
Đây là loại bẫy chuyên để săn các loài thú lớn, khi đã dính bẫy từ bò tót cho đến hổ, cũng phải chịu chết, giờ đây hai hàm răng lược bằng thép đã găm chặt vào cổ chân lão My chột, máu từ chỗ bị kẹp tuôn xối xả khiến lão ngất lịm. Nghe tiếng kêu thét của bố, mấy thằng con trai lão chạy ra vườn tìm, theo hướng tay thằng Tam chỉ, mấy đứa con lão My chột vượt tường rào nhảy sang bên đất chùa mặc đám chó đang sủa ầm ĩ.
Dưới ánh trăng khi mờ khi tỏ, mấy đứa đã nhìn thấy bố mình nằm lọt dưới hố còn chân bị chiếc bẫy sắt găm chặt, hì hục một lúc bọn chúng mới gỡ được chiếc bẫy thú ra khỏi chân lão My chột, thằng Nhất đã lấy hết sức đạp đổ một đoạn bờ tường rào để khiêng bố mình về bên nhà.
Sau này tìm hiểu, mọi người mới biết cái hố lão My chột rơi xuống vốn là hố vôi. Ngày xưa nhà chùa tôi vôi dùng vào việc tu sửa lại gian chính điện, khi hết vôi chiếc hố chưa được lấp. Khi ngôi chùa liên tiếp xảy ra các vụ trộm đột nhập lấy cắp cổ vật, chính lão Ngoãn đã lấy chiếc bẫy treo trên gác bếp xuống rồi mang sang chùa thả xuống hố, lão còn cẩn thận đặt các thanh tre và phủ rơm hóa trang lên miệng hố.
Chiếc bẫy thú này lão Ngoãn được một người đồng đội khi xưa hiện sống ở Tây Nguyên tặng cho làm kỉ niệm. Chính lão Ngoãn đã tư vấn cho sư thầy Đàm Thy cắm mảnh thủy tinh khắp các tường rào, tuy không có bằng chứng nhưng lão Ngoãn vẫn nghi vụ trộm của chùa do mấy cha con nhà lão My chột gây ra, lúc đám thợ cắm các mảnh thủy tinh và chăng dây thép quanh tường rào, lão Ngoãn đã âm thầm để ngỏ một đoạn tường rào ngay gần hố vôi có đặt bẫy, kinh nghiệm chiến trường đã giúp lão Ngoãn phán đoán chính xác thủ phạm.
Bên cạnh việc thâm thù bởi lão My chột đã cưới mất cô người yêu, lão Ngoãn cũng luôn đố kị với lão My chột việc sinh được ba thằng con trai trong khi lão có mỗi cô con gái.
Ngay khi biết tin lão My chột dính bẫy, lão Ngoãn đã ngồi nhậu tại hàng thịt chó của con mụ Dậu quắt suốt buổi trưa vì hả hê sung sướng, nhậu xong lão mò về nhà cô Thoa để mong kiếm được mụn con nối dõi.
***
Lão My chột được khiêng về nhà giữa đêm, thằng Nhất đổ nguyên chai rượu vào chân bố để sát trùng, sau khi dùng tới 5 gói thuốc lào để cầm máu, lão My cũng dần tỉnh lại. Suốt một tuần sau đó dù được đắp các loại thuốc bằng lá cây nhưng chân vẫn đau nhức, còn lão My chột sốt liên tục, chỉ đến khi bàn chân tím đen và chỗ vết thương rỉ nước vàng bốc mùi không chịu nổi, lão My chột thều thào nói với vợ:
- Bà gọi ngay mấy đứa về cho tôi đến viện, đau nhức quá tôi chịu không nổi.
Khi lão My chột được các bác sĩ bệnh viện Thường Tín khám, chỉ cần nhìn sơ qua vị bác sĩ đã nói ngay với bà Thanh và mấy thằng con trai:
- Gia đình đông người như vậy sao không đưa ông nhà vào viện sớm, bây giờ chân đã có dấu hiệu hoại tử nghi là nhiễm trùng máu. Nói xong vị bác sĩ viết giấy chuyển lên bệnh viện Việt Đức gấp.
Để giữ tính mạng cho lão My chột, các bác sĩ đã quyết định tháo khớp cổ chân và điều trị tích cực. Sau khi nằm viện ba tháng và tiêu một đống tiền, lão My chột được về nhà trên chiếc xe lăn mới mua.
Bà Thanh âm thầm chịu đựng tính nết thất thường của lão, âu cũng là quả báo đến sớm vậy. Mỗi lần vết thương đau nhức, lão My lại nốc rượu và luôn miệng đòi mua xăng đốt chùa, nhiều lần không chịu được, bà Thanh nói với chồng:
- Ông định tạo nghiệp đến bao giờ nữa, nửa đêm ông mò sang đó để ra nông nỗi như này chưa đủ hay sao mà còn đòi đốt chùa. Thấy vợ nói vậy lão My vẫn lèm bèm trong men rượu:
- Chúng mày chờ xem, nhất định tao sẽ đốt chùa, tao sẽ thiêu trụi ngôi chùa này.
***
Con bé Nhài nấu cơm sáng cho cả nhà rồi chuẩn bị đi học, cả đêm qua bà Thanh thấy nóng ruột không ngủ được, cả ba thằng con bà chơi bời lêu lổng đi suốt đêm không về. Ngày trước nhà mở sới bạc nên mấy thằng còn thay nhau ở nhà canh chừng, từ ngày lão My chột gặp kiếp nạn, sới bạc cũng dần tan vì các con bạc chuyển ra đánh bạc ngay tại lều canh cá của Linh rỗ cho kín đáo và dễ bề tháo chạy nếu có động.
Tháng trước, để trả thù cho bố, mấy thằng con trời đánh của bà Thanh cũng đã đánh bả và bắt gọn cả đàn chó béo mẫm của nhà chùa mang ra thị trấn Văn Điển bán lấy tiền tiêu xài. Bất lực trước mấy đứa con bất trị, bà Thanh chỉ còn biết gõ mõ tụng kinh sám hối thay cho chồng con mình nhằm giảm được phần nào ác nghiệp mà họ đã gây ra.
Nhài vừa xách cặp ra cổng đã gặp ngay bà cụ Vân đang lập cập bước vào, vừa thấy hai mẹ con Nhài, cụ Vân đã hốt hoảng nói ngay:
- Bác xuống ngay làng Hạ Thái đi, đêm qua dân làng quây bắt được hai thằng trộm chó, họ đã xúm vào đánh hội đồng rất khiếp, tôi nghe nói hình như hai thằng đó là…chưa kịp nghe bà cụ Vân nói hết câu, bà Thanh đã gục ngay xuống nền sân gạch, miệng bà chỉ thốt lên được hai tiếng……nghiệp chướng.
Bên trong nhà lại vẳng ra tiếng chửi bới của lão My chột:
- Tao thề, tao sẽ đốt chùa...
- Tao sẽ đốt chùa…
- Tao sẽ đốt…
6
Cả làng Văn Xá được dịp xôn xao bàn tán việc cô Thoa bỗng dưng có chửa, mấy tháng trước cô còn mặc áo rộng che đi cái bụng lùm lùm, nhưng từ tháng thứ bảy khi mà chửa vượt mặt, cô không cần giấu diếm.
Bên xóm Hạ mọi người rỉ tai nhau việc cô thậm thụt với thằng Nhất chỉ đáng tuổi cháu mình, bên xóm Thượng các bà quả quyết đứa bé trong bụng cô Thoa là con lão Ngoãn thịt lợn.
Mặc cho thiên hạ đàm tiếu, cô Thoa vẫn vác bụng đi khắp làng, gặp mấy bà hỏi móc máy về bố đứa trẻ, không chút ngượng ngùng cô dừng lại dùng tay xoa bụng bầu và nói:
- Gớm nữa, các bà “ăn cơm nắm rồi nằm gậm giường” nhà tôi suốt mà còn phải hỏi làm gì, thôi tôi cũng nói cho các bà khỏi áy náy, mấy lão chồng các bà cũng định vo ve ong bướm nhưng tôi đã quạt cho một trận rồi. Nhổ bãi nước bọt ngay trước mặt mấy bà nhiều chuyện, cô Thoa bồi tiếp câu nữa:
- Nói thì bảo ngoa miệng, nhưng mấy lão chồng các bà nhìn người như con nhái bén, hoắng lên vậy chắc gì được nổi vài phút mà ghen bóng ghen gió. Nói xong cô Thoa lại quay gót bỏ đi thẳng bỏ mặc cho mấy bà đứng tức nổ đom đóm mắt.
Dạo này mang thai nên người cô luôn cảm thấy khó chịu, nhiều hôm thèm một bát bún ốc, cô bắt lão Ngoãn đạp xe ra chợ Văn Điển mua về, vừa nhấm nháp được chút nước ở bát bún ốc vẫn còn nóng mà lão mua về, cô đã quát ngay:
- Tôi bảo ông mua hàng con mụ Thành giữa chợ nhé, bát bún này chắc ông tiện chân mua ngay cổng chợ đúng không. Nói xong cô Thoa hất cả bát bún ốc ra hè. Vừa tiếc công đi xa lại vừa tiếc tiền mua bát bún, lão Ngoãn nổi điên chỉ muốn tát cho người tình một trận vì tội láo lếu, nhưng lão phải kìm lại vì thằng cu nối dõi đang nằm trong bụng cô Thoa. Lão lấy chổi quét chỗ bún vung vãi ra hè, còn miệng thì lẩm bẩm chửi:
- Con này mất dạy quen rồi, cứ đẻ xong rồi mày biết tay tao.
Ngồi ở trong nhà cô Thoa vừa xoa đôi chân phù thũng vừa chì chiết lão Ngoãn:
- Sao tôi lại ngu dại mà dính vào ông, một thằng không có gì lo cho tôi, cứ vài ngày ông lại tha đến mấy lạng thịt bèo nhèo và ít mỡ mà tưởng mình ghê lắm hả, có giỏi ông kiếm tiền về cho tôi tiêu đi. Nói xong cô Thoa lại tu tu khóc như đứa trẻ con.
Chịu không nổi tính khí thất thường của người tình, lão Ngoãn văng tục một câu rồi ném cái chổi vào góc nhà, lúc dắt xe ra về, vừa đến đầu ngõ lão va ngay phải chiếc xích lô chở mẹ con bà Thanh đi chữa bệnh.
Nhìn người tình dạo trước bây giờ trông tiều tụy hốc hác, lão Ngoãn sững lại giây lát rồi cắm mặt lầm lũi đạp xe về nhà.
Mộc Miên vừa dọn cơm ra đã thấy bố mình về sớm hơn mọi ngày nên rất vui, cô bé vừa xới cơm vừa thông báo:
- Con đã nhận được giấy báo trúng tuyển vào trường Cao đẳng Sư phạm huyện rồi. Nghe con gái thông báo tin sốt dẻo khiến cả hai vợ chồng lão Ngoãn đều nở nụ cười mãn nguyện.
***
Ngồi trên xe xích lô, bà Thanh vừa dỗ dành thằng Nhị như dỗ một đứa trẻ lên ba vậy, có lẽ chỉ có tình mẫu tử mới giúp bà đi tiếp chặng đường khổ ải này, bà nói với con:
- Con chịu khó nghe lời mẹ, rồi chút nữa mẹ mua kem ăn cho mát nhé.
Thằng Nhị nghe thấy vậy bèn làu bàu:
- Bà nói đó nhé, chút không có kem ăn, tôi chửi cho mục mả. Nghe con nói vậy, bà Thanh khẽ gật đầu rồi lấy khăn tay lau nước mắt, những giọt nước mắt xót xa.
Dịp cuối năm ngoái, khi nghe tin hai đứa đi ăn trộm chó bị dân làng vây đánh, bà Thanh vội bắt xe xuống ngay gần làng Hạ Thái. Tới nơi bà thấy mọi người bu kín lại, dù lực lượng công an đến giải vây kịp thời nhưng hai thằng con bà vẫn bị đánh tơi bời, chiếc xe máy đã bị thiêu rụi nằm chỏng chơ bên cạnh con mương, thằng Tam bé hơn nên chỉ bị đòn nhẹ, còn thằng Nhị nằm bất động trong vũng máu.
Để cứu con mình, bà đã phải quỳ lạy dân làng họ mới đồng ý cho khiêng thằng Nhị đi cấp cứu. Dù cứu được mạng sống nhưng thằng Nhị trở nên điên khùng do vết thương ở đầu, thêm nữa nó bị mù hoàn toàn. Cứ mỗi khi trái gió trở giời, thằng Nhị lại điên loạn chửi bới cả đêm, nó chửi bà Thanh đã sinh ra nó mà không dạy nó nên người, nó chửi lão My chột đã xúi nó đi ăn cắp, nó chửi cả cái làng Văn Xá, đêm nào cũng vậy đến nỗi dân làng đã quen với tiếng chửi của nó.
Để chữa mắt cho con, nghe người ta mách nên chiều nào bà Thanh cũng thuê xích lô chở thằng Nhị đến nhà ông lang Mận ở tận làng Tám để chữa bệnh. Ông lang Mận đã dùng phương pháp “lấy độc trị độc” để chữa mắt cho thằng Nhị, mỗi lần đến ông lại cho ong đốt hai bên mắt, tuy nhiên tiền mất tật mang, sau nhiều tháng kiên trì chạy thầy chạy thuốc, cuối cùng bà Thanh cũng chấp nhận buông xuôi vì không còn tiền chạy chữa mà bệnh con bà cũng hề thuyên giảm.
Nhà bà hiện giờ không khác nhà thương điên là mấy, hết lão My chột rượu say lè nhè chửi bới đòi đốt chùa lại đến thằng con giời đánh ngồi chửi tất cả mọi người, nhiều hôm cả hai bố con quay ra chửi nhau náo loạn cả một góc làng.
Nhiều đêm nghĩ quẩn, bà Thanh chỉ muốn cho hai bố con nó một liều bả chuột cho nhẹ nợ, bà thường nói với con bé Nhài:
- Sau này con lớn lên, yêu ai cũng được nhưng tuyệt đối không lấy trai làng Văn Xá này. Sợ con bé không hiểu, bà giải thích kĩ hơn:
- Con cứ nhìn gương bố và ba thằng anh trai thì rõ. Nghe mẹ nói vậy, Nhài thoáng rùng mình rồi nói với mẹ:
- Biết đâu con sẽ không lấy chồng mà đi tu cho thoát nợ trần.
***
Chùa Văn Lâm hôm nay đông hơn ngày thường vì sắp đến ngày giỗ đầu của sư cụ, các bà vãi đang chia nhau mỗi người một việc, người khỏe mạnh thì lo rửa mấy chục mâm chén bát cho bữa cỗ chay ngày mai, các cụ già cần mẫn ngồi têm trầu và đóng oản. Tiếng gõ mõ tụng kinh của sư thầy trụ trì đều đều vang lên từ gian chính điện, trong lúc đó tiểu Kính Phương lo quét dọn sân chùa, từng cơn gió thổi mạnh khiến tiểu Kính Phương phải vất vả gom chỗ lá khô vào góc sân chùa để đốt, chốc chốc cô lại phải dừng lại đứng tựa vào gốc cây vì buồn nôn và chóng mặt.
Nhìn nét mặt xanh xao của tiểu Kính Phương, bà cụ Vân bèn nói:
- Sư bác không được khỏe mà chỗ này lại lộng gió, thôi để già trông hộ đám lá khô này, sư bác vào trong ngồi nghỉ đi.
Nghe cụ Vân nói vậy, tiểu Kính Phương gật đầu bước về phía nhà ngang, mới đi được vài bước, tiểu Kính Phương đã bụm miệng ngồi thụp xuống bụi hoa ngâu. Cụ Vân thấy vậy khẽ lắc đầu tỏ vẻ thương cảm.
Lúc sư Đàm Thy từ gian chính điện bước ra, bà cụ Vân khẽ nói:
- Bạch thầy, già có chuyện muốn nói...
Sư thầy ngồi như hóa đá khi nghe cụ Vân nhẹ nhàng thưa chuyện, từng câu, từng chữ của cụ Vân khiến sư thầy không thốt được nên lời. Các bà vãi đã ra về từ lâu, cổng chùa cũng được đóng lại mà sư thầy vẫn ngồi bất động.
Tiểu Kính Phương rụt rè mời sư thầy vào dùng bữa tối. Im lặng hồi lâu, sư thầy mới nói với tiểu Kính Phương:
- Việc đã ra nông nỗi thế này, con phải hoàn tục thôi, đứa trẻ trong bụng không có tội.
Nghe sư phụ nói vậy, tiểu Kính Phương bật khóc sụp xuống chân sư thầy Đàm Thy rồi nói:
- Thầy ơi cứu con, con biết lỗi của mình rồi.
Sư thầy Đàm Thy khẽ lắc đầu rồi nói với đệ tử:
- Con đã phạm giới luật, hãy hoàn thành bổn phận làm mẹ cho tốt, thầy trò ta đến đây là hết duyên.
***
Mới chưa đến 5 giờ sáng, đường làng tối đen như mực, cánh cổng chùa hé mở cho tiểu Kính Phương bước ra rồi đóng sập ngay lại. Tiểu Kính Phương cúi đầu bái vọng sư phụ rồi lầm lũi bước đi, tiếng chó sủa râm ran khắp đường làng như tiễn chân con người lạc lối.
Từ phía cuối con đường làng, tiểu Kính Phương vẫn nghe thấy tiếng gõ mõ, tiếng chuông chùa, thoảng đâu đó mùi hoa ngâu xen lẫn mùi trầm hương quen thuộc như níu kéo bước chân cô, ngập ngừng giây lát tiểu Kính Phương gạt nước mắt rồi mím môi nhằm thẳng hướng lều trông cá của Linh rỗ bước tới.
Từ lúc này cô chính thức trở lại tên cúng cơm là Nguyễn Minh Phương.
7
Đang chìm trong giấc ngủ sau một đêm quần quật với gái làng chơi, Linh rỗ giật mình tỉnh giấc khi bị lay dậy, ngó ra ngoài trời vẫn rất tối nhưng Linh rỗ nghe có tiếng gọi khe khẽ ngoài cổng, tiếng gọi bị át đi bởi tiếng mấy con chó đang sủa. Bực mình y nhỏm dậy mặc vội quần áo rồi một tay cầm chiếc đèn pin, còn tay kia y vớ lấy chiếc dĩa chuyên dùng xiên cá chui ra khỏi lều bước về phía cổng.
Đàn chó nhìn thấy Linh rỗ bước tới lại càng sủa to hơn như muốn báo công với chủ, Linh rỗ suỵt đàn chó rồi rọi đèn pin ra ngoài sẵng giọng hỏi:
- Đứa nào chưa sáng đã gọi vậy, tao nói hôm nay không có hội rồi. Tiếng nói của Linh rỗ chợt khựng lại khi ánh đèn pin của y rọi thẳng vào khuôn mặt xanh rớt của tiểu Kính Phương, đoán có chuyện chẳng lành, Linh rỗ vội mở khóa cổng.
Vừa bước chân vào bên trong, không cần Linh rỗ hỏi, tiểu Kính Phương đã khóc nức nở rồi nói với y:
- Sư thầy đã trục xuất tôi ra khỏi chùa, bây giờ tôi không còn biết đi đâu.
Nghe tiểu Kính Phương nói vậy, Linh rỗ ngáp dài hỏi nhấm nhẳng:
- Sao bị bà ý trục xuất, có mỗi hai thầy trò với nhau mà cũng lắm chuyện.
Nghe Linh rỗ nói vậy, tiểu Kính Phương ấp úng hồi lâu rồi nói khẽ:
- Thầy phát hiện tôi mang thai nên yêu cầu phải hoàn tục, mà cái thai là do... Không đợi tiểu Kính Phương nói hết, Linh rỗ như tỉnh ngủ, y chỉ tay về phía cây nhãn nói với tiểu Kính Phương:
- Đứng tạm vào chỗ đó, đợi chút rồi tính.
Bỏ mặc tiểu Kính Phương đứng nép ở bên cây nhãn, Linh rỗ cầm đèn pin quay lại lều cá, trong lúc đó mấy con chó của y vẫn đứng ven hồ gầm gừ như muốn kiếm chuyện với người lạ.
Bước vào trong lều trông cá, Linh rỗ hất chăn đánh thức đứa con gái đang ngủ dậy, y nói với đứa con gái:
- Thôi em chịu khó đi bộ ra đầu làng bắt xe về Văn Điển nhé, anh có khách đột xuất. Không đợi cô này phản ứng, y rút mấy tờ tiền đưa cho cô ta.
Ả gái làng chơi bị lôi dậy lúc trời còn mờ sáng tỏ vẻ khó chịu, đến lúc Linh rỗ đưa tiền và tống cổ bèn vùng vằng mặc quần áo rồi xách chiếc túi giả da loại rẻ tiền đi ra cổng, lúc đi ngang qua chỗ tiểu Kính Phương đang đứng, thị dừng lại cau mày liếc xéo một cái rồi nhếch mép cười nhạt. Trước sự ngơ ngác của tiểu Kính Phương, thị mở túi lấy điếu thuốc rồi châm lửa hút phì phèo, sau khi nhả khói về phía mặt tiểu Kính Phương, thị nhún vai bỏ đi.
Linh rỗ ngồi ngáp ngắn ngáp dài trước cửa lều, y với tay lấy chiếc điếu cày rồi châm lửa rít một hơi cho tỉnh ngủ, đờ đẫn nhìn làn khói thuốc bay lẫn vào không trung, y cất tiếng gọi tiểu Kính Phương:
- Đi vào đây xem nào. Nghe Linh rỗ gọi, tiểu Kính Phương ngập ngừng bước đến chỗ cửa lều rồi ngồi xuống.
Linh rỗ xoa cằm ra chiều suy nghĩ rồi hỏi tiếp:
- Thế khi đuổi cô ra khỏi chùa , bà đó có cho tiền không?
Tiểu Kính Phương nghe vậy bèn lập cập mở chiếc túi vải dùng đựng mấy bộ quần áo, cô thò tay lấy ra một xấp tiền đưa cho Linh rỗ và nói:
- Thầy có đưa cho tôi chỗ tiền này và nói tôi dùng nó để sống độ nhật, chờ ngày mẹ tròn con vuông.
Đập nhẹ xấp tiền vào lòng bàn tay, khuôn mặt của Linh rỗ giãn ra, y gật gù nói:
- Phải thế chứ, tưởng bà ấy không cho cô xu nào, tôi sẽ đến phá chùa ngay.
Nghe Linh rỗ nói vậy, tiểu Kính Phương vội chắp tay lầm rầm khấn:
- Nam Mô A Di Đà Phật!...Nam Mô A Di Đà Phật!
***
Từ ngày nhận trông hồ cá cho mụ Tám béo, Linh rỗ vẫn thường xuyên tổ chức đánh bạc tại lều để kiếm thêm thu nhập, bản thân y cũng nướng vào sới bạc không ít tiền. Cứ mỗi lần thua cháy túi, y lại mò ra ga hoặc thị trấn tìm gái để giải đen, chính đứa con gái đêm nay ngủ trong lều cũng luôn coi y là khách quen thường xuyên.
Thậm chí nhiều khi nhẵn túi, Linh rỗ vẫn được bọn gái đứng đường cho chịu tiền vì y nổi tiếng là sòng phẳng, không bao giờ quỵt tiền chơi gái như đám trai làng.
Trong một lần thua bạc, lúc mờ sáng đi ra đầu làng, Linh rỗ đã gặp tiểu Kính Phương gánh rau ra chợ bán sớm, không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà Linh rỗ đã bám theo buông lời ngọt nhạt với tiểu Kinh Phương.
Người ta nói “mưa dầm thấm lâu” quả không sai, sau vài tuần đón lõng để tán chuyện, cuối cùng Linh rỗ cũng gạ được tiểu Kính Phương ghé thăm lều cá của y.
Tiểu Kính Phương là người chưa từng trải việc đời lại gặp ngay con cáo già lọc lõi như Linh rỗ nên lần đầu chui vào trong lều cá, tiểu Kính Phương liền bị sa ngay vào ái tình nhục dục, cô đã quên đi những lời răn dạy của Đức Phật trong kinh sách:
“Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau
Lọt vòng dây trói trước sau
Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng.
Ai mà dứt mọi buộc ràng
Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.”
***
Trời dần hửng sáng, tiếng đạp xe của những người chở rau lên Hà Nội bán râm ran ngay ngoài đường, sau khi bắn thêm vài điếu thuốc lào cho tỉnh táo để còn tính kế, Linh rỗ bảo với tiểu Kính Phương:
- Có mệt thì vào trong lều nằm nghỉ, chút nữa tôi bắt con cá chép rồi om dưa. Thấy tiểu Kính Phương ngạc nhiên, Linh rỗ khẽ gắt:
- Đã hoàn tục rồi phải tập ăn các món thông thường và bỏ ăn chay đi. Nói xong Linh rỗ bước ra cổng, vươn vai hít thở rồi nhằm hướng quán cháo lòng tiết canh thẳng tiến.
Vừa mệt lại vừa đói nên tiểu Kính Phương nằm xuống tấm nệm kê trong lều, mùi nước hoa rẻ tiền cộng thêm mùi của trận mây mưa đêm qua vẫn quẩn lại trong lều không thoát đi được khiến tiểu Kính Phương bị trận nôn khan hành cho mãi mới chợp mắt được.
***
Đường làng Văn Xá vắng hoe, tầm trưa dù có nắng oi ả nhưng quán thịt chó của mụ Dậu quắt hôm nay đông khách hơn mọi ngày, mùi chả chó nướng trên bếp than củi thơm lừng khiến đám thực khách chảy nước dãi vì thèm, đám đàn ông trong làng ra vào tấp nập, tiếng gọi rượu, tiếng gọi món nhậu vang lên.
Linh rỗ tay cắp chai rượu thuốc vừa bước vào quán đã gọi món luôn:
- Bà chủ cho đĩa thịt chó luộc, mấy xiên chả chó để uống rượu, chút phục vụ luôn bát xáo. Mụ Dậu quắt vâng dạ rồi sai con bé phục vụ ra lau bàn để bưng đồ.
Ngồi khề khà bên chén rượu, Linh rỗ bắt đầu suy tính, tiếng là đi làm công cho con mụ Tám béo, nhưng hiện giờ cũng chỉ kiếm đủ tiền để nhét vào miệng của mình, còn ba đứa con là Ngô, Khoai, Sắn vẫn phải bám váy bà nội mới được như ngày hôm nay.
Vậy mà bây giờ tự dưng sắp có thêm đứa con nữa, điều này Linh rỗ chưa bao giờ nghĩ đến.
***
Lão My chột sau nhiều tháng chỉ ngồi nhà rượu chè và chửi bới vợ con, hôm nay lão cũng chống đôi nạng mò ra quán thịt chó. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, lão gọi đồ nhậu xong liền ngồi ngay ở cái bàn kê giữa quán.
Cứ nốc xong một chén rượu, lão My chột lại cười ha hả và chửi cho cả quán cùng nghe thấy:
- Tiên sư cái loại “thấy người ta ăn khoai cũng đòi vác mai đi đào”, nếu đẻ được con trai dễ như vậy, chắc cả cái làng này thi nhau đẻ.
Cứ chửi xong một câu, lão My chột lại thò tay bốc miếng thịt chó rồi chấm vào bát mắm tôm có vắt chanh đã được đánh cho sủi bọt, miệng lão nhồm nhoàm nhai thịt chó với vẻ mặt đầy mãn nguyện. Lão My chột nhặt mấy chiếc lá mơ trên đĩa cho vào miệng rồi tiếp tục chửi.
Dù lão My chột không nói tên ai, nhưng cả quán nhậu này đều biết rõ, lão My chột đang chửi đểu lão Ngoãn thịt lợn.
Kể từ khi biết chiếc bẫy thú do lão Ngoãn đem vào chùa, lão My chột ngoài việc đòi đốt chùa, hàng ngày lão vừa uống rượu vừa lôi vợ ra chửi, dù sao ngày xưa lão Ngoãn với bà Thanh cũng có một thời yêu nhau nên lão My chột lại được dịp suy diễn, lão cho rằng cả hai đã ngấm ngầm thông đồng với nhau để hại lão.
Mối thâm thù với lão Ngoãn chỉ được giải tỏa phần nào, khi lão My chột biết tin về vụ sinh nở của cô Thoa. Hôm nay mừng quá nhưng ngồi nhà sẽ không ai biết, nên lão My chột chống nạng ra quán nhà con mụ Dậu quắt để vừa ăn vừa chửi cho sướng miệng, lão cũng muốn cả làng Văn Xá phải nghe thấy.
***
Cô Thoa đang ngồi bán hàng nước bỗng thấy có hiện tượng vỡ ối, cô vội vàng ra ngay trạm y tế xã để sinh con. Vì mới đi sinh con lần đầu nên cô cũng không có nhiều kinh nghiệm chuẩn bị mọi thứ, cô ra trạm y tế sinh nở mà không có đồ dành cho trẻ sơ sinh, người thân cũng không có ai.
Cô Thoa trở dạ từ 2 giờ chiều đến tận 7 giờ tối vẫn không đẻ được, trước tình hình đó, bà Lan y tá của trạm bèn quyết định chuyển cô Thoa ra bệnh viện Thường Tín, do không gọi được xe cứu thương nên bà Lan phải nhờ chồng mình lái chiếc xe công nông vốn hay dùng chở thóc lúa ra chở bà sản phụ.
Mãi đến tận 9 giờ tối cô Thoa cũng sinh nở được sau nửa ngày vật vã, đợi mãi không thấy y tá bế con về trả cho mẹ để cho em bé bú như các sản phụ khác nằm cùng phòng, cô Thoa bèn hỏi người y tá:
- Con em đâu rồi vậy chị?
Người y tá ngập ngừng giây lát rồi nói:
- Chị sinh được con trai nặng 3,2 cân nhưng tiếc là cháu đã mất sau khi sinh được hai mươi phút. Nghe y tá thông báo tin sét đánh, cô Thoa gào khóc và đòi gặp mặt con.
Vị bác sĩ trưởng khoa yêu cầu y tá tiêm cho sản phụ ống thuốc an thần, còn chuyện muốn gặp con bị từ chối ngay.
Việc cô Thoa đẻ ra đứa bé không có mắt và dị dạng như quái thai đã được vợ chồng y tá Lan kể lại khiến cả làng Văn Xá xôn xao bàn tán. Dù đứa bé đã chết ngay sau đó, nhưng dân làng vẫn quả quyết nó còn sống đến tận hôm sau, có người còn miêu tả thằng bé đó khi sinh ra có khuôn mặt y như mặt lợn và tiếng khóc của nó giống như tiếng lợn bị chọc tiết vậy...
Tiếng đồn loang đi khắp cả làng trên xóm dưới, đâu đâu cũng chỉ thấy mọi người đứng thành từng nhóm để bàn tán và thêu dệt thêm đủ thứ cho li kỳ.
Việc lão Ngoãn khi xưa có giết mổ nhầm lợn mẹ đang mang thai, sau đó lão lại chiên giòn mấy con lợn bao tử để nhậu cũng bị dân làng cho rằng đó là nguyên nhân khiến cô Thoa sinh ra quái thai, ai cũng rùng mình khi nghĩ đến hai chữ: QUẢ BÁO.
***
Lão Ngoãn ngồi bên chiếc bàn và nốc rượu, lão uống gần hết chai thứ hai rồi mà vẫn không say. Việc cô Thoa sinh ra thằng con trai, nhưng thằng cu không kịp bú mẹ đã mất ngay sau đó khiến lão như phát điên. Ở cái tuổi gần 60, đáng ra lão đã lên ông lên bà rồi, vậy mà lão vẫn phải lao tâm khổ tứ bất chấp miệng lưỡi thế gian suốt nhiều tháng qua để có mụn con trai, nay bỗng thành công cốc.
Vừa uống rượu lão Ngoãn vừa nghĩ đến cảnh hội làng hàng năm, nhà nào có con trai sẽ được tham gia chân khiêng kiệu, dẹp đường và nhiều việc khác. Mỗi khi họp họ, các cụ trong làng hay đem con trai ra khoe đến nỗi quên cả ăn, những lúc như vậy, lão Ngoãn chỉ biết cắm mặt vào ăn cho nhanh để còn đứng lên ra chỗ khác.
Chai rượu thứ hai cạn dần, cũng là lúc lão Ngoãn gục ngay xuống mặt bàn không còn biết trời đất là gì nữa. Từ dưới bếp đi lên, bà Liên vợ lão thở dài rồi gọi con gái ra phụ giúp khiêng lão vào giường nằm để tránh bị gió lùa.
Ở quán thịt chó của mụ Dậu quắt, lão My chột sau một hồi lải nhải đến líu cả lưỡi mà không ai hiểu cũng gục luôn xuống ngay sàn quán nhậu vì say quá, từ đũng quần của lão My chột xuất hiện một vũng nước và bốc mùi khai sực cả quán.
Giữa trưa nắng, trời bỗng đổi màu đỏ rực như ánh hoàng hôn. Tiếng chuông chùa từ xa vọng lại, tiếng chú gà trống choai nhảy lên mái bếp ngửa cổ gáy, tiếng chó sủa hóng ở cuối làng lại thêm tiếng máy bơm nước ở kênh mương tưới tiêu nội đồng đã tạo cho làng Văn Xá một mớ âm thanh hỗn tạp.
Vượt lên trên tất cả, tiếng gào khóc của bà Thanh khiến dân làng đổ xô tới…
8
Trời chạng vạng tối, từng đàn cò lại bay về tổ, mấy cây tre ở vườn nhà chùa cũng thành nơi trú ngụ của đám cò, mỗi lần có cơn gió mạnh thổi qua, đám lá tre lại kêu xào xạc, tiếng các thân cây tre chạm vào nhau tạo lên một mớ âm thanh hỗn độn.
Sư thầy Đàm Thy ngồi xem mấy cuốn sổ sách thu chi tại gian nhà ngang, chốc chốc thầy lại thở dài thườn thượt, làng Văn Xá đất rộng, nhân khẩu đông, chùa làng đẹp và cổ kính nhưng ít khách thập phương lui tới.
Hòm công đức suốt một năm mới mở khóa nhưng chả thu được mấy, may ra chỉ đủ tiền giọt dầu, mặc dù khi về trụ trì chùa Văn Lâm, sư thầy đã bỏ công thu vén khá nhiều nhưng mọi việc chưa được như mong muốn.
Sư thầy cứ nghĩ đến cảnh hàng năm về Hà Nội học hạ, các sư đồng khóa đều thi nhau khoe xe mới mua, có sư còn tậu thêm được mấy mảnh đất để hợp thửa nhằm mở rộng quy mô xây chùa, thậm chí có sư mới trụ trì vài năm ở chùa mãi trên mạn Bắc Giang còn sắm cả ô tô cho thuận tiện đi lại.
Sư thầy Đàm Thy ngậm ngùi khi thấy bản thân mình vẫn chưa mua sắm được gì, thầy liếc nhìn con xe máy cũ dựng góc sân chùa với vẻ ngao ngán, chính điều này khiến thầy cảm thấy phiền lòng, dạo này sư thầy muốn tĩnh tâm để ngồi thiền cũng khó.
Suy nghĩ hồi lâu sư thầy bèn gọi cụ Vân lại trao đổi:
- Chùa đã xuống cấp nghiêm trọng, thầy nhận thấy cột kèo bị mối mọt xông hết, cửa chùa thì lỏng lẻo cho nên nhiều cổ vật đã bị lấy cắp. Sắp tới thầy muốn hạ giải để xây lại ngôi chùa to đẹp hơn, vậy theo cụ nếu nhà chùa đứng ra kêu gọi thập phương công đức có được mọi người hưởng ứng không?
Nghe sư thầy hỏi vậy, ngẫm nghĩ hồi lâu bà cụ Vân rụt rè trả lời:
- Bạch thầy, làng mình vốn thuần nông cho nên không mấy nhà khá giả, tiếng là giáp ranh với Hà Nội nhưng mọi người cũng chỉ buôn thúng bán mẹt thôi. Dù sao chùa làng vẫn còn tốt, mong thầy nghĩ thêm cho thấu đáo.
Nghe cụ Vân nói vậy, sư thầy Đàm Thy chậm rãi nói:
- Thầy cũng chỉ nghĩ về cái chung, mong muốn dân làng mình có được ngôi chùa to đẹp hơn thôi, cụ đã nói vậy thầy sẽ cân nhắc. Nói xong sư thầy cầm mấy cuốn sổ đi vào gian chính điện, bà cụ Vân ngồi tần ngần một lúc đến khi tiếng chuông, tiếng mõ từ phía trong vang lên nghe không được liền mạch, bà cụ nén tiếng thở dài đứng dậy ra về.
Bóng đèn đường soi bóng bà cụ hắt hiu trên con đường làng, trời lại bắt đầu chuyển gió mùa đông bắc báo hiệu mùa đông đã tới.
***
Nghe thấy tiếng gõ mõ tụng kinh từ bên chùa vọng sang, bà Thanh vặn ngọn đèn dầu sáng lên chút rồi thắp thêm tuần nhang trên bàn thờ mới lập, di ảnh của thằng Nhị đang chăm chú nhìn bà như hờn giận, như trách móc.
Khi nó còn sống và chửi bới trong điên loạn, đã có lúc bà Thanh nghĩ quẩn muốn cho nó một liều bả chuột cho nhẹ nợ trần ai, nhưng khi đầu bạc tiễn đầu xanh, bà lại nhớ về thời các con thơ ấu, lúc đó cả ba thằng con trai bà vẫn còn ngoan ngoãn và lễ phép, vậy mà… Tiếng ngáy như sấm rền, chốc chốc lại hộc lên như lợn bị chọc tiết của lão My chột phá tan bầu không khí yên tĩnh của căn nhà.
Bà Thanh nhẩm tính, còn ba ngày nữa là đến giỗ một trăm ngày của con trai rồi. Có chết bà cũng không quên được hôm đó, bà vừa đi ra ngoài chưa đến ba mươi phút, vậy mà khi trở về đã thấy thằng Nhị nằm vật ngay trước hiên nhà, mắt nó trợn ngược, còn người nồng nặc mùi thuốc trừ sâu.
Không biết làm sao mà thằng Nhị lần mò được xuống gian bếp, nó đã tìm và uống cạn luôn chai vophatoc mà bà Thanh cất kĩ ở sau chỗ để củi. Nhìn thấy con như vậy bà đã ngã gục xuống ôm lấy xác con gào khóc thảm thiết.
Trong đám tang được tổ chức sau đó, hễ ai đến thắp hương và nói lời chia buồn với gia đình, lão My chột lại gật đầu đáp lễ và nói mỗi một câu cửa miệng:
- Thôi thế cũng xong, vậy là nhẹ nợ. Nói xong lão My chột lại nhấp một ngụm rượu để giữ tỉnh táo trong suốt đám tang.
Đứng bên cạnh chồng khi đó, bà Thanh chỉ im lặng để lo việc hậu sự cho con được chu toàn, tuy nhiên bà nghĩ thầm:
- Giá như người nằm trong quan tài là lão chồng nát rượu, có lẽ điều đó sẽ tốt hơn.
***
Tiếng xe máy ở ngoài sân khiến bà Thanh dứt khỏi dòng suy nghĩ, nhìn thấy con trai đang dựng xe, bà Thanh ngạc nhiên, không biết hôm nay trời đi vắng hay sao mà thằng Nhất lại về nhà giờ này. Nhất bước vào nhà liếc nhìn ông bố đang chìm trong giấc ngủ sau trận rượu, y cau mặt nói với mẹ:
- Bà suốt ngày hương khói không thấy chán sao. Không để bà Thanh trả lời, nó chui ngay vào gầm ban thờ lôi ra con rùa và con hạc bằng đồng mà mấy bố con nó đã ăn cắp bên chùa từ mấy năm trước.
Bà Thanh hốt hoảng nói với con trai:
- Sao con lại lôi mấy thứ này ra làm gì, nhỡ ông ấy hỏi thì sao?
Thằng Nhất vừa bê hai túi đồ ra xe vừa trả lời mẹ nó:
- Bà không thấy từ ngày rước mấy của nợ này về, nhà này không có phút giây bình yên sao, thôi bán đi cho đỡ vận hạn.
Nghe con trai nói vậy, bà Thanh thấy có lí nên im lặng không hỏi thêm câu nào.
Buộc xong hai túi đồ vào xe, thằng Nhất móc túi áo ngực đưa cho bà Thanh 200 ngàn rồi nói:
- Sáng mai bà ra quán con mụ Dậu quắt mua luôn cho ông ấy can rượu để uống dần, bà đừng có nói gì nhé không lại tan cửa nát nhà, có rượu để uống là quên hết sự đời ngay.
Không buồn chào mẹ mình một câu, thằng Nhất lên xe máy và phóng ra ngã ba đường làng rồi mất hút, chỉ có tiếng chó trong làng sủa theo tiếng xe mà thôi.
Đây cũng là lần cuối bà Thanh nhìn thấy thằng con giời đánh của mình.
***
Trong tiết trời giá lạnh, ba anh em thằng Ngô, Khoai, Sắn đang ngồi xì xụp bên nồi cháo ám, món này do bố chúng nó bắt trộm con cá quả ở hồ nhà con mẹ Tám béo mang về nấu, bà cụ Vân đang ngồi đung đưa bên chiếc võng, bà hát ru cho con bé Thóc ngủ.
“Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Văn Xá với anh thì về
Văn Xá có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề đìu tôm”
Con bé Thóc thiu thiu ngủ cũng là lúc con dâu bà dắt xe vào trong sân, cả ba đứa trẻ đều ngước mắt nhìn mẹ kế như người xa lạ, bà cụ Vân phải nhắc:
- Mồm ăn thì có, mồm nói thì không là sao.
Nghe bà nội mắng vậy, mấy đứa trẻ lúng búng chào rồi lại cắm mặt vào ăn.
Cô Phương tức tiểu Kính Phương khi xưa bước vào nhà chào bà cụ Vân rồi hỏi:
- Tối nay nhà con có về không mẹ.
Bà cụ Vân chỉ tay về phía nồi cháo rồi nói:
- Nó bắt được con cá quả rất to nên về nấu nồi cháo ám cho cả nhà cùng ăn, thôi con ăn đi cho nóng.
Từ ngày về sống chung dưới một mái nhà với Linh rỗ, vì cô Phương chỉ quen mỗi việc bán rau khi còn là tiểu ở chùa, nên cô chịu khó đi mua rau ngay tại hồ làng rồi đạp xe chở đi bán. Sinh con được bốn tháng, cô Phương đã gửi con cho mẹ chồng trông hộ rồi ngày nào cũng đạp xe vào tận Hà Nội bán rau, hôm nào hết rau sớm, cô lại đi nhặt nhạnh các vỏ lon coca, các đồ nhựa cũ cho vào bao tải để chở về, gom được nhiều cô đem bán cho mấy đại lí chuyên thu mua đồ đồng nát.
Thương vợ vất vả chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, dạo này Linh rỗ chịu khó về qua nhà nhiều hơn, lần nào Linh rỗ về nhà, mấy bà cháu lại có bữa cá rán hoặc nồi canh cá để ăn, số cá này do Linh rỗ đánh trộm ngay tại hồ nuôi cá của nhà mụ Tám béo.
***
Sáng ra gió thổi từng cơn, bầu trời thì xám xịt khiến mọi người cảm giác lạnh hơn, lão Ngoãn theo thói quen lại đạp xe về phía cuối làng. Từ dạo sinh con xong, cô Thoa đã bỏ làng đi biệt tích, người thì nói gặp cô trong miền Nam, người thì nói gặp cô trên Hà Nội, tin tức thật giả lẫn lộn không biết đâu mà lần.
Lão Ngoãn bần thần đứng trước căn nhà cô Thoa giờ đã hoang phế, gió mỗi lúc thổi lại mạnh hơn, những thân tre va vào nhau kêu răng rắc khiến lão Ngoãn cảm thấy cái lạnh thấu xương, quàng lại chiếc khăn cổ cho ấm, lão đạp xe rẽ tạt vào quán nhậu của con mụ Dậu quắt làm mấy ly rượu cho ấm bụng.
Đang tìm chỗ ngồi, lão Ngoãn thấy Linh rỗ ngồi co chân trên chiếc ghế băng dài vẫy tay gọi mình. Đợi cho lão Ngoãn ngồi xuống, Linh rỗ rót một chén rượu đưa cho lão rồi nói:
- Mấy lần tôi định tìm gặp bác có việc, may quá hôm nay lại gặp ở đây, bác làm một chén đã. Cả hai cụng li nhau rồi uống cạn chén rượu.
Trời đã sang trưa, trên bàn nhậu của Linh rỗ và lão Ngoãn, rượu đã cạn ba chai, đồ nhậu cũng chén sạch vài đĩa, hai gương mặt một thì đỏ ửng, một thì tái dại đang líu cả lưỡi vì nói.
Linh rỗ chốt lại một câu:
- Tôi cần bác hợp sức mới thành công được, vậy bác cho ý kiến.
Lão Ngoãn lóng ngóng mãi không cầm được đôi đũa cho chặt, bực mình lão ném đũa xuống nền nhà rồi dùng tay bốc luôn miếng thịt cho vào mồm nhai, lão gật gù nói với Linh rỗ:
- Cậu nói đúng, cứ quẩn quanh xó làng sẽ không ngóc đầu lên được, ngày xưa đi lính tôi có nhiều kinh nghiệm vụ đào bới này rồi, vậy nó nằm ở đâu.
Nghe lão Ngoãn nói vậy, Linh rỗ nhìn quanh quán nhậu rồi mới rút trong túi áo ra một tờ giấy nhàu nát, y vừa chỉ vừa giảng giải cho lão Ngoãn được biết:
- Đêm trước ở sới bạc có thằng Hải bên phòng văn hóa huyện thua to, nó cho biết đang nắm rõ vị trí khu lăng mộ cổ bằng đá, thằng này giỏi chữ Hán nên dịch được đây là lăng mộ của một quý phi thời Hậu Lê. Thời đó khi chôn sẽ có nhiều đồ quý được tùy táng theo người chết.
Nốc thêm chén rượu, Linh rỗ nói tiếp:
- Thằng Hải văn dốt võ dát, nó chỉ điểm chỗ lăng mộ để lấy chút tiền đánh bạc thôi, mọi việc đều trông vào tôi và ông.
Lão Ngoãn đã say ngất ngư nhưng vẫn cố chống mắt nhìn tấm bản đồ của Linh rỗ, sau khi nấc cụt vài lần, lão vỗ vai Linh rỗ và nói trong tiếng nhừa nhựa của thằng say.
- Cứ quyết vậy đi, sợ chó bố con thằng nào. Nói xong câu đó cả hai thằng say đều ngủ gục ngay tại bàn nhậu.
9
Suốt một tuần giá lạnh vừa qua, cái chân bị sập bẫy năm xưa của lão My chột lại đau nhức khiến lão vật vã không ngủ được. Thương chồng, bà Thanh đêm nào cũng phải cho lão uống thuốc giảm đau và thuốc an thần, nếu không lão sẽ chửi cả đêm, còn chửi ai thì chỉ có mình lão mới hiểu được.
Hôm nay được ngày trời hửng ấm lên, lão My chột lò dò ra ngồi sưởi nắng dưới hiên nhà, bên cạnh lão là đĩa ốc nhồi vừa luộc xong bốc khói nghi ngút, con bé Nhài còn bê cho lão thêm một bát nước chấm được nó chế biến công phu từ các loại củ quả có sẵn trong vườn nhà như: gừng, ớt, sả và thêm chút rau mùi được thái nhỏ. Lão My chột khêu từng con ốc ra chấm vào bát nước chấm rồi mút một cách thích thú trước khi nhai con ốc béo ngậy trong miệng, thỉnh thoảng lão lại uống một ngụm rượu nhỏ.
Nhẩn nha xơi hết đĩa ốc luộc và uống cạn cút rượu thuốc, lão My chột mới gọi bà Thanh ra hỏi:
- Sao dạo này tôi không thấy thằng Nhất và thằng Tam đâu nhỉ?
Nghe chồng hỏi vậy, bà Thanh ghé ngồi xuống hiên nhà rồi cho lão biết:
- Sau trận đòn thừa sống thiếu chết vì tội trộm chó, tôi đã gửi thằng Tam xuống nhà người quen ở Đỗ Xá để học nghề chạm khảm, sau này hy vọng nó có cái nghề tử tế mà kiếm ăn.
Ngập ngừng hồi lâu, bà Thanh nói tiếp với chồng:
- Thằng Nhất đợt trước có về nhà lấy nốt mấy món đồ giấu dưới ban thờ đem đi mất rồi.
Nghe vợ nói vậy, lão My chột giật mình gắt vợ:
- Giời ạ, sao bà không nói với tôi một câu, nó lấy đem đi đâu mà giờ này không dẫn xác về nhà, hay lại nướng vào cờ bạc hết rồi.
- Hôm đó ông uống quá nhiều rượu rồi lăn ra ngủ, tôi có gọi ông cũng không mở mắt được, bà Thanh phân trần với lão My chột. Con nó nói cũng đúng, từ ngày bố con ông tha mấy thứ đó về, nhà mình xảy ra đủ thứ chuyện. Nghe vợ nói vậy, lão My chột chép miệng không nói thêm gì nữa. Dạo này tự dưng lão My chột nền tính hơn xưa, bình thường mà như vậy, lão ngoạc mồm chửi đến tận khuya mới thôi.
Đang trầm tư suy nghĩ, chợt tiếng cưa gỗ, tiếng đục rồi cả tiếng mọi người đang bàn tán ầm ĩ vọng từ sau vườn lại, lão My chột định rướn người ngó xem nhưng bà Thanh đã thông báo cho chồng biết:
- Chùa làng mình xuống cấp nên sư trụ trì đã xin phép hạ giải để xây dựng lại, gớm ở đâu mà nhiều cột gỗ to chở về nhiều lắm, ngoài tốp thợ xây còn có tốp thợ mộc để chạm khắc các cánh cửa và các thanh vì kèo, chùa chưa hoàn thiện nhưng đã thấy bề thế lắm rồi. Nghe bà Thanh nói vậy lão My chột im lặng dựa vào chiếc cột nhà và lim dim mắt như đang ngủ.
Bà Thanh nhẹ nhàng thu dọn đĩa và bát mang xuống bếp cho con gái rửa, từ nếp nhà ngang cạnh bếp cô bé Nhài đang nghe một ca khúc với những giao điệu sâu lắng:
“Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Ngàn năm í.. a...
Buồn như í... a...
Ơ hay là một vòng sinh
Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời…”
***
Thổi xong nồi cơm, bà cụ Vân lấy manh chiếu ra trải giữa nhà, nhìn lên đồng hồ đã gần 12 giờ trưa, bà biết mấy đứa cháu đi học sắp về. Múc bát canh khoai sọ nấu sườn ra bát cho nhanh nguội, bà lấy bát cơm nhỏ trộn nước thịt đem ra cho con bé Thóc ăn dần không đói.
Con bé Thóc khảnh ăn nên bà cụ phải dỗ dành mãi nó mới chịu ăn, bà vừa bế cháu ra vườn cho xem đàn gà đang chạy tung tăng vừa cho thìa cơm có kèm miếng thịt vào miệng nhai nát ra, sau đó lại nhè ra chiếc thìa để đút cho con bé, cứ một thìa cơm lại thêm một thìa canh cho nó nuốt trôi, ăn chưa hết chỗ cơm trong chiếc bát con bé Thóc đã ngủ gà gật trên vai bà. Hoa nắng trong vườn chiếu xuyên qua tán cây bưởi rọi xuống chỗ hai bà cháu đang đứng.
Trong lúc hai bà cháu đang cho nhau ăn, ba anh em thằng Ngô, Khoai, Sắn đi học về, vừa vào đến cửa, không kịp chào bà nội, mấy đứa trẻ đã vứt ngay cặp sách vào góc nhà rồi xúm vào mâm cơm đã bày sẵn, chỉ loáng một cái, xoong cơm đã được vét gần hết, bát canh khoai sọ cũng được bọn trẻ đánh chén sạch sẽ.
Như mọi ngày, ăn xong cả ba đứa trẻ không ngủ trưa mà dắt nhau chạy ra đường làng mất hút, bà cụ Vân đặt con bé Thóc vào võng rồi bắt đầu ngồi xuống mâm cơm, nghiêng xoong cơm bà vét được non nửa bát còn sót lại, bà chậm rãi rắc thìa muối vừng vào rồi bắt đầu ăn, chốc chốc bị nghẹn bà lại uống thêm ngụm nước vối cho trôi miếng cơm.
Nhìn con bé Thóc đã ngủ say trên chiếc võng, bà cụ Vân lại thấy thương đứa con dâu tần tảo sớm hôm. Ngày nào cô Phương con dâu bà cũng đạp xe chở rau ra khỏi nhà từ sớm, khi trời nhá nhem tối con bé Thóc mới thấy mẹ về nhà.
Vừa dọn dẹp xong mâm bát, bà cụ Vân đã thấy con trai mình đẩy cửa bước vào, nhìn thấy Linh rỗ bà hỏi con:
- Con đã ăn gì chưa để mẹ đi nấu. Linh rỗ lắc đầu từ chối, y lại gần chiếc võng đang đu đưa ngó con bé Thóc đang ngủ rồi nói với bà cụ Vân:
- Đêm nay tôi phải canh hồ cá sắp đến ngày thu hoạch, bà dặn bọn trẻ không được làm ồn, để yên tôi chợp mắt chút. Nói xong Linh rỗ leo lên chiếc phản bắt đầu chìm vào giấc ngủ sau nhiều đêm thức trắng.
Bà cụ Vân hạ mành rồi khép cánh cửa để tránh gió lùa, trong lúc con trai và cháu nội đang say giấc nồng.
Dọn dẹp nhà cửa xong, bà cụ Vân ngồi tọa thiền ở giữa nhà, mặt hướng về bàn thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
***
Gần 2 giờ sáng trời rét căm căm, tiếng gió rít thổi từng cơn cộng thêm tiếng lá cây xào xạc, ở giữa cánh đồng gần làng Ninh Sở có hai bóng đen mò mẫm trong đêm tối, đi phía trước Linh rỗ cầm đèn pin soi đường, đi ngay sau là lão Ngoãn, dù đã mặc tới ba chiếc ao len lồng vào nhau và một chiếc áo khoác to sụ bên ngoài nhưng lão vẫn run lập cập.
Tới gốc cây gạo cả hai lại chụm đầu vào xem bản đồ, sau khi xác định được ngôi mộ cổ nằm trơ trọi giữa cánh đồng, lão Ngoãn và Linh rỗ dùng cuốc chim bắt đầu phá ngôi mộ. Đây là ngôi mộ khá to và bề thế, nhằm tránh bị phát hiện từ xa, Linh rỗ quyết định không bật đèn, trong đêm tối hai kẻ trộm hì hục kẻ xúc người đào.
Đào được một lúc, lão Ngoãn bắt đầu cởi dần áo khoác rồi đến áo len vì nóng trong người, nhấp một ngụm nước vối đem theo lão Ngoãn nói với Linh rỗ:
- Chú có nghĩ thằng Hải nó báo tin chính xác không vậy, mộ quý phi gì mà sơ sài và dễ đào thế. Thằng Linh rỗ vừa xúc đất vừa trả lời:
- Thằng đó mà cung cấp thông tin là chính xác rồi, bác tiếp tục đào nhanh không lại lỡ việc. Nghe Linh rỗ nói vậy lão Ngoãn bèn xoa hai bàn tay to bè vào nhau rồi bắt đầu cuốc thật lực, sau hai mươi phút đào bới cuối cùng một chiếc tiểu sành đã lộ ra... Linh rỗ mừng rỡ bật đèn pin để mở nắp tiểu, bên trong chiếc tiểu chỉ có một bộ hài cốt đã mủn đen, ngoài ra không có đồ tùy táng theo.
Cầm chiếc xương ống trên tay lão Ngoãn nói:
- Xương dài như thế này rõ là xương đàn ông rồi, quý phi nỗi gì mà không có “trong quan ngoài quách”. Cái tiểu sành này đúng kiểu tôi đã từng mua để sang cát cho ông cụ thân sinh. Linh rỗ thấy lão Ngoãn nói có phần đúng bèn soi đèn pin ra phần bia mộ, trên mặt bia không hề có dòng chữ Hán nào cả, nhìn vào dòng chữ quốc ngữ, hóa ra cả hai đã đào nhầm mộ tổ của dòng họ Phan Đình.
Không nói một câu nào, trong đêm tối rét mướt, hai tên đào trộm mộ đã lặng lẽ rời khỏi cánh đồng làng, bỏ mặc sau lưng ngôi mộ tổ vừa bị đào bới xâm hại.
***
Tối hôm sau tại sới bạc nhà mụ Thơm già ở thôn Thượng, ngay khi Hải béo vừa ngồi xuống chiếu bạc còn chưa kịp đặt cửa đã bị túm cổ lôi ra sau vườn nhà.
Nhìn thấy gương mặt đằng đằng sát khí của Linh rỗ và ánh mắt lạnh lùng của lão Ngoãn, Hải béo vội móc túi lấy ra xấp tiền đưa cho cả hai rồi nói:
- Tôi biết nếu có nhờ hai ông đi phá mộ, chắc các ông không dám nhận, lấy đâu ra mộ Quý phi cho hai ông đào trộm cổ vật.
Hải béo cười ranh mãnh rồi nói tiếp:
- Dòng họ nhà tôi và dòng họ bên đó thù nhau nhiều đời rồi, nhân vụ đánh bạc nên tôi nghĩ ra việc mượn tay các ông phá mộ cho bõ tức. Không nghe thằng nhãi ranh nói hết câu, lão Ngoãn cẩn thận nhét xấp tiền vào sâu trong túi quần rồi vung tay đấm thẳng vào mặt Hải béo rồi chửi:
- Tiên sư thằng khốn nạn, sao phòng văn hóa huyện lại đẻ ra loại cán bộ như mày.
Hải béo lau máu chảy ra từ miệng, chưa kịp thanh minh đã nhận thêm một cú đạp của Linh rỗ vào bụng kèm theo lời nói như ra lệnh:
- Từ hôm nay mày còn mò vào làng Văn Xá, tao đảm bảo cả người lẫn xe phi thẳng xuống mương tắm mát …biến ngay khỏi đây mau.
***
Từ hôm hạ giải để xây chùa, khỏi phải nói sư thầy Đàm Thy là vui nhất, ngôi chùa bề thế khang trang được xây dựng trên nền chùa cũ, bà con dân làng Văn Xá đều trầm trồ khen ngợi ngôi chùa mới. Chỉ có điều những người già trong làng như bà cụ Vân lại thấy ngôi chùa mới không còn gần gũi như ngôi chùa làng ngày trước, đã vậy sư thầy còn tậu cả hai con sư tử đá đặt ngay bên ngoài cổng chùa, khiến thoạt nhìn, người ta lại tưởng là phủ vương gia bên Tàu.
Hôm khánh thành chùa mới, quan khách trên tỉnh, ở huyện cùng các lãnh đạo xã đều đến dự, gần một ngàn mâm cỗ chay được sửa soạn phục vụ khách thập phương suốt một tuần sau đó.
Xây chùa mới xong, sư thầy Đàm Thy cũng tậu luôn một con xe dream mới tinh, bà con trong làng ngắm nhìn sư trụ trì chạy xe dream từ đường làng ra quốc lộ 1A để về Hà Nội học hạ, ai cũng phải đứng lại trầm trồ khen ngợi.
Riêng việc làm sao trong một thời gian ngắn, sư trụ trì đã huy động được số tiền lớn để xây chùa vẫn còn là một ẩn số.
***
Cô Phương lặc lè chở một bao tải đồ nhựa phế thải đằng sau xe đạp, hôm nay dù bán hết hai sọt rau từ sớm nhưng cô vẫn đạp xe ra bãi rác để nhặt nhạnh đồ đồng nát suốt từ trưa đến lúc chiều tối.
Trời mùa đông nhanh tối , chưa đến sáu giờ mọi nhà đã lên đèn rồi, đẩy cửa bước vào nhà thấy hai bà cháu đang ngồi chơi với nhau, cô Phương ngạc nhiên khi thấy nhà yên tĩnh quá bèn hỏi bà cụ Vân:
- Mấy đứa trẻ chạy đâu rồi mẹ?
Nghe con dâu nói vậy bà cụ Vân hốt hoảng:
- Thôi chết rồi, cả ba đứa đi chơi từ trưa, mẹ cũng quên không đi gọi chúng nó về, nói xong bà cụ Vân ra ngõ réo gọi ba đứa Ngô, Khoai, Sắn về nhà ngay kẻo ăn đòn.
Réo gọi không thấy tăm hơi chúng đâu, bà cụ Vân cùng cô Phương vội đi tìm lũ trẻ khắp làng trên xóm dưới, vào cả nhà mấy đứa trẻ học cùng lớp cũng không thấy.
Đến hơn chín giờ tối, bà cụ Vân thật sự hoảng loạn, bà vừa khóc vừa chạy chân đất đi khắp làng để tìm các cháu mặc cho mái tóc bạc như cước xổ tung.
Từ ngoài hồ cá, nghe tin ba đứa con mất tích, Linh rỗ chạy ngay về đi tìm con cùng mọi người.
Lần đầu tiên kể từ thời chiến tranh, chiếc kẻng của HTX hay dùng để báo động mỗi khi có máy bay Mỹ lại vang lên từng hồi, không ai bảo ai gần như ngay lập tức, cả làng chia nhau đi tìm lũ trẻ, tất cả mọi ngõ ngách, tại các bụi cây, hay những đống rơm trong làng đều được mọi người lục tung để tìm kiếm.
Khắp mọi nơi trong làng, đâu đâu cũng loang loáng ánh đèn pin, tiếng gọi tên mấy đứa trẻ vang lên. Ở ngoài cánh đồng và tất cả mọi ao hồ, kênh mương tưới tiêu nội đồng đều rực sáng bởi những ngọn đuốc được đốt cháy để soi tìm, nhiều người cầm cả sào tre để khoắng xuống ao hồ tìm kiếm.
Trong khi mọi nỗ lực của dân làng tưởng chừng rơi vào bế tắc, bỗng có tiếng kêu thất thanh từ phía ngôi chùa mới xây:
- Đây rồi, đây rồi…
Trên bầu trời đen kịt, vụt lóe lên ba vệt sáng của sao đổi ngôi.
10
Người ta nói mùa xuân là mùa của lễ hội quả không sai, trong tiết trời se se lạnh của đầu năm, làng Văn Xá tổ chức hội làng theo truyền thống trong ba ngày 25, 26 và 27 tháng Giêng. Khắp đường làng, ngõ xóm luôn chật kín người đi lại như mắc cửi, đây cũng là thời gian để những người con làm ăn xa quê về gặp mặt anh em họ mạc, du khách thập phương nghe tiếng lễ hội cũng tìm về.
Vào dịp này, hầu như nhà nào trong làng cũng làm cỗ đón khách quen về dự hội làng và ghé chơi. Tiếng chặt thịt rồi mùi xào nấu thức ăn thơm phức bay khắp nơi.
Trái ngược với không khí lễ hội rộn ràng ở sân đình, chùa Văn Lâm dù mở rộng cửa đón khách thập phương từ sớm nhưng vẫn ít người lui tới. Từ khi chùa xây mới khang trang hơn trước, nhiều người trong làng lại cảm thấy nó xa cách và lạnh lẽo không còn được như xưa, đặc biệt nhìn hai con sư tử đá ngồi chồm hổm ngoài cổng chùa đã khiến không ít người mất cảm tình. Sư thầy Đàm Thy ngồi một mình trong không gian tĩnh lặng tại gian chính điện, chốc chốc tiếng trống từ xa vọng lại khiến sư thầy không nén nổi tiếng thở dài.
Từ sân đình chốc chốc lại vang lên tiếng trống ngũ liên như giục giã mời gọi, các đám vật, chơi cờ người và nhiều trò chơi dân gian luôn chật kín người hò reo và cổ vũ. Bên cạnh các trò giải trí lành mạnh vẫn không thế thiếu các sới bạc diễn ra công khai nhân dịp lễ hội để các con bạc khát nước sát phạt nhau.
Linh rỗ ngồi với đám xóc đĩa thâu đêm suốt sáng, nhìn tóc tai mặt mũi bơ phờ, còn đôi mắt như mất hết nhuệ khí vậy.
Chỉ trong hai ngày và một đêm mà y đã nướng sạch toàn bộ số tiền ma chay phúng viếng, tiền của các nhà hảo tâm, các ban ngành đoàn thể quyên góp được chuyển tới khi đến thăm hỏi gia đình y năm ngoái.
***
Việc cả ba anh em thằng Ngô, Khoai, Sắn rủ nhau lẻn vào chùa để hái trộm hoa sen rồi chẳng may trượt chân xuống hồ nước đã dẫn đến vụ đuối nước thương tâm và kinh động khắp cả làng. Hồ của chùa vốn là hồ đấu, khi xưa những người thợ đấu đã moi đất đắp nền chùa cho cao ráo, việc tôn tạo thời đó đã để lại một hồ rộng và rất sâu, chỗ sâu nhất cũng phải hơn 15 mét.
Bình thường, ngoài việc thả rau muống, sư thầy còn thả sen để tạo cảnh quan và cũng có thêm thu nhập từ nguồn bán hoa sen cho cánh mua buôn, lá sen để bán cho mấy bà chuyên bán xôi và gói cốm. Dù thằng Khoai đã biết bơi từ bé, nhưng trong cơn hoảng loạn nên mấy đứa trẻ đã tóm dính vào nhau để rồi cùng chìm nghỉm xuống lòng hồ.
Đêm hôm đó khi mọi người phát hiện ra mấy đôi dép trẻ con ngay mép hồ, mấy thanh niên lực lưỡng và giỏi bơi lặn đã nhảy xuống hì hụp mò vớt để mang mấy đứa trẻ lên bờ. Bà cụ Vân đã ngất ngay tại sân chùa khi vừa nhìn thấy mấy đứa cháu được vớt từ dưới hồ nước lên.
Lễ bắc cầu để dẫn vong đã được tổ chức sau đó một ngày, nhìn ba dải lụa trắng căng từ mép hồ lên bàn thờ mới lập khiến nhiều người không khỏi ngậm ngùi xót xa.
Nhà chùa cũng đứng ra tổ chức lễ cầu siêu cho các cháu bé, sư thầy đã an ủi bà cụ Vân cùng Linh rỗ:
- Đời vốn là cõi tạm, ba đứa trẻ chỉ ghé qua nơi này, khi hết duyên chúng sẽ lại tiếp tục hành trình luân hồi chuyển kiếp, đầu thai sang kiếp khác mà thôi.
Bà cụ Vân khẽ hỏi sư thầy:
- Có phải tôi vụng đường tu quá không, tại sao tai ương lại đổ hết lên đầu lũ trẻ, hỏi xong bà cụ Vân lại nấc lên từng cơn vì quá đau xót trước mất mát to lớn.
Nghe bà Vân hỏi vậy, sư thầy chỉ biết chắp tay niệm Phật: A Di Đà Phật.
Đứng nghe toàn bộ câu chuyện, có lẽ mình Linh rỗ thấu hiểu vấn đề, y thoáng rùng mình khi nghĩ đến những việc mình đã làm. Tuy nhiên điều an ủi duy nhất khiến y cảm thấy như được bù đắp phần nào, đó là y đã nhận được sự ủng hộ bằng tiền đến từ nhiều nhà hảo tâm trong cả nước sau khi báo chí đưa tin.
***
Lão Ngoãn ngồi bó gối trong góc nhà, chốc chốc lại hỏi vợ:
- Bây giờ là mấy giờ rồi nhỉ?
Quá quen với những câu hỏi kiểu đó, bà Liên vừa làm việc nhà vừa trả lời chồng:
- Mới có 10 giờ sáng, vẫn sớm lắm chưa đến giờ ăn đâu, ông nhớ đi tè nếu mót nhé, tôi mà phải lau nhà lần nữa, ông chết với tôi.
Nghe vợ dặn thế, lão Ngoãn cau mặt nói:
- Bà làm như tôi giống đứa trẻ lên ba không bằng. Nói vậy thôi nhưng lão Ngoãn cũng đứng dậy mò xuống bếp để đi tiểu. Tuy nhiên thay vì đi vào nhà tắm, lão Ngoãn lại vạch quần và đái ngay vào chiếc chậu nhôm to đang ngâm gạo nếp của bà vợ. Chỗ gạo này dành để chuẩn bị đồ xôi mang ra đình làng cúng Thành Hoàng và tiếp khách quý theo lời dặn của cô con gái.
Bà Liên biết dặn chồng nhiều không thừa, từ sau dạo lão Ngoãn phát điên vì suốt ngày nhìn thấy ma quỷ hiện hình và âm binh đến đòi nợ, bà Liên đã đưa chồng vào Bệnh viện Tâm thần TW ở ngay huyện để thăm khám.
Sau 30 ngày nằm viện, lão Ngoãn được xuất viện về nhà điều trị ngoại trú với kết luận của bác sĩ: Bệnh nhân bị “tâm thần phân liệt thể hoang tưởng”.
Nhiều người trong làng cho rằng lão bị loạn thần do rượu, người khác lại cho rằng lão bị gánh nghiệp do sát sinh nhiều quá.
Con bé Mộc Miên sau khi ra trường được phân công về dạy học ở một trường tiểu học mãi tận huyện bên, do cách nhà cũng xa nên Mộc Miên đã ở nhà tập thể dành cho các giáo viên, cứ cuối tuần Mộc Miên lại đạp xe về thăm bố mẹ.
Hôm nay nhân dịp có hội làng, Mộc Miên đã mời một đồng nghiệp nam và cũng là người yêu của cô chính thức về ra mắt bố mẹ.
Nhìn thấy con rể tương lai, tự dưng lão Ngoãn lại cảm thấy phấn chấn lạ thường, bệnh hoang tưởng của lão dường như biến mất. Trong bữa cơm thân mật, chàng con rể tương lai và ông bố vợ nói chuyện đã có vẻ tâm đầu ý hợp.
Vì hạnh phúc của con, dù thèm rượu đến phát điên nhưng lão Ngoãn cũng chỉ nhấp môi chút rượu nhằm giữ cho đầu óc tỉnh táo để cùng con rể tương lai đàm đạo chuyện nhân tình thế thái.
Suốt bữa ăn, anh chàng người yêu luôn miệng khen mẹ vợ tương lai nấu ăn ngon, đặc biệt là món xôi.
Vừa ăn anh chàng vừa quay ra hỏi bà Liên:
- Xôi nhà bác dẻo và ngon vô cùng, đặc biệt có vị rất lạ… Nghe con rể tương lai nói vậy, lão Ngoãn chỉ cười khùng khục trong cổ họng.
***
Tiếng hát chèo được phát trên hệ thống loa truyền thanh của xã khiến bà cụ Vân mở mắt và lắng tai nghe, sau việc ba đứa cháu đuối nước năm ngoái, bà cụ đã ốm liệt giường liệt chiếu, nhiều lúc mọi người tưởng bà cụ sẽ không qua được mùa đông giá buốt hồi trước tết, vậy mà hôm nay bà lại tỉnh táo lạ thường, bà gọi con dâu lại và hỏi:
- Mẹ nghe có tiếng trống hội, lại có cả tiếng hát chèo, hôm nay làng vào đám phải không con.
Nghe mẹ chồng hỏi vậy, cô Phương mừng rỡ vì bà cụ Vân ốm mê man rất lâu rồi nay tỉnh táo trở lại, cô khoe với mẹ chồng:
- Vâng đúng rồi mẹ, theo phong tục nên con cũng đồ xôi và bày mâm lễ để chút mang ra đình dâng lên đức Thành Hoàng làng mình.
Bà cụ Vân nhờ con dâu đỡ ngồi dậy, sau khi chải tóc cẩn thận, bà ngỏ ý muốn ăn một chút gì đó, suốt mấy tháng qua hầu như bà chỉ húp được cháo loãng.
Ăn xong bát miến được thái nhỏ, bà nói với con dâu:
- Ngày xưa còn khỏe, hầu như năm nào mẹ cũng vào đội tế lễ của làng, năm nay yếu quá đành ngồi nhà vái vọng vậy, thôi con mau ra đình dâng lễ kẻo muộn.
Cô Phương vâng lời mẹ chồng, cô đội mâm lễ ra đình dâng lên Thành Hoàng.
Bà cụ Vân lấy chiếc áo bông gấm mặc vào người, đây là chiếc áo bà chỉ diện mỗi khi có dịp đặc biệt quan trọng, sau khi vấn lại tóc cẩn thận, bà Vân hướng về bàn thờ Phật lầm rầm khấn vái và ngồi tọa thiền để thành tâm hướng Phật.
Cô Phương mang túi lộc thánh về sau khi dâng lễ ở đình làng, lúc đẩy cửa bước vào nhà cô nói với mẹ chồng:
- Năm nay hội làng đông vui, các cụ bà trong ban tế lễ múa rất đẹp, mọi người có hỏi thăm và gửi lộc thánh về cho mẹ…. Không thấy bà cụ Vân trả lời, cô Phương bước lại và sững sờ, mẹ chồng cô đã cưỡi hạc về cõi Tây Phương Cực Lạc.
Sau đám tang, dù Linh rỗ không muốn nhưng cô Phương vẫn quyết thay đổi, cô nói với chồng:
- Nếu ở mãi trong làng sẽ không khá lên được, anh lại tiếp tục sa vào cờ bạc rượu chè, nên em quyết định bỏ nghề bán rau chuyển lên thành phố.
- Bỏ nghề bán rau thì tính làm gì bây giờ, Linh rỗ ngạc nhiên hỏi lại vợ:
Cô Phương nhẹ nhàng phân tích cho chồng hiểu:
- Em đã hỏi thuê một căn nhà để ở trọ ngay khu Hoàng Cầu, hàng ngày em đi thu mua đồ đồng nát, anh có thể theo mấy người làng ra ngồi ngay ngã tư Giảng Võ chờ việc, hoặc đi thu mua đồ điện cũ hỏng, tùy anh chọn, con bé Thóc sẽ cho đi gửi nhà trẻ.
Nghe vợ nói vậy, Linh rỗ ngồi thừ người ra còn miệng thì lẩm bẩm:
- Chẳng nhẽ lại phải bán xới khỏi cái làng này thật sao. Trời còn nhá nhem tối, sau khi thắp một tuần hương lên bàn thờ gia tiên, hai vợ chồng Linh rỗ cùng con bé Thóc vẫn đang ngủ say trên tay mẹ đã lặng lẽ rời khỏi làng.
Bước chân nhẹ nhàng nhưng dứt khoát của Phương hòa nhịp với bước chân ngập ngừng của Linh rỗ, y vừa đi vừa ngoái đầu lại với vẻ đầy tiếc nuối…
***
Tại một ngôi chùa nhỏ dưới chân núi Tam Đảo, vợ chồng bà Thanh và lão My chột đã có mặt từ rất sớm với tâm trạng hồi hộp. Sau nhiều lần thuyết phục con gái không thành, hôm nay cả hai vợ chồng đã bắt xe khách lên Vĩnh Yên, rồi từ thị xã Vĩnh Yên lại đi thêm gần hai mươi cây số để kịp có mặt trong buổi lễ cô bé Nhài xuống tóc đi tu.
Mặc dù chăm ngoan học giỏi, năm vừa rồi Nhài đã trúng tuyển vào trường Đại học Nông nghiệp, nhưng thay vì làm thủ tục nhập học như các bạn, cô bé Nhài đã quyết định nương nhờ cửa Phật. Có lẽ cả tuổi thơ cô bé Nhài đã chứng kiến những việc làm vô đạo của cha và các anh trai, nên việc đi tu đã nằm trong tiềm thức Nhài từ sớm rồi.
Trong lúc đợi buổi lễ chuẩn bị, lão My chột khẽ nói với vợ:
- Thôi nó xuất gia cũng tốt, biết đâu sau này tôi và bà lại được nhờ, tôi nghe nói các sư bây giờ cũng nhanh giàu lắm. Lão My chột có lẽ định lảm nhảm thêm vài câu nữa nếu không gặp phải ánh mắt sắc lạnh của bà vợ.
Bà Thanh khẽ trả lời lão chồng:
- Nghiệp chướng do mình tạo ra, ông tạo nghiệp chưa đủ hay sao mà bây giờ lại mắc thêm khẩu nghiệp.
Hai vợ chồng lão My chột im bặt khi thấy Nhài cùng mấy người sẽ xuống tóc đi tu bước ra, họ quỳ lạy trước bàn thờ Phật sau đó quỳ trước sư trụ trì.
Giây phút thiêng liêng, xúc động cũng đến khi nghi lễ xuống tóc được tiến hành. Mỗi lọn tóc rơi xuống, cũng là lúc phiền não lùi xa, tiếng kinh kệ vang lên:
“Cắt mái tóc xanh gửi lại đời,
Nương nhờ cửa Phật quyết lòng tu.
Cho dù ngang trái không quản ngại,
Cực khổ gian nan trí chẳng sờn.
Ngày đêm sớm tối nương Kinh kệ,
Những mong liễu ngộ thoát tử sinh.”
Sau khi xuống tóc, Nhài và mấy đồng đạo quỳ xuống nghe sư phụ ban pháp danh và dặn dò về con đường tu tập. Sau buổi lễ, cô tiến về phía cha mẹ mình để quỳ lạy cảm ơn đấng sinh thành, bà Thanh lấy vạt áo lau vội những dòng nước mắt trong khi lão My chột ngồi như hóa đá.
Trên đường trở về làng sau buổi lễ, ngồi trên xe ô tô lão My chột luôn miệng lẩm bẩm như tự nói với mình:
- Thôi thế cũng tốt... Thôi thế cũng tốt rồi.