Sau khi từ bỏ năng lượng tiêu cực, tu thiền định mới có thể đạt đến giải thoát
Mọi người đều tu tập thiền định, vậy phương pháp tu thiền nào được Thế Tôn tán thán?
Tên đầy đủ tiếng Pāli của kinh này là Gopaka-moggallāna Sutta. Gopaka nghĩa là người bảo vệ hoặc người giữ gìn, moggallāna tiếng Hán cổ dịch âm là Mục Kiền Liên; trong Kinh Trung A Hàm dịch là Kinh Cù Mặc Mục Kiền Liên hoặc có thể gọi là Thủ Vệ Mục Kiền Liên. Trong kinh, Như Lai ca ngợi phương pháp tu sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền lìa dục, lìa các pháp ác, bất thiện.
Đại Kinh Sakuludāyi đã thảo luận ở trên ghi chép rằng: khi Đức Phật đính chính hiểu lầm của Udayi về việc tại sao các đệ tử lại đặc biệt cung kính tôn trọng mình như vậy, đích thân Đức Phật đã nói ra nguyên nhân tại sao Ngài được các đệ tử tôn trọng.
Một trong năm nguyên nhân này là Đức Phật có thể truyền dạy các phương pháp thiền, nhưng liệu Đức Phật có thực sự ca ngợi tất cả các phương pháp thiền không? Trên con đường giải thoát của Phật giáo, những phương pháp thiền này có nhất định phải tu tập không?
Theo Kinh Gopaka-moggallāna, sau khi Đức Phật nhập Niết bàn không lâu, đã có vị Bà la môn đề cập đến vấn đề này với Tôn giả A Nan. Bà la môn Vassakāra, bậc đại thần của vương quốc Magadha, nói rằng: Thế Tôn là một vị tu thiền, thích tu thiền, không những ca ngợi mà còn có thể truyền dạy các phương pháp thiền. Tôn giả A Nan nghe vậy liền lập tức đính chính không phải Thế Tôn tán thán tất cả các phương pháp thiền.
Tôn giả A Nan nói rằng, nếu có người tu thiền nhưng không xả bỏ tham (kāma-rāga), nhuế hại (byāpāda), lười biếng trễ nải (thīna-middha), phiền não, hối hận (uddhacca-kukkucca), nghi hoặc (vicikicchā), Thế Tôn không tán thán phương pháp tu thiền này.
Về việc Thế Tôn ca ngợi tứ thiền, chúng ta cũng có thể tham khảo Kinh Subha Sutta1. Sau khi Thế Tôn nhập diệt không bao lâu, Subha hỏi Tôn giả A Nan các pháp Thế Tôn tán thán là những pháp nào? Tôn giả A Nan trả lời là Giới, Định, Tuệ. Trong đó, Định là chỉ tứ thiền.
1 Trường Nikāya, Kinh số 10, Kinh Tu Bà, D.I.207
Phương pháp thiền Thế Tôn tán thán là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, lìa các dục và các pháp ác, bất thiện. Điều đó cũng có nghĩa là phương pháp thiền của đạo khác không chú trọng việc xả ly và đoạn trừ năm chướng ngại, còn Đức Phật thì nhấn mạnh việc xả ly dục và các pháp ác, bất thiện, đặc biệt là việc đoạn trừ năm loại chướng ngại. Vì vậy, trong các kinh điển, chỗ nào có nhắc đến việc nhập môn thực hành tu tập thiền thì nhất định sẽ đặt việc đoạn trừ năm chướng ngại lên hàng đầu.
Ngoài ra, kinh này cũng đồng thời ghi chép việc Tôn giả A Nan giải thích rằng: nếu một vị Tỳ kheo có đủ mười pháp thì vị ấy xứng đáng được người khác tôn trọng, kính ngưỡng, kính lễ, cũng có thể khiến người khác sinh lòng kính tín. Trong mười pháp đó có tứ thiền và sáu tri thức trực tiếp, nhưng không nhắc đến tứ xứ (được ngoại đạo thông hiểu và tán dương) và không đề cập đến tưởng thọ diệt định mà sau này được xem là có quan hệ mật thiết với Niết bàn. Mười pháp đó là:
1. Có giới hạnh: An trú trong giới pháp, đối với những lỗi nhỏ mình đã phạm phải cũng sinh lòng sợ hãi.
2. Đa văn: Lắng nghe, học tập, tin tưởng vào những pháp thiện có ý nghĩa từ đầu cho đến cuối cùng, câu cú đều viên mãn, đầy đủ.
3. Tri túc: Thường biết đủ đối với áo cà sa, đồ ăn khất thực, chỗ ở và thuốc men.
4. Dễ dàng chứng đắc tứ thiền.
5~10. Chứng đắc sáu tri thức trực tiếp.
Trong kinh này, ta biết được các điểm khác biệt giữa phương pháp thiền của Đức Phật và phương pháp thiền của các đạo khác. Xét từ việc có xả ly năm chướng ngại hay không, ta cũng thấy có điểm bất đồng. Nhờ Tiểu Kinh Sakuludāyi đã nêu trên, chúng ta có thể suy luận rằng tứ thiền Đức Phật truyền dạy, sự hiểu biết về bản chất cũng như việc vận dụng đều rất khác với ngoại đạo.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Gopakamoggallāna, M.III.7~15, Majjhima Nikāya no.108 Gopakamog-gallāna Sutta.
2. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Kinh Cù Mặc Mục Kiền Liên, T1.653c~656a.
3. Bản Hán dịch, Pháp Cự dịch, Phật Thuyết Số Kinh, T1.875a~876a.
4. Bản dịch Tiếng Anh, With Gopaka Moggallāna, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 880~886, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
5. Phần kinh văn có thể tham khảo trong bản dịch tiếng Trung hiện đại, Gần Gũi Đức Phật Thích Ca, trang 415~419, Tỳ kheo Kế Trí, Tỳ kheo Ñāṇamoli trước tác; Thích Kiến Đế, Mâu Chí Kinh dịch, Đài Bắc: Tượng Thụ Lâm, 2006.
Hiểu biết nhiều hơn
Kinh này nói đến sự khác biệt giữa Như Lai và các đệ tử. Phật giáo Nam truyền vẫn luôn kiên trì quan điểm không có sự khác biệt giữa A la hán và Phật. Họ cho rằng sự khác biệt chỉ là Đức Phật là thầy, còn A la hán là trò. Những gì thầy tu tập, chứng đắc, truyền dạy thì học trò cũng tu tập và chứng đắc như vậy. Vì thế, Đức Phật và A la hán không có sự khác biệt về chất lượng chứng đắc. Đoạn kinh văn trên là một chứng cứ khá quan trọng cho luận điểm này.
Tôn giả A Nan nói rằng:
Như Lai là bậc làm cho đạo chưa từng xuất hiện được xuất hiện, làm cho đạo chưa từng sinh khởi được sinh khởi, làm cho đạo chưa từng tuyên thuyết được tuyên thuyết.
Như Lai là bậc trí giả của đạo này, bậc khai sinh ra đạo này, bậc lão luyện về đạo này.
Các đệ tử nên nghe đạo này, tùy thuận tu hành theo đạo này.
Ngoài ra, còn một lời giáo huấn hết sức thịnh hành trong Phật giáo cũng xuất hiện ở kinh này. Liệu Thế Tôn có từng chỉ định, sau khi Như Lai nhập Bát Niết Bàn, sẽ do vị Tỳ kheo nào làm chỗ nương tựa cho các Tỳ kheo khác chăng? Thế Tôn dạy: từ nay về sau các đệ tử hãy lấy pháp làm thầy, làm chỗ nương tựa (dhamma-paṭisaraṇā).