• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải thoát
  3. Trang 21

Chương mười tám

Sau sự cố ở nhà máy điện, khả năng kiểm soát sự tỉnh táo của Gibson càng ngày càng xói mòn. Càng ngày, sự cảnh giác của anh càng rơi vào trạng thái hoang tưởng. Mỗi một chiếc xe đều có thể là một cái đuôi bám theo, mỗi một người lạ nhìn vào anh đều giống như một mật vụ. Những khuôn mặt lạ lẫm xuất hiện ở Nhà hàng Nighthawk đều trông có vẻ khả nghi. Gibson biết rằng mình ngày càng trở nên phi lý nhưng anh không thể kiểm soát nổi. Nó choán lấy tâm trí anh và anh cảm nhận rõ mình đang trở nên hoang mang. Nếu Thanh tra Bachmann quay lại để nói chuyện thân mật lần nữa, anh không chắc mình có thể xử lý được hay không.

Sau thời gian dài vắng mặt, Duke Vaughn có vẻ quyết tâm bù đắp lại thời gian đã mất. Ông ấy không rời khỏi Gibson một phút nào. Một sự hiện diện thường trực, rõ ràng, Duke chẳng cho con trai mình một giây phút yên thân nào cả. Ở chỗ làm. Ở rạp chiếu phim. Ngày càng nói nhiều hơn, cho đến khi Gibson chẳng thể tiếp tục câu chuyện được nữa thì thôi. Anh không thể nói chuyện được với ai mà không bị Duke xen ngang vào. Ban đêm, ông ta đứng nhìn Gibson, đợi để tiếp tục nói đúng chỗ mà ông ta đã dừng lại khi Gibson mở mắt ra vào buổi sáng.

Không một điều gì Gibson làm có thể giúp anh yên thân.

Anh cố gắng điều đình với Duke. Khi điều đó vô dụng, anh cầu xin sự thương xót của hồn ma người cha. Rồi thì anh dùng đến cách quát trả, điều mà chỉ khiến anh cảm thấy mình như một kẻ điên. Cuối cùng, anh dùng cách giữ im lặng như ở trong một tu viện vậy, cố gắng nhưng cũng không thể phớt lờ người cha. Làm sao mà anh có thể bắt sóng với một giọng nói phát ra và kết thúc ngay chính trong đầu anh được cơ chứ? Giống như thể có một bàn tay nào đó đang cố gắng thao túng cuộc sống của anh vậy.

Quả đúng là như vậy thật.

Sau nhiều ngày cố gắng tìm ra một giải pháp, Gibson vẫn chẳng thể nghĩ ra được cái gì để giải quyết tình huống của Ogden. Đến giờ, anh đã có bốn lựa chọn mơ hồ và không thỏa đáng – phóng thích Ogden, giết Ogden, tự sát, hoặc kết hợp của tất cả những cái đó. Một buổi sáng, sau một đêm không ngủ trên sàn nhà, giải pháp thứ năm đã đến. Anh có thể bỏ chạy và mách nước cho người của Ogden sau khi đã hoàn toàn mất dấu. Nhưng sẽ chẳng có nơi nào như thế, không thể có được nơi nào cả. Bin Laden đã chứng tỏ điều đó. Nếu chúng muốn tóm cổ anh bằng mọi giá, chúng có thừa khả năng tìm được. Và Gibson nghĩ rằng chúng thực sự muốn tóm anh. Sẽ là một tiền đề nguy hiểm cho Langley khi cho phép một kẻ bắt cóc người của chúng được tự do.

Gibson lượn một vòng quanh căn hộ bé xíu của mình và kiểm tra xem các miếng băng dính Scotch trên cửa sổ và cửa chính có bị đụng vào hay không. Tất cả những hành động đó đều là một phần trong nghi thức hoang tưởng của anh vào buổi sáng. Một vài người uống cà phê còn Gibson thì kiểm tra xem CIA có đột nhập vào nhà trong lúc anh ngủ hay không. Anh thực sự nên nghĩ đến chuyện viết cho những người sản xuất băng dính một lời cảm ơn. Có lẽ họ chưa bao giờ tưởng tượng ra được rằng sản phẩm của họ lại được dùng vào một hệ thống an ninh tự chế kiểu như vậy.

Anh nhìn qua tấm rèm hoa mỏng trang trí cửa sổ nhỏ ở cửa trước của mình. Trước khi đi tắm, anh thích kiểm tra đường phố. Nó giúp anh có đủ bình tĩnh để sẵn sàng cho công việc. Một chiếc SUV màu đen với cửa sổ có màu đang lượn lờ chầm chậm ở lề đường phía sau chiếc Yukon của anh ta.

“Con đang làm gì vậy?” Duke hỏi. “Có ai đó ngoài kia.”

“Ồ, phải rồi, đó là lũ CIA.”

“Sao cha không nói gì cả?” Gibson nghe rõ nỗi hoảng sợ trong giọng nói của mình.

“Gì cơ, chẳng phải chúng ta đang cùng một phe sao?”

“Chúng muốn gì chứ?”

“Ta đã bảo con đừng có quay trở lại cái nhà máy điện đó.” “Không, thực sự cha đã không nói.” Gibson nói.

“Hừ, chẳng phải ta đã ngầm nói vậy sao.”

Từ góc nhìn này, Gibson không thấy được cái biển xe, nhưng cái kiểu cách ăn mặc lạ kỳ kia đích thị là của bọn chính quyền rồi. Mặc dù trông thật vô lý khi chúng ngồi tơ hơ ở chỗ lộ thiên như thế. Gibson tính rằng hoặc là bọn chúng đang theo dõi anh hoặc đến để bắt anh. Tại sao cái tay bọn chúng lại để như vậy chứ?

Duke nghiêng người ngó xem sao. “Trò xả nước.” “Là sao?”

“Bọn chúng muốn con tự phá vỡ vỏ bọc của mình. Chúng đang muốn dọa con đó.”

“Hừm, chúng làm được rồi đấy.”

“Bình tĩnh, nhóc; nếu chúng có được thứ gì đó, chúng đã mang cả cái xe tăng ủi nát cửa nhà con rồi.”

Đó đúng là sự thật. “Vậy con phải làm gì đây?”

“Ta không biết… chui lủi ở đây đến giờ có vẻ vẫn là giải pháp tốt.”

Gibson bất chợt thấy dễ bị tổn thương khi đứng đó với đôi tất và chiếc quần đùi đang mặc. Phớt lờ Duke, anh đi lấy quần áo, quyết định rằng hành động tốt nhất là mặc kệ bọn chúng.

Nếu chúng muốn tóm anh, chúng sẽ tóm được. Anh sẽ chẳng thể làm gì để cưỡng lại chuyện đó. Mặt khác, anh vẫn cần phải tuân thủ theo đúng kế hoạch. Anh tự nhắc nhở bản thân rằng mình đã quá hoảng sợ khi thấy cớm bám sau đuôi. Đừng phản ứng thái quá. Có lẽ chẳng có chuyện gì cả, chỉ là một người cha cảnh sát nào đó đang đợi để đón đứa con tan trường mà thôi.

“Ồ, ta chắc chắn nó đúng là như vậy đấy.” Duke nói. Gibson khóa cửa và đi ra chỗ để xe. Duke đi theo phía sau, chế nhạo anh bằng những cảnh báo hoang đường về những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Khi cửa trước của chiếc SUV màu đen mở ra, Duke cười khục khặc. Hai người đàn ông mặc com-lê bước ra chặn đường anh. Gibson đảo mắt khắp phố xem có bóng dáng đội hỗ trợ của chúng hay không, cố gắng cưỡng lại ý định bỏ chạy. Thay vì bỏ chạy, anh chôn chân tại chỗ và đợi chúng đến.

Gã lái xe, già hơn tên kia, là một gã da trắng với cặp mắt của con chó bull và cái miệng thườn thượt. Những mạch máu bị tắc nghẽn dồn lên phía trên chỏm mũi như bản đồ khu rừng Amazon. Anh đi vòng qua xe và tạo thành gọng kìm với gã cộng sự, một gã Sikh cao lớn, đội một chiếc khăn xếp màu đen xiên xuống đuôi lông mày và bịt kín hai tai. Không giống gã kia, gã này có vẻ khỏe mạnh. Bộ râu tươi tốt đen nhánh ôm trọn khuôn mặt tròn bầu như đế vương của hắn và ria mép của hắn được cắt tỉa một cách cẩn thận. Gã mắt chó bull giơ tay lên, nửa như chào nửa như cảnh cáo.

“Anh Vaugh, nói chuyện vài câu được không?”

“Tôi đang vội đi làm.” Gibson không biết tại sao mình vẫn chưa bị đè mặt xuống đường và tay chưa bị còng nhưng anh sẽ chơi đến cùng.

“Công việc chén bát thế nào?” Gã mắt chó bull hỏi.

Tên cộng sự trẻ tuổi nhìn chằm chằm vào khoảng không giữa hai người, mỉm cười như thể vừa nhớ ra một câu thoại hài hước trong bộ phim mà hắn chỉ vừa mới xem tối qua. Nhưng cử chỉ đó cũng chẳng làm cho Gibson cảm thấy thân thiện hơn.

“Các anh muốn gì?”

“Chúng tôi muốn anh đi một chuyến với chúng tôi.” “Anh có lệnh của tòa án chứ?”

“Chúng tôi không phải người của bên thực thi pháp luật, anh Vaughn ạ.”

Gibson không biết có nên thở phào hay không. Cái miệng của tên cộng sự kia biến thành một điệu cười toe toét vô hồn. Hắn ta sở hữu hàm răng trắng nhất Gibson từng thấy trong đời.

“Vậy các anh là ai?” Gibson hỏi.

“Tên tôi là Cools.” Tên mắt chó bull nói. “Còn đây là ngài Sidhu.”

“Cools là cái tên kiểu quái gì vậy?”

Cools nháy mắt. “Người Bỉ. Vậy anh sẽ trả lời thế nào nhỉ?”

“Tôi sẽ nói tôi sắp muộn giờ làm rồi.” Gibson nói.

“Đi một chuyến đi.” Tên già hơn nói, như thể đang điều đình với một đứa trẻ cứng đầu vậy. “Chúng tôi sẽ mang anh trở lại sau khi xong chuyện. Bát đũa bẩn thì vẫn cứ bẩn thôi.”

“Đi đâu?”

“Vào trong thành phố gặp một người bạn cũ.” “Ai?” Gibson hỏi.

“Calista Dauplaise.”

Thật đáng đời anh khi cứ liên tục băn khoăn đến chuyện tình huống hiện tại của mình có thể trở nên tồi tệ hơn như thế nào. Lần đầu tiên kể từ lúc ở nhà máy điện, Duke Vaughn ngừng nói. Và cũng lần đầu tiên kể từ lúc ở nhà máy điện, cái đầu của Gibson đủ tỉnh táo để suy nghĩ mà không bị đau.

“Ồ, người bạn cũ đó.” Gibson nói.

“Câu trả lời của anh là gì? Bà ấy chỉ muốn nắm được tình hình thôi.”

Gibson khá chắc chắn rằng nắm tình hình là thứ cuối cùng mà bà ta muốn biết. Nhưng bà ta muốn gì đó khác và đó là lý do vừa đủ để buộc anh phải đi một chuyến vào thành phố. Sau vụ Atlanta, họ đã có một thỏa thuận đình chiến khó chịu. Một cuộc đình chiến mà anh phải hối tiếc dù anh biết rằng đó là một quyết định thực dụng. Nó đã kéo dài được hai năm rưỡi, cho đến giây phút này. Điều một – tránh xa đường đi của kẻ kia. Nếu Calista mạo hiểm phá vỡ hiện trạng thì Gibson cần phải biết lý do tại sao. Bà ta sẽ không né tránh và anh thà để bà ta tìm đến hơn là phải tìm kiếm quanh co tốn thời gian. Anh đã làm được đúng như thế.

“Tôi có được lựa chọn không?” Gibson hỏi.

“Lựa chọn?” Cools hỏi. “Chắc chắn rồi. Anh được chọn giữa việc tự chui vào xe hoặc được chúng tôi nhét vào.”

“Các anh thực sự muốn để lại hiện trường ở ngay đây sao?”

“Sẽ chẳng có hiện trường nào cả.” Ngài Sidhu nói, cái miệng hắn ta há ra lần đầu tiên. Hắn ta mở cánh cửa sau của chiếc SUV ra. Gibson thấy không có lựa chọn nào khác là phải làm theo.

Calista Dauplaise sống trong một căn nhà kiểu Pháp được xây bởi cụ tổ bốn đời của nhà Dauplaise, Alexandre Dauplaise, ở thời kỳ hậu chiến của Cuộc chiến tranh 1812. Phu nhân của ông ấy, bà Sophie, sau khi từ Pháp tới đã làm lễ đặt tên cho ngôi nhà là Ngôi nhà Colline – Little Hill. Tọa lạc trên đỉnh đồi ở Georgetown, đó là căn nhà của một trong những dòng họ lâu đời nhất đã và đang sinh sống ở đây suốt ba thế kỷ nay. Tổ tiên của Calista đóng vai trò lịch sử nhất định trong quá trình vươn lên của quốc gia này với tư cách là những nhà chính trị, những vị tướng và những nhà ngoại giao. Vai trò đã bị suy mòn đi nhiều bất chấp việc Calista dồn mọi tâm sức để khôi phục vị thế của gia đình mình. Giá mà Duke Vaughn hiểu được thái độ bất chấp tất cả trong quyết tâm đó của bà ta thì hẳn cuộc đời ông ấy giờ đã khác đi nhiều. Khi kế hoạch bị Duke đe dọa, bà ta đã cử một tên quái vật tới lấy mạng ông ấy, dựng lên hiện trường như một vụ tự sát trong tầng hầm của căn hộ gia đình.

Gibson mới chỉ mười lăm tuổi vào cái ngày anh rón rén đi xuống bậc thang tầng hầm và chứng kiến cảnh đôi chân cha mình treo lủng lẳng giữa phòng. Đúng một thập kỷ sau, Calista đã cử tên quái vật đó trở lại tìm Gibson khi anh can dự quá sâu vào vụ mất tích của Gấu. Một người đàn ông lạ, nhỏ con với đôi mắt trực chờ sẵn ở nhà, ẩn khuất trong bóng tối và giọng nói thiếu đi những nhiễm sắc thể cơ bản của con người. Gibson sờ lên vết sẹo trên cổ, nhớ lại âm thanh của chiếc ghế ngã xô xuống sàn và cái cách mà sợi dây thòng lọng siết vào cổ anh. Hẳn là anh cũng sẽ được chôn ngay cạnh cha mình nếu Jenn Charles và Dan Hendricks không đến cứu kịp.

Bất chấp tất cả những điều đó, khi thời khắc đến, Gibson đã phải làm hòa với Calista Dauplaise để bảo vệ con gái của Gấu. Đó quả là một thỏa thuận khó nuốt nhưng anh phải chấp nhận đứng về phía người sống thay vì người đã chết, lựa chọn bảo toàn tính mạng cho cô bé vô tội trước khi nghĩ đến việc trả thù cho cha mình. Anh sẽ không thay đổi quyết định đó nếu được chọn lại nhưng điều đó không có nghĩa là anh cảm thấy chấp nhận được chuyện đó một cách hoàn toàn. Cảm giác tội lỗi đó như một gánh nặng hình phạt đè lên người. Nó thổi bùng lên phiên bản độc ác của Duke, hồn ma đang ngồi cạnh anh ở ghế sau với ánh mắt sát nhân. Một phần trong Gibson ước rằng anh đã không quẳng khẩu súng đi lúc ở nhà máy điện; một phần khác thì lo lắng liệu điều gì sẽ xảy ra nếu khẩu súng còn ở đây.

“Chuyện đáng lẽ nên xảy ra từ ba năm trước.” Duke nói. Gibson ngả lưng ra sau và tự hỏi điều gì đã thôi thúc Calista phá vỡ thỏa thuận đình chiến và mời anh tới nhà của bà ta. Anh vẫn chưa nảy ra được ý nào cho câu hỏi đó khi họ đã đi qua cầu Arlington Memorial và Đài tưởng niệm Lincoln đang dần hiện lên chào đón họ. Họ vòng xuống Ohio Drive, con đường dẫn tới cao lộ I-66 trước khi họ thoát xuống đại lộ Pennsylvania ở phía Nam địa giới Georgetown. Đi qua Rock Creek, họ rẽ phải rồi mất hút về phía đỉnh đồi trung tâm Georgetown, nơi có những khu vực rối rắm như mê cung.

Chúng ta đến rồi đây, anh nghĩ. “Đến rồi.” Duke nói.

Một hàng rào sắt rèn màu đen có đỉnh là những ngọn giáo vàng dựng đứng ở bên phải. Qua những tán cây làm viền của khu đất, anh thấy căn nhà thấp thoáng ở xa xa, một tòa nhà kiểu Liên bang đối xứng hoàn hảo, oai nghiêm có chiều dài tương đương một dãy nhà. Nơi được một người đàn bà gọi là nhà đó gần đủ sức khiến Gibson liên tưởng đến Chủ nghĩa Cộng sản.

Hai gã bảo vệ mặc đồng phục dừng chiếc xe SUV ở cổng mới của tòa nhà. Cái cổng này đã được xây mới lại hoàn toàn kể từ lần cuối anh ở đây. Trước đây, cái cổng này vốn chỉ để trang trí, giờ thì cái cổng mới trông có vẻ có đủ khả năng chống đỡ cả một cuộc tấn công bằng xe bọc thép. Gibson đếm có khoảng hơn chục chiếc máy quay an ninh. Thứ nơi này còn thiếu chỉ là một con hào. Một thứ gì đó hay một kẻ nào đó đã mang đến cho Calista một nỗi sợ hãi vô hình như sợ Chúa trên cao. Anh chẳng thèm quan tâm đến điều đó.

Trên đỉnh của một con đường dốc, họ đi vòng quanh một đài phun nước án ngữ ở giữa lối xe vào. Những bậc thềm cong bằng đá thạch anh trắng dẫn tới một cánh cửa trước cao chót vót. Họ dừng ở dưới chân bậc thềm và Sidhu lại mở cửa sẵn cho anh một lần nữa. Viên quản gia đón họ ở cửa. Gibson vẫn nhớ ông ta từ cái ngày mà anh tới đây tìm Catherine, con gái của Gấu. Viên quản gia cũng nhớ ra anh.

“Xin chào, thưa ông. Thật vui được gặp lại ông. Ông có muốn dùng đồ uống hay không? Bia chứ nhỉ?”

“Trí nhớ tốt thật, Davis; nhưng hôm nay thì vẫn còn hơi sớm.”

“Vâng thưa ông, nếu ông đã một mực không muốn thì thôi vậy. Tôi có thể cất áo khoác giùm ông được không?”

Davis dẫn lối cho Gibson và hai người đồng nghiệp kia xuống một hành lang có trần nhà thật cao. Ở một bên hành lang, những cửa kính nhìn ra cái sân thượng trông xuống khu vườn; ở bên kia treo những bộ sưu tập tác phẩm nghệ thuật mà chắc chắn sẽ khiến Toby Kalpar phải dừng lại ngắm nghía – tranh sơn dầu của Winslow Homer, Henry Bacon, John Singer Sargent và của những người khác nữa. Họ đi qua cửa lớn tới một phòng chờ rộng lớn chuyên dành cho khách. Một người đàn ông đeo kính, trông đầy vẻ khó tính đang ngồi gõ bàn phím liên hồi trên một chiếc bàn cổ. Nhạc jazz nhẹ nhàng văng vẳng trong phòng được phát từ những cái loa giấu kín mà Gibson không thể nhìn thấy. Chẳng buồn nhìn lên, người đàn ông đó hướng dẫn họ ngồi xuống đợi bằng một chất giọng mà Gibson cố gắng lắng tai nghe cũng chỉ nhận ra thoảng chút gốc Tây Phi. Cools và Sidhu làm theo răm rắp. Gibson cũng bắt chước theo.

“Ông ta là ai?” Gibson hỏi.

“Thư ký của bà Dauplaise.” Sidhu giải thích.

Viên thư ký liếc nhìn họ qua khe cặp kính trễ nải. “Yên lặng, làm ơn yên lặng, các quý ông. Ở đây không nói chuyện.”

“Thế sao ông không im cái miệng thối của ông đi?” Gibson khẽ mỉa mai.

Viên thư ký khựng lại một chút với biểu cảm nghiêm trang, hơi khó chịu nhưng vẫn hòa nhã, rồi từ từ đứng lên ngạo nghễ, cao hơn mét rưỡi và có lẽ phải nặng tầm 135 cân chứ chẳng ít. Gibson làm hòa với ông ta bằng một nụ cười thân thiện. Với một cái lắc đầu thất vọng, viên thư ký mất hút vào trong cánh cửa ngay sau bàn làm việc của ông ta.

Khi ông ta đã đi khỏi, Sidhu mới cất lời. “Cái đó không cần thiết đâu.”

“Cần chứ.”

“Bà Dauplaise chỉ muốn nói chuyện thôi. Không cần phải bất kính như vậy.”

Gibson ném cho gã kia một cái nhìn xéo. “Anh đùa tôi đấy à? Anh biết anh làm việc cho ai không? Và chửi bới là cách anh giới hạn mọi thứ hả? Cái kiểu cư xử ngớ ngẩn gì vậy?”

Sidhu định đứng nhổm dậy nhưng Cools đặt bàn tay lên bả vai gã đồng nghiệp. Miễn cưỡng, Sidhu ngồi trở lại.

“Đừng có chửi thề với tao lần nữa.” Sidhu nói.

Gibson đang phân vân giữa những lựa chọn thì người thư ký quay ra và chỉ tay vào Sidhu và Cools. “Bà ấy muốn nói chuyện với hai anh.”

Gibson vỗ nhẹ vào đầu gối Sidhu. “Nói cho khéo nhé.” Hai gã tay chân theo người thư ký vào văn phòng của Calista, để Gibson lại một mình. Anh băn khoăn không biết liệu rằng đây có phải là một sản phẩm tưởng tượng khác của anh nữa hay không. Trở lại nhà của Calista Dauplaise quả là một thứ gì đó lạ lẫm. Nhưng được đối xử như một vị khách chứ không phải một tù nhân… chà, điều đó rõ ràng là hết sức siêu thực. Gibson nhận ra rằng Duke đã không theo anh vào trong nhà. Rõ ràng, chính Calista Dauplaise đã xua đuổi người cha của anh mất hút.

Sau một vài phút, cánh cửa văn phòng mở ra và ba người đàn ông quay trở lại.

“Giờ thì bà Dauplaise sẽ gặp anh.”

Văn phòng của Calista nhẽ ra nên được gọi là một thư viện thu nhỏ mới phải. Giá sách gỗ hồng cao chót vót bao quanh căn phòng. Trần nhà cao vời vợi, đủ chỗ cho một cái thang để đứng lên lấy sách ở những tầng cao của kệ sách. Một kiểu cách mà Gibson vốn chỉ thấy trong những bộ phim đen trắng. Tất cả các cuốn sách đều được bọc da và Gibson thắc mắc không biết có cuốn nào mới được viết trong nửa thế kỷ trở lại đây hay không. Ở phía xa cuối căn phòng, một chiếc bàn máy in khổng lồ án ngữ ở đó, hoàn toàn tách hẳn hai cây đèn bàn bằng đồng và một chồng giấy in. Phía sau chiếc bàn, rèm cửa được cuốn lên trên một khung cửa sổ rộng lớn để cho những tia sáng lạnh lẽo của mùa đông chiếu vào. Trên một chiếc ghế cạnh cửa sổ, Gấu đang ngồi với một quyển sách mở trên đùi. Giống hệt cái cách mà cô ấy vẫn làm trong những buổi chiều ở Pamsrest khi họ còn là những đứa trẻ. Anh không thích cô ấy ngồi cạnh những cái cửa sổ đó vì chúng nhìn ra vườn, ở cuối vườn có một khu mộ gia đình nhỏ. Gấu nhìn đáp lại Gibson khi anh bước vào phòng và cười đượm buồn. Anh không nên dẫn theo cô ấy tới đây; chỉ là anh không biết cách nào để không làm như thế.

Ở giữa căn phòng, một cặp ghế trường kỷ bọc da màu xanh nằm ngay cạnh lò sưởi đang nổ lốp bốp. Calista ngồi trên một ghế, lưng quay ra phía cửa, chân khoanh lên và giấu đôi bàn chân xuống dưới đùi. Trên chiếc bàn thấp bằng đá hoa cương nằm giữa những chiếc ghế, có một ấm trà bên cạnh chồng báo tin tức hàng ngày và một chiếc điện thoại quay số cổ điển màu đen. Bên kia chân đế, chiếc điện thoại có sáu nút vuông, một nút màu đỏ và các nút còn lại không màu để quay số - giống hệt như trong một bộ phim tình báo đen trắng mà cha anh rất thích hồi còn sống. Với một phụ nữ đang cố kéo lết cả một gia tộc bước sang thời đại mới thì Calista quả là đang sống một cuộc sống như trong bảo tàng vậy.

Bà ta không quay người lại để chào Gibson mà đợi anh đi vòng ra phía trước đến phía đối diện với mình. Calista không thích nghi với thế giới này; thế giới này dịch chuyển để thích nghi với bà ta. Bà ta chào đón Gibson bằng một cái gật đầu tán dương, mời anh ngồi lên chiếc ghế xô pha đối diện và chuẩn bị rót trà mời. Bà ta rót ra hai ly, rồi thêm sữa và một thìa đường trắng cho mỗi ly, chẳng thèm hỏi xem Gibson có sẵn lòng uống trà hay không và nếu có thì uống theo cách nào. Bà ta đẩy một ly trà nhúc nhích tí ti về phía Gibson rồi đưa ly kia lên miệng, trầm ngâm thổi. Thời gian chào đón một vị khách theo cách thông thường đã qua và giờ cả hai người họ đều đang ngồi trong im lặng kỳ quái, không ai muốn là người lên tiếng trước.

Tình hình đó cho Gibson một khoảng thời gian ngắn ngủi để thích nghi với trạng thái ở gần Calista Dauplaise. Thật đáng thất vọng, bà ta hầu như chẳng thay đổi gì so với lần cuối cùng họ giáp mặt nhau từ hơn hai năm trước. Nếu như công lý có tồn tại trong cuộc đời này thì những gì đã xảy ra thời gian gần đây đáng ra sẽ phải làm bà ta khô héo. Có một thứ nhận thức ngây thơ rằng ác quỷ thật sự luôn khoác lên làn da của chúng những tội ác. Nhưng giống như Dorian Gray, Calista Dauplaise hẳn đã tìm ra cách để vẻ ngoài của bà ta vẫn giữ được trạng thái không tì vết. Con người không thể trông như không tuổi ở tuổi sáu mươi lăm nếu không có sự hỗ trợ của y khoa hay của đấng siêu nhiên nào đó. Gibson tin là một trong hai thứ đó thôi.

Calista nhấp ngụm trà. Gibson chờ đợi.

“Cậu gầy đi nhiều quá.” Bà ta nói, phá vỡ sự im lặng. “Cậu phải nói tôi nghe xem bí mật thật sự là sao.”

Tất cả mọi thứ mà Calista nói đều có những tầng lớp ẩn ý đằng sau những lời tưởng như là khen ngợi. Gibson tự hỏi liệu rằng bà ta biết được đến đâu, nhưng, thay vì đớp mồi của bà ta, hãy cứ chơi theo trước đã.

“Chúng ta đã có hòa ước với nhau.”

Calista đặt ly trà xuống. “Và theo như tôi được biết thì những sắp đặt đó vẫn còn nguyên giá trị.”

“Vậy tôi ở đây để làm gì?” “Uống trà.”

“Tôi ghét trà.” Gibson nói.

“Cậu nhã nhặn hơn nhiều so với lần đầu tiên chúng ta gặp đấy.”

“Bà muốn nhã nhặn ư, vậy thì làm với những người mà không bị bà giết mất cha ấy.”

Calista suy ngẫm về những ẩn ý trong câu nói đó.

“Tôi ở đây để làm gì?” Anh hỏi lần thứ hai. “Tôi cần sự hỗ trợ của cậu.” Calista trả lời.

Gibson cắn chặt môi nhưng anh vẫn không ngăn được tiếng cười nấc ra từ trong cổ họng. Một tràng cười sảng khoái kéo theo sau. Đó có thể được hiểu là hành động vượt ngoài tầm kiểm soát hoặc chỉ là một tiếng cười giả tạo, có thể là vậy, nhưng anh vẫn cần nó để che giấu những cảm xúc thực sự bên trong anh lúc này. Hoặc là cười, hoặc là bóp cổ bà ta cho đến chết. Sắc mặt của Calista chùng xuống như một viên đá rơi xuống giếng. Vốn không phải là một người phụ nữ quen với việc bị người khác cười vào mặt như thế, bà ta vật vã không biết phải phản ứng ra làm sao, cuối cùng đành chọn giải pháp che giấu thái độ không hài lòng sau ly trà của mình. Khi cơn bột phát của Gibson lắng xuống, anh đứng dậy rời đi. Đó là điều duy nhất anh muốn làm lúc này.

Bà ta không nói năng gì cho đến khi anh đặt tay lên núm cửa.

“Ngồi. Xuống.”

Anh ngừng lại và quay lại nhìn bà ta. Bà ta vẫn ngồi quay lưng lại phía cửa một cách ngang ngạnh giống như bậc cha mẹ không nhượng bộ trước thói ương bướng của đứa con. Gibson đã từng áp dụng chiến thuật này một hay hai lần gì đó với Ellie.

“Cậu sẽ muốn nghe điều này.” Bà ta nói.

“Gì?” Trái ngược với phương án mà Gibson cho là tốt hơn, tay anh tự dưng bỏ khỏi núm cửa.

“Tôi sẽ không nói chuyện với cậu khi cậu đứng sau lưng tôi.”

“Ồ, vậy thì quay cái mông của bà lại.”

Lưng của Calista cứng đờ nhưng bà ta không quay lại. Anh rất muốn cứ thế này mà bỏ đi, nhưng đó sẽ là một chiến thắng vô nghĩa, và anh thực sự muốn biết xem điều gì lại quan trọng đến mức khiến bà ta phải phá vỡ thoả thuận ngừng bắn giữa họ. Anh quay trở lại ghế xô pha để bà ta có thể nhìn thấy mình nhưng vẫn chỉ đứng. Thật may là Gấu đã không còn ở trong phòng nữa. Anh không muốn cô ấy thấy việc này.

“Được rồi.” Gibson nói. “Chính xác là bà cần sự trợ giúp của tôi vào việc gì?”

Calista nhấp một ngụm trà rồi mới trả lời. “Tôi cần cậu giúp tôi giải thoát cho George Abe.”

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 40
  • Sau