Vận tốc của vật là không đổi nếu không chịu tác dụng của một lực từ bên ngoài.
- Định luật 1 về chuyển động của Isaas Newton
Vận tốc của vật là không đổi nếu không chịu tác dụng của một lực từ bên ngoài.
- Định luật 1 về chuyển động của Isaas Newton
♦ Sinh tồn dựa trên lợi thế cạnh tranh
Mọi bức tranh đều có một điểm chung, bất chấp chủ đề và giá trị của nó: Tất cả mọi bức tranh đều có một điểm chung, bất chấp chủ đề và giá trị của nó; tất cả chúng đều bắt đầu từ những mảnh vải bố trắng. Chính quá trình mà người họa sĩ vẽ xuống những ý tưởng của mình đã tạo nên bức tranh. Việc vẽ ra một bức tranh sẽ phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của người họa sĩ lúc anh ta vẽ ra nó. Nếu trì hoãn một ngày thì chắc tác phẩm cuối cùng có thể sẽ khác so với một ngày trước đó.
Khi mà kinh nghiệm được tích lũy lại, chúng ta sẽ trở thành một người khác, việc tích hợp những kinh nghiệm mới vào những kinh nghiệm trong quá khứ sẽ tạo nên con người chúng ta ở hiện tại.
Khi xem tranh, người họa sĩ sẽ ý thức được những thay đổi bên trong bản thân anh ta, người xem sẽ không nhận ra điều đó.
Thực tế thì, người thưởng thức tranh sẽ áp đặt kinh nghiệm của riêng mình vào việc diễn giải bức tranh, tạo ra một cảm nhận độc đáo về tác phẩm, vốn không thể có nếu không có hai người.
Đấy là một ẩn dụ tốt trước khi chúng ta nghĩ về một đồ thị giá cổ phiếu. Tuy nhiên, nó cũng là một cái bẫy, như đã đề cập ở Chương 1, những hình dạng của đồ thị giá có thể được diễn dịch theo nhiều cách khác nhau. Chúng ta định hình những đồ thị trong bối cảnh tình hình của công ty, và lưu ý rằng đây chỉ là một bức ảnh chụp cảm nhận của thị trường về giá trị công ty thôi.
Mặt khác, chúng ta có thể xem nó như một tờ vải bố để trình bày lại theo các cách hiểu riêng của chúng ta, vẽ lên những đường và dải màu khác nhau để nêu bật lên ý nghĩa. Chúng ta sẽ nhìn nhận đồ thị như nó vốn có; hay chúng ta sẽ hình tượng hóa nó, tìm ra những tam giác và hình nêm, hình ly và quai38, hình đầu và vai?
38. Nguyên văn: cups and handles.
Hình 2.1 và bảng 2.1 cho thấy rõ quan điểm này. Hình 2.1 là đồ thị giá hai năm của cổ phiếu Merck (MRK). Tôi đã vẽ vài đường xu hướng truyền thống để nối các điểm cao nhất và thấp nhất, tạo thành các đường thẳng gần như song song trên đồ thị, như thể hiện ở phía phải của đồ thị. Các chi tiết này cho thấy những gì mà tôi cho là quan trọng trên đồ thị này. Điều này hơn kém về ý nghĩa so với diễn dịch của người khác như thế nào nhỉ? Tại sao không lần theo vết chân gà thay thế cho phân tích kỹ thuật? Bảng 2.1 chỉ đơn giản là một bảng dữ liệu mới nhất mà tôi có thể thu thập được về MRK và nó cho tôi biết rất nhiều thông tin về hoạt động của công ty và một số kết quả mà họ có thể đạt được. Bạn nên sử dụng những con số mà mình có thể xác minh và kiểm tra hay một nhóm quy tắc và ký hiệu nguệch ngoạc hoàn toàn chủ quan?
Hình 2.1: Ví dụ về phương pháp phân tích kỹ thuật.
Nguồn: Yahoo! Finance
Bảng 2.1: Thông tin tóm tắt của công ty.
Đối với tôi, chiêm nghiệm các đồ thị là việc thú vị, nhưng cũng chỉ là nhìn nhận lại từng việc đã qua mà thôi! Chúng có thể cho bạn biết việc đáng ra phải làm trong quá khứ nhưng lại không thể nói cho bạn bất cứ điều gì ở hiện tại và vì thế là vô dụng đối với một nhà giao dịch như bạn.
Ở phần sau tôi sẽ thảo luận về các thị trường giá hội tụ trong biên độ39 và các thị trường theo xu hướng40, nhưng ngay cả các định nghĩa đó cũng là chủ quan. Các khái niệm xu hướng và khoảng biến động giá41 thường khiến người khác hiểu sai. Những gì chúng ta biết đơn giản chỉ là những gì đã xảy ra. Cuối cùng chỉ có duy nhất các mức giá: cao nhất, thấp nhất, mở cửa, đóng cửa, khối lượng giao dịch...
39. Nguyên văn: consolidating, chỉ trạng thái thị trường có giá dao động xung quanh một mức trung bình trong một thời gian nào đó, chưa rõ xu hướng tăng hay giảm theo phân tích của nhà giao dịch chứng khoán.
40. Nguyên văn: trendy, chỉ trạng thái thị trường cho thấy xu hướng tăng giảm rõ ràng theo phân tích của nhà giao dịch chứng khoán.
41. Nguyên văn: range, khoảng bị chặn bởi giá trị cao nhất và thấp nhất mà người giao dịch cho rằng giá chứng khoán đang phân tích sẽ biến động trong phạm vi đó.
Mỗi nhà giao dịch đều cần một bí quyết riêng và đây là bí quyết của tôi.
Trong một thế giới quá tải về thông tin, loại bỏ thông tin nhiễu và tập trung vào một nhóm nhỏ các xác suất và kỹ thuật giao dịch là con đường duy nhất đưa đến thành công ổn định trong giao dịch. Đó là cái sẽ cho phép bạn lưu ý đến những thông tin đáng chú ý nhất và dùng chúng để ra các quyết định nhanh chóng, chính xác và không bao giờ phải hối tiếc. Mọi chuyện nằm ở sự đơn giản của phương pháp, khai thác tối đa tác dụng của công cụ và chắt lọc các công cụ đó sao cho chúng đem đến nhiều thông tin có giá trị nhất mà không gây bối rối.
Khi xem xét sự mâu thuẫn giữa sự phức tạp trong chức năng và đơn giản trong thiết kế, CEO của Yahoo, Marissa Mayer, khi còn làm việc tại Google đã từng nói: “Google có chức năng như một con dao quân đội Thụy Sỹ – rất phức tạp – nhưng trang chủ là cách tiếp cận người dùng rất thân thiện. Nó đơn giản và trang trọng tương tự như việc mũi dao được xếp lại để tạo sự an toàn. Bạn có thể bỏ nó vào trong túi nhưng lại rất hữu dụng khi cần. Rất nhiều đối thủ cạnh tranh của chúng tôi cũng giống những con dao Thụy Sỹ đang mở vậy – đe dọa và đôi khi cũng rất nguy hiểm.”42
42. “Simple. The Next Killer App”, Sustainable Work, Web, 11/6/2005 – Chú thích của tác giả.
Nói cách khác, chẳng có lý do gì để chúng ta dùng các dòng lệnh để vận hành máy tính nữa. Tôi muốn các công cụ giao dịch của mình phải giống như con dao Thụy Sỹ đang xếp lại – luôn sẵn sàng đem đến những thông tin chuẩn xác lúc cần và rồi được cất đi cho đến lần sau.
Bản thân sự đơn giản cũng không phải là mục tiêu. Nếu không khéo, việc đơn giản hóa sẽ làm mất đi những thông tin quan trọng. Mục đích của việc đơn giản hóa là bỏ bớt những gì hiển nhiên và tìm thêm các ý nghĩa. Trong thơ ca, ngôn từ là rất chắt lọc. Mục đích của thơ là sử dụng thật ít ngôn từ để diễn đạt thật nhiều ý nghĩa. Thơ Haiku buộc bạn phải nói được điều gì đó có ý nghĩa về cảm xúc của mình chỉ trong mười bảy âm tiết. Tại sao bạn lại không thể có các công cụ giao dịch đơn giản như thơ Haiku?
Lúc nào tôi cũng cố gắng đơn giản hóa công cụ giao dịch của mình sao cho những cái còn lại đem đến nhiều thông tin nhất và ít bị tác động những sự diễn giải chủ quan con người nhất. Đấy là lý do tại sao tôi không có thời gian dành cho các phân tích kỹ thuật truyền thống. Tôi cảm thấy là chúng phức tạp hóa câu chuyện mà giá và khối lượng giao dịch đã kể một cách không cần thiết và phó mặc cho họ tự xoay xở. Cuối cùng chúng sẽ làm lãng phí trí lực của con người, phá hỏng khả năng ra các quyết định sáng suốt của anh ta.
Sự tương đồng giữa giao dịch và bài Poker là rõ ràng và điển hình, nhưng bởi cuốn sách này hướng đến sự đơn giản, cho nên chúng ta sẽ sử dụng một ví dụ đơn giản hơn: trò chơi chuyền khoai tây nóng43. Ai cầm củ khoai tây nóng cuối cùng sẽ là người thua cuộc. Trên thị trường ở vào cuối một chu kỳ, ai là người mua cổ phiếu cuối cùng sẽ là người thua cuộc. Anh ta mua vào ở mức giá mà ngay sau đó sẽ là đảo chiều, để mặc anh ta mua hớ.
43. Nguyên văn: hot potato, là trò chơi mà một nhóm người sẽ chuyền tay nhau một củ khoai tây trong tiếng nhạc, khi tiếng nhạc bất ngờ ngừng, ai là người đang cầm củ khoai sẽ thua cuộc.
Bí quyết của bạn là biết khi nào bán ra và chuyền củ khoai tây trước khi bản nhạc dừng lại.
Việc cân nhắc thời điểm một cách chín chắn sẽ giúp bạn dần có lãi trong từng giao dịch. Đấy là những điều mà tôi đã đề cập ở Chương 1 về những thất bại trong chiến thắng. Bạn có thể không kiếm được nhiều tiền trong một lần giao dịch như bạn muốn nhưng sẽ vẫn có lãi. Đừng thất vọng về bản thân vì những gì mình đã không đạt được; thất bại sẽ ngày càng nặng nề hơn khi tư duy tiêu cực. Hãy tự động viên mình về những gì đã đạt được và tìm kiếm cơ hội để cải thiện lần sau.
Mỗi nhà đầu tư trên thị trường đều cần một bí quyết. Mục đích của các phần tiếp ngay sau đây là xác định một khung cơ bản để phát triển phương pháp giao dịch. Tôi sẽ trình bày với bạn cách thức vận hành của nó. Sau đó sẽ là những ví dụ giao dịch được áp dụng từ những nguyên tắc đó kèm theo những chia sẻ kinh nghiệm bản thân tôi, cho đến khi bạn trở thành nhà giao dịch tốt nhất trong khả năng của bạn.
♦ Thời điểm đóng giao dịch
Tuy nhiên, để tìm ra bí quyết, bạn phải học được mức độ quan trọng của các biến động về giá. Trong bất kỳ một khoảng thời gian nào đều có bốn mức giá có thể xác định được. Cuối cùng thì chúng ta vẫn là những kẻ nghiện con số. Não của chúng ta là cỗ máy xử lý thần kỳ có chức năng chính là tiếp nhận tác nhân, gán ý nghĩa vào đó và cuối cùng là ra quyết định dựa trên những gì chúng ta nhận ra.
Bốn mức giá đáng để chú ý là giá cao nhất, giá thấp nhất, giá mở cửa và giá đóng cửa. Chúng khá dễ hiểu. Giá cao nhất là mức giá được giao dịch cao nhất trong đoạn thời gian đó, còn giá thấp là mức thấp nhất. Giá mở cửa có thể được hiểu là mức giá đầu tiên được khớp lệnh, trong khi đó giá đóng cửa là mức giá dành cho giao dịch cuối cùng được thực hiện. Ví dụ về từng mức giá được trình bày trong bảng 2.2.
Bảng 2.2: Dữ liệu giá lịch sử theo tuần.
Có thể nói mỗi loại giá – mở cửa, đóng cửa, cao nhất, thấp nhất – có những ý nghĩa khác nhau. Chúng ta xem xét riêng và lý giải những điều được gắn liền với từng cái. Cho dù tất cả các khái niệm này đều có thể áp dụng được cho bất cứ khung thời gian nào thì vẫn có một số điều kiện nào đó chỉ xảy ra vào đầu và cuối mỗi phiên giao dịch. Như vậy, với cách hiểu như thế, để phục vụ cho việc thảo luận, mỗi thanh giá44 hay mỗi nến45 sẽ biểu diễn cho một ngày.
Đồ thị hình nến là công cụ đơn giản để biểu diễn bốn mức giá, đã có từ hàng nghìn năm nay. Hình 2.2 trình bày hai loại nến. Giống như những công cụ khác thời xưa, chúng dễ sử dụng và có nhiều thông tin.
44. Nguyên văn: bar, để chỉ thanh biểu diễn các mức giá trong một khoảng thời gian.
45. Nguyên văn: candle, một cách gọi, cách biểu diễn khác của các mức giá trên đồ thị.
Hình 2.2: Biểu đồ giá hình nến - Giá mở cửa, cao nhất, thấp nhất và giá đóng cửa.
Giống như trong những câu chuyện thường được kể từ đầu, tôi nghĩ tốt nhất chúng ta nên bắt đầu từ việc phân tích giá mở cửa. Ẩn trong mức giá mở cửa là tất cả những thông tin mới được thị trường hấp thụ được từ khi đóng cửa ngày hôm trước. Đó có thể là thông tin rất quan trọng như một báo cáo thu nhập bị bỏ sót hay dữ liệu về tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ hoặc triển vọng tăng trưởng GDP ở Estonia. Điều quan trọng cần phải nhớ là mức giá mở cửa là mức giá chưa ổn định, nó thể hiện những dự đoán và ước tính của những tay thao túng thị trường về xu hướng giá thị trường hoặc cổ phiếu đối với những gì sẽ xảy ra trong thị trường tương lai và các yếu tố khác.
Đi cùng với mức giá mở cửa là rất nhiều năng lượng dồn nén cho cả tâm lý tăng giá và giảm giá. Ở thời điểm mở cửa, những người giao dịch chủ yếu là các nhà đầu tư nhỏ đã đặt lệnh chờ với bên môi giới của họ trước khi đi làm và những nhà giao dịch chứng khoán nghiệp dư bị những phấn khích và say sưa của thời điểm mở cửa theo đuổi.
Nếu mức giá mở cửa thấp hơn mức đóng cửa ngày hôm trước thì điều đó sẽ đưa thị trường vào một xu hướng đi xuống rồi sẽ phải giằng co trong ngày. Tình huống ngược lại cũng đúng: Một thị trường mở cửa với giá cao hơn giá đóng cửa ngày hôm trước sẽ chứa đầy áp lực tăng giá và không bắt đầu giao dịch ở các mức giá bán.
Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa không thể xảy ra tình huống khi những người đầu cơ giá xuống sẽ lấn át những người đầu cơ giá lên và đưa giá đi xuống trong ngày hôm đó. Nó chỉ có nghĩa là xu hướng vào lúc mở cửa là tăng hay giảm trong tương quan tương đối với thời điểm đóng cửa ngày hôm trước mà thôi. Điều quan trọng cần nhớ là việc của các nguồn tin tài chính là làm cho tất cả các thông tin kinh tế trở thành quan trọng và khiến bạn tin rằng, trong mọi trường hợp, những gì họ nói đến đều vô cùng quan trọng – cuối cùng thì doanh thu của họ đến từ việc đánh giá xếp hạng và lượng truy cập của các độc giả.
Là một nhà giao dịch chứng khoán, việc bạn cần làm là phải băng qua những nhiễu loạn đó, để ý đến giá trước tiên, rồi lắng nghe thị trường. Những nhiễu loạn từ các trao đổi ngoài lề cũng làm mất tập trung hệt như các đường xu hướng và đường trung bình.
Giá cao nhất và giá thấp nhất là các hình ảnh đối xứng của nhau và chúng xác định khoảng biến động giá trong ngày. Cả hai thường được xác lập vào khoảng 15 - 30 phút đầu tiên của phiên giao dịch. Cho dù mức giá cao nhất được xác định trong giai đoạn thị trường có nhiều biến động nhất nhưng nó cũng đã trở thành một rào cản về mặt tâm lý cho các mức giá muốn vượt qua mức giá đó. Các mức giá cao nhất của những ngày trước cũng là những mức kháng cự, bởi chúng đại diện cho những mức giá mà những người đầu cơ giá lên của ngày hôm trước đã không thể duy trì. Như vậy chúng tự nhiên trở thành những điểm mà những người đầu cơ giá xuống sẽ nằm chờ và đánh giá xu hướng thị trường xem liệu lực cầu hiện tại có đủ để kéo giá lên cao nữa hay không.
Mức giá thấp nhất đối xứng với mức giá cao nhất, và tất cả các điều kiện áp dụng đối với mức giá cao nhất thì đều áp dụng đối với mức giá thấp nhất. Dĩ nhiên, khác nhau ở chỗ là vai trò sẽ đảo lại. Nếu những người đầu cơ giá xuống muốn đẩy giá xuống thấp hơn thì họ sẽ phải xuyên qua các mức thấp trong ngày và có lẽ là các mức giá thấp trước đó nữa. Các mức giá thấp nhất tạm thời trở thành các mức hỗ trợ, là nơi mà những người đầu cơ giá lên nằm chờ để mua vào những gì người đầu tư giá xuống bán ra, gom cổ phiếu và làm kiệt sức họ.
Cả mức giá thấp nhất và mức giá cao nhất đều có thể bị phá vỡ nhiều lần trong ngày, và vì thế chúng có thể không còn là mức kháng cự và hỗ trợ hiệu quả nữa. Tuy nhiên, nó sẽ là những ngưỡng ban đầu mà chúng ta cần phải xem xét lại vị thế của các trạng thái.
Mặc dù vậy, tất cả các biến động này chỉ có ý nghĩa rất nhỏ khi so với ý nghĩa của mức giá cuối phiên, tức là giá đóng cửa. Một cách khác để hiểu về giá đóng cửa thì đó là mức giá mà những người nắm giữ cổ phiếu hiện tại cảm thấy chấp nhận được khi chịu rủi ro của việc nắm giữ cho đến ngày giao dịch tiếp theo. Đối với nhiều người, nó bao hàm luôn cả rủi ro của việc sử dụng đòn bẩy46. Theo như lời Peter Brandt, giá đóng cửa là mức giá “mua hoặc không và không mặc cả”47. Nó chịu ảnh hưởng của tất cả mọi thứ có thể tạo thành năng lượng giao dịch của phiên ngày mai và nó quyết định trạng thái giao dịch của bạn là ổn hơn hay kém đi.
46. Nguyên văn: being on margin, là thuật ngữ chỉ việc chủ các tài khoản giao dịch chứng khoán loại được vay để mua (margin account) vay tiền để mua lượng cổ phiếu muốn giao dịch, cho phép nhà giao dịch sử dụng đòn bẩy tài chính; sử dụng loại tài khoản này có nhiều ưu điểm nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó đáng kể nhất là chủ tài khoản có thể mất/lỗ nhiều tiền hơn khoản tiền mà họ đang để trong tài khoản.
47. Nguyên văn: put-up or shut-up price.
Nếu như thời điểm mở cửa bị chi phối bởi các nhà đầu tư cá nhân thì thời điểm đóng cửa hay giai đoạn ngay trước khi đóng cửa sẽ bị chi phối bởi các nhà đầu tư tổ chức. Họ, rất ít hoặc gần như không có rủi ro sử dụng đòn bẩy đối với giao dịch đang mở nên sẽ vui vẻ ngồi chờ các nhà đầu tư cá nhân, những nhà giao dịch ngắn hạn và các hệ thống giao dịch tự động (HFT)48 tham gia thị trường cho đến khi họ tất toán các giao dịch của mình (ví dụ như bán ra và thu tiền về), trước khi có các giao dịch tiếp theo.
Mức giá đóng cửa thể hiện mức giá trao tay mạnh nhất trong ngày của cả bên mua và bên bán với đầy đủ các thông tin đã tích hợp vào giá. Các nhà đầu tư tổ chức làm việc theo khung thời gian dài hơn ngày và tuần rất nhiều. Họ tìm cơ hội đưa mình vào giao dịch bằng cách mua từng phần cổ phiếu nhỏ trong một quãng thời gian nhằm xác lập một mức giá mua trung bình, trong khi tích lũy thành một giao dịch lớn mà không đẩy giá lên một cách quá mức.
Họ cũng lợi dụng khối lượng giao dịch phát sinh do nhà giao dịch ngắn hạn để mua và bán mà không ảnh hưởng đến giá. Hiệu ứng cuối cùng là chiều biến động của giá đóng cửa so với các giao dịch trong ngày sẽ cho thấy hành động và dòng tiền của các nhà đầu tư tổ chức, khi so sánh lượng mua và lượng bán. Nếu giá tăng vào cuối ngày thì có nghĩa là họ mua vào và ngược lại.
Rủi ro đòn bẩy49 đi kèm với việc giữ một giao dịch qua đêm là lý do tại sao phiên đóng cửa cuối cùng của tuần, thường vào thứ Sáu, là đặc biệt quan trọng.
48. Nguyên văn: HFT algorithms (high frequency trading), chỉ phương pháp giao dịch sử dụng máy tính, phần mềm và thuật toán làm công cụ giao dịch tự động, quyết định thay cho người trong các giao dịch cụ thể
49. Nguyên văn: margin risk, thuật ngữ chỉ rủi ro bị lỗ nhiều tiền hơn số tiền đang để trong tài khoản giao dịch ở các tài khoản có đòn bẩy (margin account).
Nó không chỉ là giá đóng cửa của một ngày mà còn là của tuần, cho nên rủi ro liên quan đến việc nắm giữ qua đêm sẽ nhân lên theo hàm mũ khi nắm giữ qua cuối tuần.
Điều đó cũng lý giải tại sao những sự kiện quan trọng liên quan đến giao dịch – ví dụ như xuyên thủng một mức cản hay kháng cự mạnh nào đó – xảy ra vào ngày thứ Sáu có ý nghĩa hơn nhiều so với xảy ra vào ngày thứ Tư chẳng hạn.
Vào ngày 15 tháng 06 năm 2012, chỉ số S&P 500 cho thấy các khối lượng chứng khoán lớn được giao dịch nhiều gấp năm lần so với khối lượng thường thấy, trong vòng 30 phút cuối cùng của phiên giao dịch và chỉ ngay sau thời điểm đóng cửa của thị trường phái sinh. Đó là phiên giao dịch cuối cùng trước khi cuộc bầu cử có thể tàn phá thị trường ở Hy Lạp xảy ra vào sáng thứ Hai. Nhưng bằng việc mua nhiều như thế, những “đồng tiền thông minh”50 đã an toàn khi Hy Lạp chọn duy trì quan hệ với E.U và tiếp tục sử dụng đồng Euro như là đồng tiền chính thức của mình.
50. Nguyên văn: smart money, chỉ dòng tiền đầu tư của những nhà đầu tư có kinh nghiệm hoặc giàu thông tin trên thị trường.
Những nhà đầu cơ giá lên hóa ra lại đúng trong hành động của mình khi tính đến tình huống ở Hy Lạp, bởi vì cuộc bầu cử đã diễn ra theo hướng mà thị trường mong muốn và S&P 500 đã mở cửa ở mức gần với mức đóng cửa trước đó là 1,342.42 và tăng nhẹ khi đóng cửa ở mức 1,344.78. Trong khi tình hình bầu cử ở Hy Lạp đã đưa đến tâm lý tăng giá cho thị trường thì thị trường trái phiếu Tây Ban Nha lại diễn ra hoàn toàn trái ngược, sự hưng phấn của những nhà đầu cơ giá lên đang có ngày hôm đó tiêu tan hoàn toàn. Mức giá đóng cửa của ngày 15 tháng 06 đó là mức giá đóng cửa cao nhất kể từ ngày 11 tháng 05 năm 2012, ngày thứ Sáu ngay sau phiên bầu cử đầu tiên ở Hy Lạp đã làm thị trường hoảng loạn. Mua hay bán gì vào cuối tuần đó đều rủi ro hơn bình thường cho dù các tổ chức đều đầu cơ giá lên đi nữa.
♦ Những ngày giao dịch ngoài biên độ
Bí quyết đầu tiên mà bạn cần khi tìm kiếm thành công trong giao dịch là nhận thức rõ về một trong những hành vi thực tế và nhất quán nhất là biểu hiện của thị trường chẳng liên quan gì đến các yếu tố cơ bản, hay khi nào “nhạc tắt”51.
♦ Ngày giao dịch trong biên độ52
Là ngày mà khoảng dao động giá của nó nằm trong khoảng biến động giá của ngày hôm trước.
Tôi đã đề cập trong Chương 1 rằng một trong những nguyên tắc cốt lõi trong phương pháp giao dịch của tôi là xác định xác suất của việc một cổ phiếu vượt qua các mức giá cao nhất và thấp nhất của ngày hôm trước bằng cách đánh giá tần suất xảy ra các sự kiện này trong quá khứ.
Trong khi nghiên cứu để tìm ra một khuôn mẫu cho các nguyên tắc này, tôi đã xem các thống kê liên quan đến các hành vi giao dịch của chỉ số S&P 500: Kể từ năm 1999, tổng cộng hơn 3,248 ngày giao dịch, chỉ có 395 ngày được xác định là ngày giao dịch trong biên độ. Hóa ra trong suốt một thế kỷ qua, những hành vi đó luôn luôn nhất quán; bảy trên tổng số tám ngày giao dịch thì S&P 500 phá vỡ mức giá cao nhất hoặc thấp nhất của ngày hôm trước, và đôi khi cả hai. Đây là một quan sát rất có ý nghĩa. Một kết luận khác rút ra từ các thống kê đó là khi khối lượng giao dịch tăng lên thì mức biến động cũng sẽ tăng lên.
51. Nguyên văn: The music stop, xem lại chú thích về trò chơi chuyền củ khoai tây ở trên. Ở đây ngụ ý thời điểm đóng cửa.
52. Nguyên văn: Inside day.
Bảng 2.3: Những ngày giao dịch vi phạm các cận của ngày hôm trước.
Tôi khuyên bạn nên phân tích bất cứ cổ phiếu nào mà bạn cho rằng đáng để đầu tư. Hãy thu thập các dữ liệu có ý nghĩa của nó từ ba đến năm năm (mức giá cao nhất, thấp nhất, mở cửa, đóng cửa và khối lượng giao dịch hằng ngày) và lập thành bảng tính trong Excel. Sau đó dùng một hàm điều kiện (hàm If/then), bạn có thể thấy các mức giá cao nhất và thấp nhất của ngày hôm trước (bảng 2.3). Giá trị “1” trong cột “Phá vỡ mức giá cao/thấp nhất” có nghĩa là mức giá cao nhất hay thấp nhất của ngày hôm trước bị phá vỡ.
Khi thực hiện xong, bạn hãy cộng toàn bộ giá trị cột trên và chia kết quả đó cho tổng số lượng dữ liệu quan sát. Khi đó, bạn có được xác suất của việc biến động giá trong một ngày vượt qua các mức biên dao động của ngày trước đó. Bảng 2.3 chỉ là một ví dụ đơn giản với năm mục dữ liệu. Tập dữ liệu mà bạn sử dụng cho phép phân tích định tính này càng lớn thì độ chắc chắn về mặt thống kê sẽ càng cao. Một người không cần phải có kiến thức tốt về thống kê mới làm được, nó chỉ là một phép tính đơn giản. Đối với tập dữ liệu ba năm ở trên (từ 2008 đến 2011), xác suất của việc mức giá cao nhất bị phá vỡ là 45.6% và mức giá thấp là 54.5%. Khoảng biến động giá trung bình trong ngày là 1.77 điểm. Có ít hơn 10% số ngày là những ngày giao dịch trong biên độ.
Khi mà giá giao dịch tiệm cận các mức giá cao nhất và thấp nhất của ngày hôm trước thì tức là chúng ta đang nhìn thấy một cơ hội giao dịch bởi chúng ta biết rằng lợi thế đang nằm trong tay mình khi mức giá đó bị phá vỡ. Kể từ thời điểm bắt đầu của làn sóng căng thẳng về tài chính hiện nay thì 90% số ngày đã diễn ra đúng như vậy. Như tôi đã nói, bí quyết này là một trong những bí quyết đáng tin cậy nhất trong giao dịch và nó đáng được lưu ý. Trên tổng số mười ngày thì có đến chín ngày thị trường mang đến cho bạn cơ hội tạo ra lợi nhuận từ sự biến động giá, chỉ đơn giản là người mua và người bán đều cố gắng dò dẫm vượt ra khỏi khoảng biến động giá của ngày hôm trước. Chúng ta sẽ bàn đến các cơ chế đặt lệnh làm thế nào để mở ra một giao dịch khi mức giá vượt khỏi biên độ giao dịch của một ngày giao dịch ngoài biên độ53 ở những phần tới.
53. Nguyên văn: Outside day.
♦ Sống sót mỗi ngày
Bây giờ, hãy xem một ví dụ về cách xây dựng một công cụ định lượng để hỗ trợ các hoạt động giao dịch của bạn. Một số các công cụ mà tôi xây dựng đơn giản xuất phát từ những quan sát thị trường và nhận ra những điều mà tôi cho là thú vị. Tuy nhiên, sẽ là không tốt nếu chúng ta chỉ quan sát mà không tiến xa hơn chút nữa để tìm ra xem quan sát đó có ý nghĩa không hay chỉ là cố gắng xác nhận lại những thông tin chúng ta đã biết trong quá khứ, khi mà chúng ta chỉ nhận thấy những gì chúng ta đang muốn thấy và ra quyết định dựa vào đó. Bạn vẫn còn nhớ những hình ảnh diễn dịch đa nghĩa trong Chương 1 chứ? Não của chúng ta tìm kiếm những quan sát loại đó và lười biếng một cách cố hữu, cho nên bạn cần phải lùi lại và sử dụng một cái gì đó khách quan – như toán chẳng hạn – để kiểm nghiệm độ ý nghĩa của nó.
Hãy lấy một ví dụ đơn giản vừa nảy sinh từ thị trường và vừa được minh chứng bởi những gì chúng ta chờ đợi từ thị trường, và tôi sẽ phát triển nó thành một công cụ.
Chúng ta sắp quan sát các hiệu ứng của các ngày trong tuần theo diễn biến của thị trường. Về cơ bản, chúng ta đặt câu hỏi: “Liệu cách thị trường giao dịch vào ngày thứ Hai có khác với các ngày khác trong tuần không?”
Chúng ta có thể giả định rằng điều này là đúng, bởi vào thời điểm thị trường mở cửa vào sáng thứ Hai, thế giới đã có gần ba ngày để thay đổi và tạo ra những thông tin mới mà những nhà giao dịch và các nhà đầu tư thấy cần phải hành động theo. Bên cạnh một lượng thông tin lớn như vậy, còn có một tác động từ những người phải cố gắng theo kịp những diễn tiến của tuần trước đó. Không phải ai tham gia thị trường cũng ăn, thở và theo dõi mọi thứ trong suốt tuần. Ngay cả với sự tiến bộ của công nghệ từ sự xuất hiện của những smartphone, các kênh thông tin tức thời, kênh truyền hình cáp 24 giờ và các kênh thông tin tài chính đa dạng trên Internet thì số đông những người tham gia thị trường vẫn phải bận bịu với các công việc khác của họ. Nếu ai cũng ngồi theo dõi thị trường thì sẽ chẳng có công việc thực sự nào xảy ra cả, khi đó tình hình sẽ ra sao nhỉ?
Như vậy, sẽ hợp lý nếu cho rằng một tỷ lệ đáng kể các nhà đầu tư cá nhân lẫn tổ chức sẽ sử dụng một phần thời gian nghỉ cuối tuần để xem lại các diễn biến trong tuần và hình thành kế hoạch hành động cho tuần tiếp theo.
Và có lẽ chúng ta đã đúng. Thứ Hai là ngày giao dịch biến động nhất trong tuần. Hình 2.3 là đồ thị giá năm năm của S&P 500 kể từ 2007, 32% các ngày thứ Hai đã thiết lập mức giá thấp nhất trong tuần, trong khi đó 26% số ngày thứ Hai đã thiết lập mức giá cao nhất trong tuần.
Trong số 282 tuần trong bộ dữ liệu này, ngày thứ Hai thiết lập mức giá thấp nhất hoặc cao nhất 159 lần, tức là chiếm 56.3%. Chỉ có hai ngày thứ Hai kể từ năm 2007 thiết lập cả mức giá thấp nhất và cao nhất trong tuần, như vậy thì nếu một ngày thứ Hai nào đó mà đang có xu hướng đi xuống thì tức là nó cho bạn cơ hội tốt để đóng bất cứ giao dịch nào mà bạn đang định thực hiện trong tuần đó.
Hình 2.3: Hiệu ứng ngày trong tuần từ hành vi của thị trường. (S&P 500 từ năm 2007 - 06/2012).
Nguồn: Yahoo! Finance
Hãy quan sát Hình 2.3 kỹ hơn, rõ ràng thứ Sáu và thứ Hai là nghịch đảo của nhau về tần suất thiết lập mức giá cao nhất và thấp nhất trong tuần. Điều này thực sự làm nảy ra một câu hỏi tuyệt vời tiếp theo:
Nếu thứ Hai là ngày thiết lập mức giá thấp nhất hoặc cao nhất của tuần thì ngày nào điều kiện ngược lại sẽ dễ xảy ra nhất?
Hình 2.4 sẽ đem đến câu trả lời. Đó là biểu đồ phân bố tần suất của việc các ngày trong tuần thiết lập mức giá cao nhất hay thấp nhất, khi thứ Hai đã thiết lập mức giá cao nhất hoặc thấp nhất của tuần đó. Các cột màu xám biểu diễn những ngày mà thị trường thiết lập mức giá cao nhất của tuần sau khi mức giá thấp nhất đã được thiết lập vào thứ Hai. Các cột màu đen thì hoàn toàn ngược lại, là phân bố của các mức giá thấp nhất trong tuần sau khi mức giá cao nhất đã được thiết lập vào ngày thứ Hai.
Hình 2.4: Phân bố các mức giá cao nhất/thấp nhất.
Xin nhấn mạnh, thứ Sáu là ngày dễ xuất hiện điều kiện nghịch đảo với ngày thứ Hai nhất. 49% trường hợp khi mức giá thấp nhất được thiết lập vào thứ Hai thì mức giá cao nhất sẽ được thiết lập vào thứ Sáu, như trên thanh màu xám.
Những quan sát đơn giản về thị trường này dựa trên một phép diễn giải khá thận trọng về hành vi của con người, không chỉ đem đến những dữ liệu để xác nhận giả thuyết của chúng ta mà còn đưa ra cơ sở hướng dẫn chúng ta cách ra quyết định trong một xác suất thành công đã biết.
Bây giờ thì chúng ta đã biết rằng nếu mua gần giá thấp nhất ở ngày thứ Hai trong lúc thị trường đang có xu hướng giảm giá, là trạng thái rất dễ hình thành mức giá thấp nhất của tuần, thì chúng ta đã nắm một cơ hội rất tốt (78%) để có thể bán ra với giá cao nhất của tuần vào ngày thứ Năm hoặc thứ Sáu. Việc cắt lỗ ở mức giá thấp nhất của ngày thứ Hai sẽ đảm bảo an toàn cho khoản vốn của bạn.
Đối với những nhà đầu tư nào có mối quan tâm xa hơn thì nó còn cho họ một kế hoạch hành động, có nên tham gia vào thị trường vào ngày nào trong tuần hay không. Nếu thị trường đang trong tâm lý giảm giá vào ngày thứ Hai thì họ có thể mua vào một cách tự tin hơn, nhờ chọn được một điểm vào có giá thấp cho giao dịch đó.
Tình huống ngược lại thậm chí còn hay hơn. Một phần ba số ngày thứ Hai đã thiết lập mức giá cao nhất trong tuần và hơn một nửa ngày thứ Sáu sau ngày thứ Hai có giá cao nhất đó đã thiết lập mức giá thấp nhất trong tuần. Sau một ngày thứ Hai có giá cao nhất, việc chờ đến thứ Năm hoặc thứ Sáu mới mua cổ phiếu sẽ cho bạn cơ hội lớn để mua với giá thấp hơn nhiều hơn là mua vào ngày thứ Hai.
Lý do của hành vi này là các trạng thái cảm xúc thường bị cường điệu lên trên thị trường và cần phải được điều chỉnh lại. Những thông tin trong dịp cuối tuần có thể tác động làm thị trường phản ứng cực đoan vào lúc mở cửa ngày thứ Hai, tuy nhiên sau đó trong suốt tuần thì khuynh hướng tự nhiên của mọi người lại là tin vào sự ổn định chứ không phải là bất thường.
Hơn nữa, không phải tất cả mọi người đều tin vào cảm tính của số đông hoặc là phản ứng với nó theo cùng một thời điểm; vì vậy, sẽ có một vận động tự nhiên tránh khỏi tình trạng cực đoan. Bản chất có tính chu kỳ của giao dịch trong tuần chỉ là một ví dụ cho thấy bạn có thể tìm ra khả năng thực hiện một giao dịch có lãi. Tôi vừa minh họa bằng S&P 500 để cho thấy thị trường đang giao dịch như thế nào một cách tổng quát nhất. Sau khi về Việt Nam, tôi đã làm một phân tích tương tự với chỉ số VN-Index và quan sát được cùng một mẫu hình kiểu hành vi cho ngày giao dịch thứ Hai và thứ Sáu, cho dù cấu trúc của thị trường Việt Nam là hoàn toàn khác. Mỗi cổ phiếu sẽ giao dịch khác nhau, dĩ nhiên rồi, và tôi khuyên bạn nên tiến hành phân tích này cho bất cứ cổ phiếu nào mà bạn đang nắm giữ hoặc có kế hoạch đầu tư.
♦ Bán cho người mua trả giá cao nhất
Tần suất mà thị trường phá vỡ mức giá cao nhất hay thấp nhất trước đó sẽ cho chúng ta một nền tảng đặc điểm của những biến động giá sẽ có thể nhìn thấy hằng ngày. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta lùi lại một chút và tự nhắc nhở xem mình đã thực sự làm gì khi giao dịch.
Thật dễ rơi vào suy nghĩ thiển cận là thị trường chỉ gồm người mua và người bán. Nó là một sàn đấu giá khổng lồ nơi mà mọi thứ đều đang được rao bán và người ra giá cao nhất sẽ mua được. Tất cả các thị trường đều hoạt động trên cùng một nguyên tắc: Cung và cầu. Cuối cùng, nếu nhu cầu của người mua vượt qua khả năng cung cấp của người bán ở một mức giá nào đó thì giá sẽ phải tăng lên để cân bằng lượng cung hàng hóa.
Tuy nhiên nói như vậy là chưa hiểu đúng vấn đề vì giá tăng là kết quả của việc đấu giá trên thị trường, nó không phải là động lực thị trường. Trong một thị trường kiểu đấu giá như thế này, người bán đưa hàng hóa muốn bán ở giá mà họ mong muốn, còn người mua thì tuyên bố giới hạn sẵn sàng trả. Chỉ khi nào có những người mua và người bán đồng ý với nhau ở một mức giá nào đó thì giao dịch mới xảy ra.
Lý thuyết về thị trường đấu giá (AMT)54 kết hợp giá và khối lượng giao dịch vào trong phân tích để đi đến khái niệm điều kiện cân bằng của thị trường. Nó đơn giản là trạng thái của thị trường với số lượng người bán và người mua ở quanh một mức giá hợp lý. Mục đích là để hiểu được chúng ta đang ở loại thị trường nào và xác suất mà thị trường sẽ dịch chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Theo AMT thì chỉ có hai trạng thái thị trường: Giá hội tụ trong biên độ55 và theo xu hướng56. Thị trường sẽ có giá hội tụ trong biên độ nếu đang được giao dịch trong một khoảng biến động giá xung quanh một mức giá hợp lý nào đó. Nếu những thông tin mới đến và thị trường xác định rằng khoảng biến động giá của quá khứ không đủ thỏa mãn người mua và người bán thì nó sẽ rời khoảng biến động giá đó và hướng đến một mức giá mới, cao hơn hoặc thấp hơn.
54. Nguyên văn: Auction Market Theory.
55. Nguyên văn: Consolidation, chỉ tình trạng giá giao dịch dao động xung quanh một mức giá nào đó, không thể hiện rõ xu hướng tăng hay giảm.
56. Nguyên văn: Trending, chỉ tình trạng giá có xu hướng tăng hay giảm rõ ràng qua thời gian.
Các thị trường tài chính dao động giữa hai trạng thái này một cách liên tục, đầu tiên là giá hội tụ trong biên độ, sau đó là có xu hướng cho đến khi xác lập xung quanh một mức giá mới, mãi mãi không có hồi kết thúc57. Khi nào còn con người trên trái đất này thì dao động của giá và khối lượng giao dịch sẽ vẫn còn tiếp tục.
Bởi sự dao động không ngừng ấy cho nên đồ thị truyền thống biểu diễn giá theo thời gian, mặc dù là hữu dụng, lại không phải là giới hạn kiến thức cuối cùng của chúng ta về những gì thực sự xảy ra trong một phiên giao dịch. Đồ thị giá theo thời gian biểu diễn cho chúng ta thấy bốn mức giá quan trọng (mở cửa, đóng cửa, thấp nhất, cao nhất) và tổng khối lượng giao dịch, nhưng không cho biết bao nhiêu phần của khối lượng đó được giao dịch trong các tình huống sau đây:
1. Ở một mức giá cụ thể nào đó trong khoảng thời gian biểu diễn bởi một thanh đồ thị;
2. Được giao dịch ở giá đặt mua58 hay giá chào bán59;
3. Ở mức giá được giao dịch nhiều nhất.
57. Thành ngữ tiếng Latinh trong nguyên bản: Ad nauseum, ad infinitum.
58. Nguyên văn: Bid price.
59. Nguyên văn: Ask price.
Trước khi đi xa hơn, có lẽ tôi nên nói qua một chút về giá đặt mua và giá chào bán. Các cách gọi này khá dễ hiểu. Một mặt, chúng ta có giá đặt mua, đơn giản đó là giá được đưa ra bởi một người mua tiềm năng. Anh ta đưa ra một lệnh nói rằng, “Tôi sẵn sàng mua 1,000 cổ phiếu của Công ty XYZ với giá không cao hơn 1.1 đô la một cổ phiếu.” Giá đấu của anh ta là 1.1 đô la, giống hệt như trong phiên đấu giá thông thường.
Mặt khác, chúng ta có giá chào bán là cái hoàn toàn ngược lại. Đó là giá mà một người bán tiềm năng muốn bán cổ phiếu của anh ta, nội dung chính là: “Tôi sẵn sàng bán 1,000 cổ phiếu của Công ty XYZ với giá 1.12 đô la một cổ phiếu”. Trong trường hợp này, 1.12 đô la là giá chào bán và 0.02 đô la là khoảng chênh lệch giá, là sai biệt giữa giá chào bán và giá đặt mua.
Với những hiểu biết đó, bây giờ bạn có thể ngồi xuống và xem các mã chứng khoán60 để thấy thị trường bộc lộ bản thân nó như thế nào trong suốt thời gian giao dịch, đánh giá xem tương quan cung cầu sẽ thay đổi ra sao theo thời gian. Bằng cách thiết lập một đồ thị thể hiện mức giá được đặt mua và bán ở các mức khối lượng khác nhau, bạn sẽ bắt đầu cảm nhận được những nhịp điệu của thị trường.
60. Nguyên văn: Ticker, là bảng hiển thị ký hiệu chứng khoán, giá cuối cùng, số lượng mua bán trên thị trường, thường treo ở sàn giao dịch hay xuất hiện trên các website của các công ty môi giới chứng khoán.
Tiến xa thêm một bước nữa, bạn có thể thiết lập một luồng thông tin về thời gian và lượng bán, là công cụ sẽ cho bạn biết những giao dịch nào vừa xảy ra trong phiên. Luồng thông tin này sẽ cho bạn biết có bao nhiêu cổ phiếu được giao dịch, ở giá nào và giá đó là giá đặt mua, giá chào bán hay là mức giá ở giữa hai giá trên. Nếu quan sát đủ lâu bạn sẽ nhận ra là các giao dịch xảy ra ở các mức giá không phải là giá đặt mua cũng không phải là giá chào bán; có nhiều lý do để điều đó xảy ra, nhưng gần như toàn bộ các giao dịch – hơn 99.9% – xảy ra ở mức giá nằm giữa giá đặt mua và giá chào bán.
Tôi không khuyên giao dịch ngay bằng tiền thật. Thay vào đó, hãy sử dụng một tài khoản giao dịch ảo, như là tài khoản vẫn được dịch vụ môi giới của bạn hay Yahoo! Finance cung cấp. Hãy thử xem nó là một trò chơi có mục tiêu và chơi một thời gian. Đừng chuyển ngay sang giao dịch bằng tiền thật chỉ sau ít ngày; bây giờ giao dịch đã phức tạp hơn rất nhiều so với trước đây do sự tiến bộ của các hệ thống giao dịch tự động (HFT)61 và các sàn giao dịch chéo62. Các nguyên tắc vẫn như vậy, nhưng cảm xúc của người chơi trong hai tình huống sẽ hoàn toàn khác nhau. Chúng ta sẽ xem xét lý do tại sao và quá trình đó diễn ra như thế nào ở phần sau.
Trong khi bạn thực hành để hiểu cách đặt lệnh, cả lệnh mua và lệnh bán, tham gia vào thị trường thì bạn cũng chuyển từ một tay non nớt cố tìm ra khả năng dự báo thị trường thành một tay chuyên nghiệp hiểu rằng thị trường là không thể dự báo được, chỉ có xác suất mà thôi – và xác suất đó phải liên tục được đánh giá lại theo thời gian. Trong những giao dịch ban đầu này, bạn có thể bắt đầu đặt ra các quy tắc của riêng mình về quy mô một giao dịch, thời gian nắm giữ...
Hơn nữa, bạn cũng có cảm nhận về sức mạnh của thị trường và các diễn biến sẽ đến theo từng sóng, đôi khi hình thành chậm chạp sau một thời gian khá dài gần như không có giao dịch và có lúc đến ào ạt như dòng thác, nhanh đến nỗi bạn chẳng kịp phản ứng gì. Tuy nhiên đấy không phải là hành vi chủ yếu của thị trường.
Trong hầu hết thời gian, thị trường trải qua trạng thái giá hội tụ trong biên độ. Đôi khi khoảng hội tụ đó là rất rộng hoặc đôi khi cũng rất hẹp, phụ thuộc vào khung thời gian xem xét và các điều kiện của thị trường. Hơn nữa, giá hội tụ trong biên độ không chỉ là trạng thái chủ yếu của thị trường xét theo thời gian mà đó còn là trạng thái mà phần lớn khối lượng giao dịch xảy ra. Theo phép thống kê thông thường, thị trường sẽ giao dịch 68% khối lượng trong khoảng ±1 độ lệch chuẩn63 khỏi mức giá hợp lý của thị trường, là mức giá trung bình của khoảng biến động. 32% khối lượng còn lại được giao dịch vào những lúc thị trường đang trong trạng thái có xu hướng đi đến một khoảng giá hội tụ khác.
61. Nguyên văn: High frequency trading.
62. Nguyên văn: Cross-linked exchanges.
63. Nguyên văn: Standard deviation, là thuật ngữ thống kê.
Giá trị trung bình của khoảng biến động rất có ý nghĩa đối với tôi. Tôi tin tưởng vào việc phân loại các giao dịch trong một chu kỳ đồ thị bằng cách xác định giá trung bình của khoảng biến động và tìm xem bao nhiêu phần khối lượng giao dịch được thực hiện trên và dưới mức giá đó. Thông tin đó cho biết một dấu hiệu quan trọng về cảm xúc của thị trường, đầu cơ giá lên hay đầu cơ giá xuống. Nếu khối lượng giao dịch ở trên mức giá trung bình là nhiều hơn thì có nghĩa là có nhiều người mua hơn người bán trên thị trường và mức giá trung bình sẽ có khả năng tăng chứ không giảm, và ngược lại.
Có một điều các bạn cần lưu ý trong giao dịch, đó là hầu hết khối lượng giao dịch là không quan trọng. Chúng chỉ là nhiễu, các yếu tố thị trường đang giằng co qua lại để chờ một thay đổi về nhận thức của thị trường. Khi sự thay đổi đó xảy ra – chẳng hạn như khi có một tin mới được đưa ra – thì một nhóm người mua và người bán mới sẽ tham gia thị trường. Nếu đấy là phản ứng theo hướng giá xuống thì người bán sẽ ép giá64, bán ra với giá đặt mua trong lo sợ. Trong ngắn hạn, khối lượng đặt lệnh là cực lớn, áp đảo số lượng đặt mua hiện tại và làm cho giá xuống thấp hơn. Khi giá xuống thấp, việc bán ra sẽ tiếp tục cho đến khi giá đạt đến điểm mà lượng mua đủ vượt qua lượng bán và giải tỏa nỗi lo lắng của thị trường.
Nếu đấy là phản ứng của thị trường theo hướng giá lên thì những người mua mới cũng làm tương tự. Quá trình đó được gọi là nâng giá65. Khi lượng mua áp đảo lượng bán hiện tại thì người bán sẽ rút lệnh bán của mình lại với hy vọng sẽ khiến người mua phải trả giá cao hơn. Tương tự như trên, sự dịch chuyển giá này sẽ dừng lại cho đến khi đạt được trạng thái cân bằng khi các lượng bán bắt đầu xuất hiện nhiều để chốt lời.
Để minh họa chúng ta hãy quan sát bộ dữ liệu giá của ETF mô phỏng chỉ số S&P 500 (NYSE: SPY). Bảng 2.4 và 2.5 thể hiện một ví dụ của việc phân tích khối lượng trong một giai đoạn giá hội tụ trong biên độ (hình 2.4) so với giai đoạn có xu hướng (bảng 2.5). Đầu tiên hãy nhìn vào bảng 2.4 của giai đoạn giá hội tụ trong biên độ, giá đóng cửa và mở cửa trung bình là gần như nhau, cho thấy mức 116.1 là rất gần với mức giá hợp lý của thị trường. Khoảng biến động trung bình là 7.9 điểm, làm nên giá hội tụ trong biên độ là từ 112 đến 120. Chú ý rằng khối lượng trung bình trong giai đoạn này là trên 300 triệu cổ phiếu giao dịch mỗi ngày.
64. Nguyên văn: Hit the bid.
65. Nguyên văn: Lift offers.
Bảng 2.4: Phân tích AMT của mã SPY trong giai đoạn giá hội tụ năm 2011 theo dữ liệu tuần.
Bảng 2.5: Phân tích khối lượng AMT - SPY.
Khối lượng giao dịch:
Bảng 2.5 cho chúng ta thấy rằng giá vượt qua mức 120 đô la trong suốt tuần 10 tháng 10 năm 2011, mặc dù khối lượng giao dịch rất nhỏ. Đó là thời điểm SPY chuyển sang giai đoạn tăng liên tiếp trong ba tuần kế tiếp trong khoảng dao động từ 120 - 128 đô la. Với 128 đô la là mức giá cao nhất và 120 đô la là mức giá thấp nhất (dữ liệu không trình bày ở đây).
Điểm đáng ghi nhớ ở đây là sau khi một khoảng giá hội tụ trong biên độ kéo dài hai tháng với 2.4 tỷ cổ phiếu giao dịch đã không thể dịch chuyển thị trường thì chỉ cần có 24% của khối lượng đó đã đưa thị trường đi lên. Hơn nữa, nếu chúng ta đi sâu vào các con số này hơn nữa thì có thể nhận ra rằng hầu hết khối lượng đó là giao dịch ở các mức giá hội tụ trong biên độ trong ngày và khối lượng cần để nâng giá chỉ là một phần nhỏ của khối lượng giao dịch mỗi ngày. Khối lượng tổng không phải là vấn đề, cho dù nó có thể hữu dụng, mà chính các khối lượng có thể ép giá hay nâng giá mới thực sự làm thị trường dịch chuyển.
Có nhiều phần mềm có khả năng tổng hợp các khối lượng giao dịch ở các mức giá đặt mua và mức giá chào bán và tính toán các mức chênh lệch. Dữ liệu được biểu diễn hoặc là số âm hoặc là số dương, cho chúng ta biết người mua hay người bán đang chiếm ưu thế trên thị trường. Chính sự chênh lệch về khối lượng này cho chúng ta thấy một dòng chảy rõ ràng của các lệnh trên thị trường với khối lượng mua và khối lượng bán ròng ở mỗi mức giá. Những thông tin này vô cùng hữu dụng trong việc giúp chúng ta xác định thời điểm mở hoặc tất toán giao dịch.
Khó mà có được dữ liệu này nếu không đăng ký một dịch vụ cung cấp dữ liệu hay mua một phần mềm chuyên dụng. Hầu hết các công ty môi giới đều có thể chào bán cho bạn dữ liệu giao dịch theo thời gian với khả năng vẽ đồ thị nhưng nó được tích hợp không thực sự hợp lý cho lắm. Như vậy, một lần nữa, tôi trở lại với đề nghị là hãy quan sát thị trường, phân tích từng con số chi tiết liên quan đến mức giá và khối lượng giao dịch, quan sát xem các lệnh chảy vào thị trường như thế nào và đồ thị nào được vẽ dựa trên các thông tin đó.
Một số người nhận ra giá trị trong loại thông tin có thể gọi là bảng giá và khối lượng khớp lệnh chi tiết66 (ở đây chúng tôi gọi tắt là bảng giá cấp 2 – ND), thường là một đề xuất dịch vụ cao cấp của dịch vụ môi giới. Bảng giá cấp 2 không chỉ cho bạn thấy khối lượng ở các mức giá đặt mua và chào bán mà còn đưa ra cho bạn một chuỗi giá đặt mua và chào bán trong suốt toàn bộ dải biến động giá.
66. Nguyên văn: Level 2 quoting.
Trong hình 2.5, giá của cổ phiếu được giao dịch trong khoảng giữa 9.90 đô la và 10 đô la cho một cổ phiếu. Có nhiều lệnh bán ở mức giá 10 đô la và khá ít lệnh mua ở mức giá 9.90 đô la hay 9.80 đô la. Như vậy, nếu người bán bước vào thị trường và bắt đầu ép giá thì khả năng cao là họ có thể đưa giá xuống đến mức 9.70 đô la mà không gặp khó khăn gì nhiều. Trong khi đó, để bên mua có thể nâng giá vượt qua mức 10 đô la thì họ phải mua với khối lượng gấp năm lần những gì người bán phải làm ở trên để giảm giá xuống dưới mức 9.80 đô la.
Hình 2.5: Khối lượng đặt lệnh chi tiết ở các mức giá.
Như vậy, nếu trong một khoảng thời gian xác định, bạn nhận thấy khối lượng sai biệt lớn hơn nhiều so với cơ cấu khối lượng giao dịch ở mức giá đặt mua/chào bán thì điều đó sẽ làm tăng xác suất xuất hiện một dịch chuyển vượt lên trên hoặc xuyên thủng một mức cản hoặc kháng cự nào đó.
Bảng giá cấp 2 có ý nghĩa hơn rất nhiều vào năm hay sáu năm trước, hiện nay thì cái gọi là các sàn giao dịch ngoài thị trường67 đã thu hút một lượng cung đáng kể và không được phản ánh trên bảng giá cấp 2 bởi lệnh giao dịch của chúng được những nhà giao dịch lớn đặt ra trong điều kiện cố ý muốn che giấu sự tồn tại của chúng. Vì lý do đó và nhiều lý do khác mà thị trường bây giờ thậm chí còn khó dự đoán hơn nữa. Chuyện nên làm là đọc các trạng thái của thị trường và phản ứng theo đó, chứ đừng cố gắng đoán – bởi đấy là cách làm ngờ nghệch. Như chúng ta đã thảo luận ở những phần trước, không xét đến sự tác động của những gì xảy ra trong khung thời gian của các chu kỳ đồ thị khối lượng. Ngược lại, lý thuyết AMT xem xét điều đó và đem đến nhận thức về cách mà thị trường vận động trong thực tế.
67. Nguyên văn: Dark pool, là sàn hay nhóm giao dịch riêng biệt, tách khỏi luồng giao dịch chung của thị trường, chỉ có một số ít người mua và người bán tham gia với mục đích thực hiện các giao dịch rất lớn, tránh để chúng tác động đến thị trường chung, gây bất lợi cho bên bán (do khi bán lớn có thể làm chứng khoán giảm giá).
♦ Chia nhỏ các thông tin
Việc xem xét các trạng thái giá hội tụ trong biên độ hay có xu hướng của thị trường đều ngụ ý cùng một ý đồ là nghiên cứu các mức hỗ trợ hay kháng cự, là những yếu tố luôn xuất hiện trong mọi hình thức phân tích kỹ thuật. Sự khác biệt ở đây là AMT đoạn tuyệt với việc dự báo được tương lai. Nó không tìm kiếm các mô hình dự báo. Thay vào đó, nó quan tâm đến việc đánh giá và liên tục đánh giá lại trạng thái của thị trường ngay cả trong thời gian giao dịch và xác suất mà ngưỡng hỗ trợ hay kháng cự sẽ xuất hiện trong một khoảng giá nhất định nào đó. Sự khác biệt khá nhỏ, nhưng điều tinh tế ở đây chính là một nội dung quan trọng trong lợi thế của phương pháp này so với phân tích kỹ thuật truyền thống.
Nhà giao dịch tìm thấy các gợi ý cho họ từ đó. Một trong những điều điên rồ nhất của những tay giao dịch non nớt là quan sát thị trường để chờ cho giá chạy về mức mà họ nghĩ là nó phải như thế. Từ quan điểm tâm lý học, họ cố gắng kiểm soát thị trường thay vì lắng nghe nó. Họ có thể dính vào các hình tượng hóa vừa phức tạp vừa tế nhị mà không hề nhận ra.
Họ cảm thấy các thông số cơ bản đã khớp rồi, tuy nhiên, khi nhiều giờ hay thậm chí nhiều ngày đã trôi qua mà vẫn không có một biến chuyển nào về giá và họ không chịu đứng về bên này hoặc bên kia của giao dịch. Đối với các thị trường đầy rủi ro thì những nhà giao dịch có hiểu biết sẽ muốn chạy theo một xu hướng đang diễn ra thay vì là người tạo nên xu hướng ấy. Đấy là một trong các lý do đằng sau hành vi của thị trường. Mọi người ai cũng muốn có mặt trên chuyến xe và không ai muốn bị bỏ lại, hay tệ hơn nữa là bị đẩy lên lề đường. Nhưng nếu bạn cố gắng ép thị trường chạy theo con đường mà bản thân bạn hình dung thì điều đó sẽ nhanh chóng làm tiền của bạn bốc hơi.
Có nhiều cách để nhận ra chuyện phá vỡ hay xuyên thủng các mức hỗ trợ hay kháng cự, theo thứ tự đó, tuy nhiên cho dù là phương pháp nào chăng nữa thì kết quả luôn luôn giống nhau: Khối lượng giao dịch mới sẽ đi vào thị trường nhanh chóng và giá chứng khoán trước đó sẽ bắt đầu biến động nhanh rời khỏi các mức hỗ trợ/kháng cự nằm về hai phía của khoảng giá hội tụ trong biên độ68.
68. Chỉ các mức giá mà ở đó xu hướng bị chặn lại trước khi rời khỏi trạng thái giá hội tụ trong biên độ hiện tại và hình thành xu hướng rõ ràng, các mức này sẽ nằm bên dưới hoặc nằm trên khoảng biến động giá hiện tại, tùy vào xu hướng đang nói đến là xu hướng tăng hay xu hướng giảm.
Mức chênh lệch về khối lượng cực kỳ có ích vào những thời khắc đầu tiên này, khi mà sức của thị trường dần đang hình thành cả về giá và khối lượng giao dịch. Đôi khi, cả một khối lượng giao dịch lớn hơn bình thường bất ngờ xuất hiện trên bảng giá chứng khoán.
Giả sử rằng một cổ phiếu nào đó đang được giao dịch trong mức thanh khoản rất thấp, từng lô 100 đến 300 cổ phiếu mua đi bán lại với rất ít tiền trong nhiều giờ và khối lượng đặt lệnh mua và bán hầu như không thay đổi đáng kể. Cuối cùng lại có ai đó mua phần lớn lượng cung ở một mức giá nào đấy trong một giao dịch lớn và thị trường bắt đầu phản ứng lại. Nó giống như tiếng hét trước khi tiếng còi khai cuộc của một vòng đua ngựa hay tiếng hô trước cú giao bóng. Một khi sự kiện đầy thôi thúc đó đã xảy ra rồi thì mọi phản ứng khác đều là có thể và hàng loạt các phản ứng sẽ diễn ra. Thời điểm đưa đến một cuộc bứt phá là thời điểm mà thị trường nói với bạn nhiều nhất, nếu bạn chịu khó lắng nghe.
Chuyện này đưa tôi tới một khái niệm gọi là “khoảng mở cửa”69. Khái niệm này đã có từ lâu và nó được định nghĩa là khoảng biến động giá đầu tiên trong ngày. Đối với những nhà giao dịch lướt sóng, nói chung nó là khoảng từ 5 đến 30 phút đầu tiên của một phiên giao dịch, nhưng khái niệm này có thể được mở rộng ra thành ngày thứ Hai nếu chúng ta nhìn vào đoạn thời gian là tuần, điều này nhắc chúng ta trở về với các thảo luận liên quan đến tác động của các ngày trong tuần đã được nói đến ở đầu chương.
Mức giá cao nhất và thấp nhất của khoảng thời gian đó được gọi là khoảng mở cửa. Lý thuyết AMT sẽ có thể phát biểu rằng thị trường đang hội tụ xung quanh một mức giá hợp lý trong một khoảng giá nhất định.
Xa hơn nữa, khoảng mở cửa có thể được định nghĩa rộng hơn, là một tình trạng giá hội tụ trong biên độ của thị trường theo lý thuyết AMT.
Khoảng mở cửa cho phép bạn xác định một mức giá mà từ đó bạn có thể gia nhập thị trường cho dù ở trong trạng thái mua hay bán. Khoảng mở cửa là khu vực giá mà phần lớn các giao dịch sẽ xảy ra nhưng lại không tác động đáng kể lên giá. Nói theo cách của Shakespeare thì đây là thời điểm mà “âm thanh và cuồng nộ chẳng nói lên điều gì”70. Nói theo ngôn ngữ của phân phối chuẩn trong thống kê thì 68% các khối lượng sẽ trao đổi trong khoảng mở cửa này.
69. Nguyên văn: Opening range.
70. Nguyên văn: “Sound and fury signifying nothing”, trích từ vở kịch Macbeth của Shakespeare.
Hãy xem thứ Hai là khoảng mở cửa của một tuần giao dịch. Trình bày trong hình 2.6 là phân bố của khoảng giá cho tất cả các ngày thứ Hai trong năm 2011 cho đến giữa tháng 11 đối với S&P 500 (NYSE: SPY). Hồ sơ lịch sử của thị trường cho thấy chi tiết giá lẫn quy mô, tần suất biến động giá của bất cứ ngày thứ Hai nào. Chúng ta có thể dùng công cụ này để so sánh biến động giá hiện tại với những gì đã xảy ra trước đây để có thể có tư duy tốt hơn về trạng thái của thị trường: Giá hội tụ trong biên độ, có xu hướng hay sắp sửa vượt ngưỡng71 hoặc đảo chiều72.
71. Nguyên văn: Breakout, chỉ trạng thái ở đó biến động giá xuyên thủng một mức cản hay kháng cự để thay đổi nhanh theo xu hướng tăng hay giảm đang chờ xác lập để đi đến một trạng thái giá hội tụ trong biên độ mới.
72. Nguyên văn: Reverse, chỉ trạng thái ở đó biến động giá không thể xuyên thủng một mức cản hay kháng cự, và quay về với trạng thái giá hội tụ trong biên độ trước đó.
Hình 2.6: Biểu đồ phân phối tần suất các khoảng mở cửa tuần - SPY (2011).
Giá trị trung bình của phân bố này là 1.92 điểm, có nghĩa là trung bình vào ngày thứ Hai thì chênh lệch bình quân giữa mức giá cao nhất và thấp nhất của SPY là 1.92 đô la. Vào bốn tuần sau, khi các dữ liệu này được tổng hợp thì khoảng biến động giá của các ngày thứ Hai lần lượt là 1.7; 1.36; 1.74 và 1.81 đô la. Các mức giá đang thu hẹp biên độ dao động lại, điều đó có nghĩa là bạn có thể kỳ vọng các mức biến động nhỏ hơn trước khi các đợt đảo chiều xảy ra và nên hạ thấp bớt những kỳ vọng của bạn ở các giao dịch sắp tới.
Việc xác định khoảng mở cửa là tâm điểm của phương pháp giao dịch của tôi. Nó là một trong những nguyên tắc cốt lõi mà tôi đã chỉ ra ở phần trước. Khi làm như vậy, chúng ta có thể tối thiểu hóa những thông tin nhiễu từ thị trường và tiến gần đến việc trả lời câu hỏi sau: “Xác suất mà giá ở thanh giá kế tiếp sẽ tăng hay giảm là bao nhiêu phần trăm?” Bạn chỉ có thể kiếm được tiền trên thị trường bằng cách tận dụng các ưu thế của sự biến động giá, còn giao dịch trong tình trạng giá hội tụ trong biên độ thì sẽ khó khăn và ít chắc chắn hơn rất nhiều. Chính sự chênh lệch73 trong nhận thức giữa giá giao dịch và giá trị của cổ phiếu trong ngắn hạn của những người tham gia thị trường đã đem đến năng lượng cho thị trường. Xác định được khi nào thì năng lượng đó đủ lớn để dẫn đến thay đổi chính là việc mà khoảng mở cửa sẽ làm cho chúng ta.
73. Nguyên văn: arbitrage.
Nói cách khác, khi đó thị trường đang giao dịch xung quanh mức giá X, nhưng đám đông đa số tin rằng cần phải giao dịch ở mức giá X cộng với 50 xu. Sự khác biệt giữa các mức giá đó, chênh lệch giao dịch – trong trường hợp này là 50 xu – là cơ hội để kiếm tiền. Tất cả các hoạt động kinh tế đều dựa trên sự cảm nhận bất cân xứng về giá trị này. Nếu tất cả mọi người đều xác định giá trị là bằng nhau thì sẽ chẳng có ai giao dịch cả. Các thị trường vốn cũng y như thế, chỉ là chúng liên quan đến nhiều người đến nỗi các biến động của chúng trở nên khó hiểu vì tất cả các mục đích khác hẳn nhau mà mỗi cá nhân gắn vào cảm nhận về giá trị của mình.
Khoảng mở cửa khi được kết hợp với mức giá đóng cửa của ngày hôm trước sẽ cho chúng ta biết được liệu thị trường đang trong trạng thái tăng giá hay giảm giá. Hình 2.7 cho thấy một khoảng mở cửa trong thực tế và chúng ta sẽ xem xét nó như một ví dụ về cách giao dịch dựa vào khoảng mở cửa. Ba mươi phút đầu tiên của thị trường được ghi nhận và cho chúng ta thấy mức độ nhiễu nhất định của thị trường.
Mức giá cao nhất và thấp nhất của khoảng mở cửa sẽ lần lượt trở thành ngưỡng kháng cự và ngưỡng hỗ trợ tiềm năng trong ngày. Mỗi thanh giá biểu diễn cho năm phút. Giá đóng cửa ngày hôm trước nằm trong khoảng mở cửa (bên phía trái, xa nhất của đồ thị), không cho chúng ta một tín hiệu nào về tình trạng tăng giá hay giảm giá rõ rệt.
Hình 2.7: Khoảng mở cửa 30 phút đầu tiên của ngày.
Hình 2.7 là đồ thị thể hiện giá cổ phiếu xoay quanh khoảng mở cửa thêm khoảng 20 phút trước khi bị bán mạnh ra sau đó, phá vỡ cả mức giá thấp nhất của khoảng mở cửa lẫn mức giá thấp nhất của ngày hôm trước. Theo chiến lược truyền thống dựa vào khoảng mở cửa, chúng ta sẽ bán khống cổ phiếu này dựa trên mức giá thấp nhất của khoảng mở cửa, là giao dịch an toàn, và mua lại vào cuối ngày để tất toán trạng thái bán khống ban đầu.
Cũng chú ý rằng trong 15 phút cuối cùng của phiên giao dịch giá đã rơi nhanh, điều đó cho thấy các nhà đầu tư tổ chức, là những người quyết định giá cho thời điểm đóng cửa mỗi ngày, đã bán ra.
Ví dụ trên tập trung vào khoảng thời gian rất ngắn nhưng nguyên tắc của khoảng mở cửa cũng đúng cho khung thời gian dài hơn. Hình 2.8 là đồ thị giá của Apple (AAPL) từ cuối 2003 đến cuối 2005. Khoảng mở cửa là tháng 01. Giá đóng cửa của năm 2003 là 21.37 đô la một cổ phiếu.
Hình 2.8: Ví dụ khoảng mở cửa như một thanh giá - AAPL (dữ liệu tháng 2003 - 2005).
AAPL mở cửa đầu năm ở giá 21.55 đô la cho một cổ phiếu. Khoảng mở cửa, được định nghĩa bởi các giao dịch trong tháng 01, từ 21.28 đến 24.84 đô la một cổ phiếu. Người ta có thể sử dụng tháng đầu năm như là khoảng thời gian mở cửa cho đoạn thời gian năm, cũng giống như chúng ta lấy thứ Hai làm khoảng thời gian mở cửa của tuần, hay 30 phút đầu tiên như là khoảng mở cửa của ngày. Có những năng lượng dồn nén trong thị trường do hiệu ứng ngày tháng74. Đối với hiệu ứng tháng 01, các giao dịch mới sẽ được thiết lập vì đó là khởi đầu cho năm tài khóa mới và điều này ảnh hưởng đến hành vi giao dịch của mọi người.
Việc xác định khoảng mở cửa nói trên đã giúp tôi xác định được tâm lý tăng giá của thị trường bởi vì khoảng mở cửa đã nằm trên mức giá cao nhất của tháng trước. Do khoảng mở cửa được chọn là một tháng cho nên chúng ta cần nhìn vào thanh giá ngay trước đó và chú ý vị trí của mình so với thông tin đấy.
Như vậy, tôi không nên giao dịch AAPL chừng nào khoảng mở cửa bị phá vỡ bằng cách này hay cách khác, dù là lên hay xuống. Trong suốt tháng 02, cổ phiếu lên xuống bên trong khoảng mở cửa. Vào ngày 04 tháng 03, AAPL xuyên thủng mức giá cao nhất trong khoảng mở cửa với khối lượng giao dịch bằng 2.5 lần khối lượng giao dịch trung bình của tháng 01 và tháng 02, và đóng cửa ở mức 25.16 đô la. Ngày sau đó nó tăng bùng nổ với 5.5 lần khối lượng giao dịch trung bình và kết thúc ở mức 26.74 đô la.
74. Nguyên văn: calendar effect, ngụ ý các tác động khác nhau của các ngày trong tuần hay tháng trong năm lên các biến chuyển của thị trường, như là trong phần trước tác giả đã phân tích.
Đây là những mức chênh lệch về khối lượng giao dịch rất lớn. Đó là sự bắt đầu cho đà tăng giá chóng mặt của Apple trước khi đạt đỉnh điểm khoảng 200 đô la cho một cổ phiếu vào tháng 12 năm 2007. Một điểm nữa mà ví dụ này cho thấy là, khoảng mở cửa này có thể được xem là một thanh giá độc lập. Chúng ta sẽ thực hiện việc đó sau khi định nghĩa lại khái niệm khoảng mở cửa theo cách giàu sắc thái hơn.
Không phải tất cả các cổ phiếu đều giống AAPL khi có thể mang lại cho các nhà đầu tư mức lời 900% nhưng khoảng mở cửa là một công cụ mạnh để xác định thời điểm mà bạn tham gia thị trường, bất kể bạn muốn kiếm 1% hay 100% trên giao dịch đó.
♦ Những bước đi hữu hạn trong thị trường vô hạn
Lúc này chúng ta đã được trang bị khái niệm khoảng mở cửa để xác định thời điểm tham gia thị trường, và chúng ta cũng biết rằng khả năng mức giá trong ngày sẽ phá ngưỡng cao nhất hoặc thấp nhất của ngày hôm trước là 85%, thậm chí là 90% trong các thị trường không ổn định.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét xem mức độ biến động là bao nhiêu và xác định được mức lợi nhuận kỳ vọng, nếu có, từ giao dịch. Mức độ bứt phá phụ thuộc vào khối lượng giao dịch, là cái tác động lớn đến mức độ biến động của bất cứ thay đổi theo xu hướng nào như chúng ta đã thấy.
Hình 2.9: Phân phối giá trên mức mở cửa.
Để đánh giá được bứt phá sẽ đi bao xa kể từ chính mức giá mở cửa thì cần xem lại những gì đã xảy ra với cổ phiếu đó trong quá khứ. Hình 2.9 là biểu đồ dữ liệu của ba năm quá khứ giao dịch của SPDR S&P 5000 ETF (SPY). Thanh giá cho biết phần trăm số ngày mà mức giá cao nhất vượt quá giá mở cửa và vượt bao nhiêu. Trung vị của phân bố này là 0.84, có nghĩa là có 50% số lần bứt phá đến mức đó thì SPY ngừng tăng giá. Vùng diện tích đằng sau các thanh giá là xác suất tích lũy của sự kiện giá đạt đến mức giá cao nhất.
Bảng 2.6: Phân phối tần suất giá chênh lệch so với mức giá mở cửa.
Hình 2.9 thể hiện số lần mà chênh lệch giữa mức giá cao nhất và mức giá mở cửa, trong trường hợp này là 0.2 điểm. Bảng 2.6 biểu diễn cùng một dữ liệu nhưng dưới dạng bảng. Biểu diễn dữ liệu này dưới hai dạng khác nhau là có ý nghĩa, bởi chúng nói cho chúng ta các khả năng tổ chức lại sao cho phù hợp với phong cách của mình. Tôi thích nhìn các con số, còn bạn lại có thể không. Hãy xây dựng công cụ sao cho phù hợp nhất với mình.
Dữ liệu này trở thành một “lá bùa” để bạn sử dụng khi giao dịch. Nó cũng đưa ra những dự báo với mức sai số nhất định. Những tính toán này có thể được thực hiện trên các dữ liệu miễn phí từ nhiều nguồn khác nhau như Yahoo! Finance chẳng hạn và nhập thẳng vào bảng tính. Nếu bạn muốn thực hiện một phép hồi quy thống kê phức tạp hơn thì hãy đến gặp tôi, tuy nhiên quan điểm chung của tôi là vẫn đang có sẵn các công cụ mạnh ngay trong tầm tay của bạn và bạn không cần phải là một tiến sĩ chuyên ngành thống kê.
Chỉ đơn giản là nhập một tập dữ liệu thật lớn vào một chương trình bảng tính như Excel sau đó thì phép vẽ phân bố tần suất75 trên dữ liệu đó sẽ cho bạn một hình ảnh rõ ràng của các gợi ý về khả năng kiếm lợi khi giao dịch.
75. Nguyên văn: histogram distribution.
Kiểu thống kê này giúp bạn ra quyết định thoát khỏi trạng thái hiện tại cũng như kiểm soát khả năng giá đảo chiều. Chúng ta sẽ bàn đến cả hai khái niệm này ở phần sau của cuốn sách.
Công cụ tiếp theo mà bạn cần là phân bố ngược lại: Giá mở cửa so với giá thấp nhất. Cả hai số liệu thống kê này đều cho biết xác suất của việc SPY thay đổi một mức xác định hằng ngày. Như vậy bây giờ bạn đã biết là trung bình bất cứ thay đổi nào lớn hơn 0.93 đô la trên mức giá mở cửa và 0.95 đô la dưới mức giá mở cửa đều có xác suất xảy ra thấp. Hình 2.10 biểu diễn phân bố của biến động giá ở dưới mức mở cửa.
Hình 2.10: Phân phối xác suất của các mức giá giảm so với giá mở cửa - SPY.
Chú ý mức độ thường xuyên của việc mức giá thấp nhất cũng là mức giá mở cửa trong ví dụ này: Hơn 20% số lần. Điều này có nghĩa là có một trong số năm ngày mở cửa ở mức giá mà sau đó chắc chắn sẽ bị bứt phá76. Nhân tiện, điều tương tự xảy ra với việc mức giá cao nhất là mức giá mở cửa, là sự kiện xảy ra trong 18.5% số lần.
76. Nguyên văn: reverse.
Hãy quay trở lại với khái niệm ngày giao dịch trong biên độ và thảo luận ở đây. Mỗi ngày hay mỗi thanh giá lại cho bạn cơ hội để đặt câu hỏi: Đâu là xác suất của việc thanh giá kế tiếp sẽ vượt qua mức cao nhất hay thấp nhất của thanh ngay trước đó. Chúng ta đã nói về chuyện này trong khung thời gian là ngày. Trong dữ liệu sử dụng ở hình 2.10, biểu diễn 384 ngày giao dịch của ETF SPY, 14.6% số ngày là các ngày giao dịch trong biên độ, có nghĩa là cả mức cao nhất và thấp nhất của ngày hôm trước đều không bị phá vỡ. Ngược lại, chỉ có 5.8% trên tổng số các ngày đó cho thấy là cả mức cao nhất và thấp nhất đều bị phá vỡ trong cùng một ngày. Bây giờ chúng ta sẽ vẽ bức tranh giao dịch của cổ phiếu đó trong ngày. Chúng ta biết rằng, trung bình thì nó không thay đổi nhiều hơn 1.00 đô la so với giá mở cửa và 85% số lần nó sẽ phá vỡ mức giá cao nhất hay thấp nhất của ngày hôm trước. Bảng 2.7 cho biết thêm một số thống kê liên quan đến dữ liệu này.
Bảng 2.7: Các con số thống kê của SPY theo dữ liệu ngày.
Khái niệm khoảng giao dịch bình quân ở đây chính là trung bình chênh lệch giữa mức giá cao nhất và mức giá thấp nhất trong ngày. “Khả năng phá vỡ mức cao nhất ngày hôm trước” cho biết xác suất tính bằng % của việc mức giá cao nhất của ngày hôm trước bị phá vỡ, trong khi đó thì “khả năng phá vỡ mức thấp nhất ngày hôm trước” cho biết xác suất tính bằng % của việc mức giá thấp nhất của ngày hôm trước bị phá vỡ. Khả năng mức giá mở cửa bằng mức giá cao nhất trong ngày là xác suất của việc mức giá mở cửa cũng là mức giá cao nhất trong ngày và mức độ thay đổi của giá so với mức giá đó sẽ diễn ra trong ngày (tức là giá sẽ rớt 1.96 đô la vào một lúc nào đó trong ngày hôm đấy). Khả năng mức giá mở cửa bằng mức giá thấp nhất trong ngày cho biết các thông tin tương tự nhưng cho mức giá cao nhất. “Phá vỡ cả giá cao nhất và thấp nhất trong ngày” là xác suất của việc cả hai mức giá cao nhất và thấp nhất cùng bị phá vỡ trong ngày, cùng với khoảng giá trung bình của ngày hôm đó.
Chúng là các phép thống kê có sức mạnh không ngờ. Chúng cho bạn biết gần như tất cả mọi thứ cần biết về các biến đổi của cổ phiếu trong từng ngày. Bạn biết rằng trong 94% số lần sau khi mức giá cao nhất hoặc thấp nhất phá vỡ thì cái còn lại (tức mức giá cao nhất/thấp nhất) sẽ không bị xuyên thủng trong ngày hôm đó. Hơn nữa, nếu cổ phiếu mở cửa ở mức giá nằm ngoài khoảng dao động của ngày hôm trước thì xác suất cao là nó sẽ đảo chiều trong ngày hôm đó, như vậy là bạn có thể có cơ hội nắm lấy một khoản lãi dễ dàng trong ngày.
Khi tiến hành các nghiên cứu như thế này trên dữ liệu giao dịch hằng tuần và kết hợp chúng với kết quả của các ngày thì chúng ta có thể nhận ra những ngưỡng hỗ trợ hay kháng cự mạnh tiềm năng. Ví dụ như, khoảng biến động giá trung bình trong tuần của SPY là 4.20 đô la. Như vậy, nếu chúng ta xem xét ba ngày liên tục, trong đó các lệnh mua đã được nâng lên và cổ phiếu đã dịch chuyển 2.20 đô la trên giá mở cửa (trung bình là 2.03 đô la) và khoảng biến động giá của tuần đến lúc này là 4.00 đô la, thì khả năng rất cao là sẽ không còn kiếm được nhiều tiền trong biến động này nữa và mức giá cao nhất của tuần đã đến rất gần.
Đây chưa phải là điểm cuối của phương pháp giao dịch này mà mới chỉ là bắt đầu. Để nhớ lại, những gì chúng ta tiến hành ở đây là sáu bước sau đây:
1. Thu thập dữ liệu lịch sử của cổ phiếu đang quan tâm.
2. Thực hiện các thống kê cơ bản về các biến động của nó để nắm rõ các giới hạn trong một ngày nào đó theo tương quan so sánh với mức giá mở cửa.
3. Tính toán xác suất phá vỡ các mức cao nhất hoặc thấp nhất của ngày trước.
4. Tính toán mức độ bứt phá của cổ phiếu nếu nó đã phá vỡ mức giá cao nhất hay thấp nhất.
5. Lưu ý các cơ hội ở những ngày hiếm hoi và tiềm năng của việc có các biến động lớn theo hướng ngược lại.
6. Thực hiện các phép tính toán này cho khung thời gian dài hơn (hay ngắn hơn); tuần, tháng, năm.
Nhóm thông tin thống kê cuối cùng mà bạn cần quan tâm là phân phối của mức biến động giá cổ phiếu hằng ngày của một cổ phiếu. Một chỉ số quan trọng mà bạn nên lưu ý là khoảng biến động bình quân trong ngày, chúng đóng một vai trò rất quan trọng.
Tuy nhiên, tâm điểm của phương pháp này là biết được đến mức xác suất mà cổ phiếu sẽ biến động một mức độ cụ thể nào đó trong một ngày bất kỳ. Hình 2.11 khác với hình 2.9 bởi vì nó thể hiện số lần SPY biến động ít nhất ở mức đó, trong trường hợp này là 0.1 điểm; trong khi hình 2.9 cho thấy số lần mà cổ phiếu đạt đến một mức giá cao nằm giữa hai mức liền kề.
Hình 2.11: Phân phối xác suất giá tăng so với giá mở cửa – SPY.
Ví dụ, hình 2.11 nói rằng 51.6% số lần SPY sẽ biến động ít nhất 0.6 điểm trên mức giá mở cửa. Đó là một khác biệt nhẹ, nhưng là cái sẽ có khả năng giúp bạn tìm ra những điểm ngọt ngào có thể đem lại lợi nhuận trong giao dịch. Hình 2.12 thể hiện cùng một kiểu thông tin nhưng cho biến động đi xuống.
Hình 2.12: Phân phối khả năng giá giảm so với giá mở cửa – SPY.
Với các thống kê này, giờ đây bạn có thể trả lời câu hỏi quan trọng nhất sau khi bạn vừa quyết định hành động và mở giao dịch với một cổ phiếu, dài hạn hay ngắn hạn: Xác suất mà tôi sẽ kiếm được khoản lãi bằng X là bao nhiêu trong giao dịch này?
- Tránh xa các diễn giải chủ quan sẽ làm cho đầu óc bạn thoải mái, dễ dàng tiếp nhận những thông tin có ý nghĩa khi giao dịch:
• Đơn giản hóa cách tiếp cận của bạn khi giao dịch là việc quan trọng giúp cho tư duy tập trung vào việc cần phải làm ngay trước mắt;
• Xây dựng các công cụ đơn giản nhưng có nhiều ý nghĩa.
- Có bốn mức giá mà chúng ta cần phải quan tâm (đó là giá cao nhất, thấp nhất, mở cửa và đóng cửa) vì chúng có thể được xác định dễ dàng cho từng khung thời gian khác nhau:
• Giá cao nhất và thấp nhất hình thành nên các ranh giới tự nhiên của các giao dịch, vẫn được gọi theo truyền thống là các ngưỡng kháng cự và ngưỡng hỗ trợ;
• Giá mở cửa đem theo nhiều nhiễu động nhất bởi vì các thông tin kể từ thời điểm đóng cửa thị trường chưa có cơ hội thể hiện tác động;
• Giá đóng cửa là mức giá quan trọng nhất vì nó là mức giá phản ánh đầy đủ những thông tin của thị trường trong ngày;
• Các nhà đầu tư tổ chức thường hoạt động rất tích cực ở thời điểm đóng cửa.
- Việc kiểm tra lại các biến động của một cổ phiếu trong quá khứ cho phép xây dựng một cơ sở dữ liệu về các xác suất liên quan đến cổ phiếu đang quan tâm.
• 80 - 90% số ngày là ngày giao dịch ngoài biên độ.
- Thứ Hai và thứ Sáu có xu hướng giao dịch rất khác so với ba ngày còn lại trong tuần.
• Kiểm tra lại biến động giá trong quá khứ của cổ phiếu bạn quan tâm là một việc nên làm;
• Lý thuyết về thị trường đấu giá (AMT) chia thị trường ra làm hai trạng thái: thị trường giá hội tụ và thị trường giá theo xu hướng;
• Thông tin đơn thuần về khối lượng giao dịch thì không có nhiều ý nghĩa.
- Hầu hết khối lượng giao dịch là nhiễu và xảy ra khi giá cổ phiếu không biến động. Khối lượng giao dịch duy nhất có ý nghĩa là khối lượng có thể nâng giá hay ép giá. Sự chênh lệch về khối lượng giao dịch giúp chúng ta nhận ra khi nào thì chuyện đó xảy ra.
- Khoảng mở cửa là khái niệm trung tâm của phương pháp giao dịch. Nó xác định thời điểm mà các biến động có xu hướng xảy ra với các mức xác suất nhất định. Nó vốn được xem là lát cắt thời gian của một phiên giao dịch hay là khoảng thời gian giá hội tụ trong biên độ.
- Xác định xem cổ phiếu sẽ biến động bao nhiêu trong một khoảng thời gian cho trước là việc làm quan trọng tiếp theo.
• Thông qua việc kết hợp các mức biến động trung bình trên hoặc dưới mức giá mở cửa sẽ có thể hé lộ xác suất của một biến động và xác định thời điểm bước vào giao dịch của bạn. Từ đó bạn có thể xác định thời điểm gia nhập thị trường;
• Các con số thống kê cho phép bạn đặt các câu hỏi theo hướng tìm ra các xác suất chắc chắn cao hơn.