Đ
ứng trên góc phố, tay cầm tờ Berlin Journal mềm oặt, Paul nghiên cứu quán cà phê Khu Vườn Mùa Hạ: phụ nữ uống cà phê với đôi bàn tay đi găng, nam giới uống bia thành từng ngụm lớn, lau bọt bia vương ria mép bằng khăn giấy vải lanh trong hộp. Mọi người đang hưởng thụ mặt trời buổi chiều và hút thuốc.
Paul Schumann vẫn đứng bất động, nhìn, nhìn rồi lại nhìn.
Không đúng...
Giống hệt như khi sắp chữ, nhặt các chữ cái kim loại từ hộp chữ in có ngăn của California và sắp xếp các chữ cái và câu. “Cẩn thận mấy chữ p và q của con đấy,” bố gã luôn mồm nhắc câu đó - những chữ cái đặc biệt này rất dễ nhầm, vì chúng là sự đảo ngược chính xác của chữ in.
Lúc này, gã đang thận trọng quan sát nhà hàng Khu Vườn Mùa Hạ. Gã đã bỏ sót một tên Xung Kích theo dõi từ bốt điện thoại ngoài ngõ Dresden - một sai lầm không thể tha thứ đối với một sát thủ. Gã sẽ không cho phép chuyện đó xảy ra lần nữa.
Sau vài phút, gã cảm nhận thấy nguy hiểm không còn, nhưng gã tự nhủ, làm sao gã dám chắc được? Có thể những người gã đang theo dõi chẳng có vẻ gì khác thường cả: những người đàn ông bình thường đang dùng bữa, rồi đi làm việc vặt dưới ánh mặt trời nóng bỏng, lười nhác của chiều thứ Bảy, mà chẳng buồn chú ý đến ai trên phố.
Nhưng họ cũng có thể trông đáng ngờ, trung thành điên loạn với Phát xít như tên trên tàu Manhattan, Heinsler.
Tao yêu Quốc Trưởng...
Gã ném tờ báo vào thùng rác, sang đường bước vào quán cà phê.
“Làm ơn,” gã nói với tay quản lý, “một bàn cho ba người.”
“Bất kỳ đâu, bất kỳ đâu ạ,” người đàn ông bị quấy rầy nói. Paul chọn một bàn bên trong. Liếc mắt như lệ thường xung quanh. Chẳng ai chú ý đến gã.
Hoặc có vẻ chú ý đến gã.
Một bồi bàn lướt qua. “Anh muốn dùng gì?” “Một cốc bia đã.”
“Loại bia nào?” Anh ta bắt đầu liệt kê mấy nhãn hiệu gã chưa từng nghe đến.
Gã nói, “Loại đầu. Cốc lớn.”
Bồi bàn bước đến quầy bar, một lúc sau quay lại với một cốc cao bia nhẹ. Paul uống như người chết khát nhưng nhận thấy gã không thích loại bia này. Nó gần như có vị ngọt, có mùi trái cây. Gã gạt cốc bia sang một bên, châm thuốc hút, giấu vỏ bao Chesterfield dưới gầm bàn lắc lấy thuốc ra, để không ai nhìn thấy nhãn hiệu thuốc Mỹ. Gã ngước mắt lên thì thấy Reginald Morgan đang ung dung bước vào nhà hàng. Ông ta nhìn xung quanh, thấy Paul bèn bước đến, nói bằng tiếng Đức, “Bạn tôi ơi, thật vui được gặp lại cậu.”
Họ bắt tay nhau, ông ngồi xuống bên kia bàn.
Khuôn mặt Morgan đẫm mồ hôi, ông lau mặt bằng khăn tay. Đôi mắt ông lo lắng. “Suýt chút nữa... Cảnh sát xịch đến ngay sau khi tôi rời khỏi.”
“Có ai thấy ông không?”
“Tôi không nghĩ thế. Tôi bỏ đi theo đầu xa của con ngõ.” “Ở đây có an toàn không?” Paul hỏi, nhìn xung quanh.
“Chúng ta có nên đi không?”
“Không. Vào thời điểm này trong ngày, vào một nhà hàng sau đó bỏ đi ngay không ăn uống gì còn gây nghi ngờ hơn. Không như ở New York. Những người Berlin sẽ không vội vàng khi đến giờ ăn đâu. Các văn phòng sẽ đóng cửa trong vòng hai tiếng, nên người ta có thể thoải mái dùng bữa trưa. Dĩ nhiên, họ cũng ăn hai bữa sáng nữa.” Ông vỗ vỗ vào bụng mình. “Giờ cậu có thể hiểu tại sao tôi lại vui vẻ được tới đây đến thế.” Ngẫu nhiên nhìn quanh, Morgan nói, “Đây.” Ông đẩy một cuốn sách dày về phía Paul. “Thấy không, tôi vẫn nhớ trả lại mà.” Trên bìa sách là các chữ tiếng Đức, Mein Kampf, mà Paul dịch ra là “Cuộc Chiến Của Tôi.” Phía trên cùng là tên của Hitler. Hắn viết sách sao? Paul tự hỏi.
“Cảm ơn ông. Nhưng chưa cần vội đâu.”
Paul dụi tắt điếu thuốc vào gạt tàn, nhưng khi điếu thuốc đã tắt lửa, gã bỏ tọt vào túi, vẫn cẩn thận không lưu lại bất kỳ dấu vết nào cho thấy gã đã ở đâu.
Morgan vươn người về phía trước, mỉm cười như thể đang thì thầm một chuyện đùa tục tĩu. “Bên trong cuốn sách là hàng trăm dấu hiệu. Và địa chỉ của nơi cậu sẽ ở, một nhà trọ. Nó nằm gần Lützzow Plaza, phía Nam Tiergaten. Tôi đã vẽ ra cả hướng đến đó.”
“Có nằm trên tầng trệt không?”
“Căn hộ ấy à? Tôi không biết. Tôi không hỏi. Cậu đang nghĩ đến đường thoát à?”
Cụ thể là gã đang nghĩ đến hang ổ chè chén bê tha của Malone, với những cánh cửa ra vào và cửa sổ bị ghim, được đón chào bằng một lũ thủy thủ có vũ trang. “Đúng vậy.”
“À, phải xem xét việc đó. Có lẽ cậu có thể trao đổi khi có rắc rối. Bà chủ nhà có vẻ thỏa thuận được. Tên bà ta là Käthe Richter.”
“Mụ ta là Phát xít à?”
Morgan nhỏ nhẹ đáp, “Đừng sử dụng từ đó ở đây. Cậu sẽ bị lộ đấy. “Nazi” là tiếng lóng của người Bavaria, có nghĩa là “thằng ngốc.” Thể viết tắt thích hợp của nó là “Nazo,” nhưng cậu không nghe thấy từ đó thường xuyên. Hãy nói là “Chủ nghĩa Phát xít.” Vài người dùng các chữ cái đầu của từ này, NSDAP. Hoặc cậu có thể gọi tắt là “Đảng.” Và nói ra với thái độ cung kính... Còn về Richter, cô ta dường như không có sự đồng cảm nào dù là cách này hay cách khác.” Hất đầu về cốc bia, Morgan hỏi. “Cậu không quan tâm đến loại này à?”
“Như nước tiểu ý.”
Morgan phá lên cười. “Đó là bia lúa mạch, trẻ con uống thôi. Sao cậu gọi vậy?”
“Có đến một đống bia. Tôi chưa từng nghe đến tên.” “Để tôi gọi cho.”
Khi hầu bàn đến, ông nói, “Cho chúng tôi hai bia Pschorr. Xúc xích và bánh mỳ. Cải bắp và dưa chuột dầm. Cả bơ nữa nếu hôm nay có.”
“Vâng, thưa ngài.” Anh ta mang đi cốc bia của Paul. Morgan nói tiếp. “Trong cuốn sách cũng có một hộ chiếu Nga có ảnh của cậu cùng một vài đồng rup Nga trị giá khoảng 100 đô la. Dùng trong trường hợp khẩn cấp cần băng qua biên giới Thụy Sỹ. Những người Đức sẽ thấy vui vẻ khi tống cổ một tên người Nga ra khỏi đất nước, nên chúng sẽ cho cậu qua. Chúng sẽ không nhận tiền rup vì chúng sẽ không được phép tiêu loại tiền này. Thụy Sỹ sẽ không quan tâm đến chuyện cậu là người Bôn-sê- vích và chúng sẽ sung sướng cho cậu tiêu tiền đó. Cậu đến Zurich và gửi một tin nhắn đến Đại sứ quán Mỹ. Gordon sau đó sẽ đưa cậu ra. Bây giờ, sau sự cố ở ngõ Dresden, chúng ta phải tuyệt đối cẩn thận. Như tôi đã nói, rõ ràng có điều gì đó đang diễn ra trong thành phố. Ngày càng có thêm nhiều cảnh sát tuần tra trên phố hơn thường lệ. Những tên lính Xung kích, điều này thì không lạ - chúng chẳng có việc gì làm với thời gian của mình, ngoài diễu binh và tuần tra - nhưng còn cả SS và Gestapo nữa.”
“Chúng là...?”
“SS... Cậu có thấy hai tên ngồi ngoài hiên kia không? Mặc đồng phục đen ấy?”
“Có.”
“Chúng vốn dĩ là nhóm binh lính hộ vệ của Hitler. Giờ đây chúng là một đội quân bí mật khác. Hầu hết bọn chúng mặc đồ đen, nhưng có vài tên mặc đồng phục xám. Gestapo là lực lượng mật vụ, mặc quần áo bình thường. Số lượng của chúng tuy ít nhưng rất nguy hiểm. Thẩm quyền của chúng hầu hết là các tội ác chính trị. Tuy nhiên tại Đức bây giờ chuyện gì cũng có thể là xem là tội ác chính được. Cậu nhổ nước bọt trên vỉa hè là hành vi xúc phạm danh dự của Lãnh tụ, nên cậu sẽ bị tống vào Nhà tù Moabit, hoặc vào trại tập trung.”
Hai cốc bia Pschorr cùng đồ ăn được dọn lên, Paul tu hết luôn nửa cốc. Có vị đất và đậm đà. “Giờ mới thấy ngon.”
“Cậu thích à? Sau khi tới đây, tôi đã nhận ra không bao giờ có thể uống lại bia Mỹ nữa. Để ủ được bia cần rất nhiều năm học hỏi. Nên nó được tôn trọng như bằng đại học vậy. Berlin là thành phố ủ bia của Châu Âu nhưng nơi làm ra bia ngon nhất là Munich, xuôi xuống vùng Bavaria.”
Paul ăn nghiến ngấu. Nhưng bia và đồ ăn không phải là điều duy nhất trong tâm trí gã. “Chúng ta phải đi nhanh,” gã thì thầm. Bằng chuyên môn của mình, cứ mỗi giờ bạn ở gần địa điểm hóa kiếp, nguy cơ bị bắt ngày càng tăng. “Tôi cần thông tin và vũ khí.”
Morgan gật đầu. “Liên lạc của tôi sẽ đến đây bất kỳ lúc nào. Anh ta có thông tin về... người cậu đến đây để ghé thăm. Rồi chiều nay chúng ta sẽ đến tiệm cầm đồ. Chủ tiệm có một khẩu súng trường rất ngon cho cậu.”
“Súng trường à?” Paul nhíu mày.
Morgan lo lắng. “Cậu không xài được súng trường à?” “Có, tôi bắn được. Tôi là lính bộ binh mà. Nhưng tôi luôn đánh ở cự ly gần.”
“Gần à? Như thế dễ hơn cho cậu à?”
“Câu hỏi không phải là dễ hay không. Mà là hiệu quả hơn.” “Tin tôi đi, Paul, cho dù rất khó khăn, đến đủ gần mục tiêu và giết hắn bằng khẩu súng lục có lẽ là điều có thể. Nhưng có rất nhiều kẻ Áo Nâu, SS và Gestapo lảng vảng xung quanh đó, không nghi ngờ gì nữa cậu sẽ bị tóm. Và tôi cam đoan rằng cái chết của cậu sẽ kéo dài và khó chịu đấy. Nhưng còn một lý do khác để sử dụng súng trường - cậu phải giết chết hắn ở nơi công cộng.”
“Tại sao?” Paul hỏi.
“Thượng Nghị sĩ nói rằng, mọi người trong Chính phủ Đức và Đảng đều biết Ernst quan trọng thế nào với công việc tái vũ trang. Điều quan trọng là chắc chắn rằng bất kỳ ai thay thế hắn đều biết họ sẽ gặp nguy hiểm nếu tiếp quản vị trí hắn để lại. Nhưng nếu Ernst chết trong bí mật, Hitler hẳn sẽ che đậy nó, viện cớ rằng hắn bị chết trong một tai nạn hoặc mắc bệnh mà chết.”
“Vậy thì tôi sẽ làm chuyện đó công khai,” Paul nói. “Bằng một khẩu súng trường. Nhưng tôi sẽ cần ngắm bắn khẩu súng, cảm nhận nó, tìm một điểm bắn tốt, xem xét nó trước khi bắn, xem những cơn gió nhẹ thế nào, ánh sáng thế nào, những tuyến đường đến và đi khỏi nơi đó.”
“Dĩ nhiên. Cậu là chuyên gia. Bất kể điều gì cậu muốn.” Paul đã ăn hết phần của mình. “Sau chuyện xảy ra trong ngõ, tôi cần phải ẩn náu. Tôi muốn lấy đồ đạc của mình ở làng Olympic và chuyển đến nhà trọ càng sớm càng tốt. Phòng trọ đã sẵn sàng chưa?”
Morgan nói đã sẵn sàng rồi.
Paul nhấp thêm ngụm bia nữa, kéo cuốn sách của Hitler về phía mình đặt trên lòng, lật giở vài trang, tìm thấy hộ chiếu, tiền và địa chỉ. Gã lấy ra mẩu giấy trên đó có ghi chú thông tin về căn nhà trọ. Bỏ cuốn sách vào trong va li, gã ghi nhớ địa chỉ và phương hướng, ung dung thấm tờ giấy bằng bia đổ ra bàn, sau đó vò nát tờ giấy trong tay cho đến khi nó chỉ là miếng xốp. Gã bỏ tọt tờ giấy vào trong túi cùng mấy đầu lọc thuốc lá để đem đi vứt.
Morgan nhướn mày.
Họ bảo tôi cậu rất giỏi.
Paul hất đầu về phía ba lô của gã, thì thầm, “Cuộc Chiến Đấu Của Tôi. Cuốn sách của Hitler. Chính xác nó là gì?”
“Có người bảo nó là bộ sưu tập 160.000 lỗi ngữ pháp. Được cho là triết lý của Hitler nhưng về cơ bản đó là mớ củ chuối không thể tiêu hóa. Nhưng cậu có thể muốn giữ nó.” Morgan mỉm cười. “Berlin là một thành phố của những khan hiếm và trong hoàn cảnh giấy vệ sinh là thứ khó tìm.”
Một tiếng cười ngắn, rồi Paul hỏi. “Anh chàng... chúng ta sắp gặp... tại sao chúng ta có thể tin tưởng anh ta?”
“Ở Đức bây giờ niềm tin là thứ gây tò mò. Rủi ro đó là nấm mồ và nó phổ biến đến mức không còn tin nổi bất kỳ ai nữa chỉ vì họ tin vào động cơ của cậu. Trong trường hợp liên lạc của tôi, anh trai cậu ta là một nhà tổ chức công đoàn bị Xung Kích giết hại. Nên cậu ta đồng cảm với chúng ta. Nhưng tôi sẽ không sẵn sàng mạo hiểm mạng sống của tôi vào mỗi điều đó. Thế nên tôi trả cho cậu ta rất nhiều tiền. Có một câu nói ở đây. ‘Ông mất con gà, bà thò chai rượu.’ Max gặm nhiều bánh mỳ của tôi lắm. Và cậu ta đang ở vị thế nguy hiểm khi bán thông tin rất hữu ích cho tôi, nhưng có nguy cơ bị vạch trần đối với cậu ta. Đây là ví dụ hoàn hảo về cách niềm tin hiệu quả như thế nào ở đây. Cậu hoặc phải mua chuộc hoặc đe dọa cậu ta. Và tôi khuyên cậu nên làm cả hai.”
Cửa ra vào bật mở, Morgan liếc mắt xác nhận. “À, cậu ta kia rồi,” ông thì thầm. Một thanh niên nhỏ nhắn mặc bộ áo liền quần tiến vào nhà hàng, một cái ba lô nhỏ treo toòng teng trên hai vai. Cậu ta nhìn xung quanh, chớp mắt để thích nghi với khung cảnh mờ tối. Morgan vẫy tay, cậu ta bèn tiến lại ngồi chung. Rõ ràng cậu ta căng thẳng, đôi mắt liếc nhìn Paul, những vị khách quen đến những bồi bàn trong bóng tối các hành lang dẫn đến nhà vệ sinh và bếp, rồi lại nhìn Paul.
“Chúng”theo tiếng Đức bây giờ là tất cả mọi người...
Cậu ta ngồi xuống, ban đầu còn quay lưng ra cửa, sau đó chuyển hướng ngồi để có thể nhìn phần còn lại của nhà hàng.
“Xin chào,” Morgan nói. “Hail Hitler.”
“Chào,” Paul đáp.
“Bạn tôi đây đề nghị rằng nên gọi cậu ta là Max. Cậu ta đã làm việc cho người cậu đến đây để gặp. Xung quanh nhà ông ta. Cậu ta giao nhận hàng hóa, quen biết người quản gia và người làm vườn. Cậu ta cũng sống trong thành phố Charlottenburg, đi về hướng Tây tính từ đây.”
Max từ chối cả đồ ăn lẫn bia và chỉ gọi cà phê, đổ đường vào khiến cà phê nổi lớp bọt màu xám nhạt trên bề mặt. Cậu ta khuấy thìa điên cuồng.
“Tôi cần biết mọi điều cậu biết về ông ta,” Paul thì thầm. “Vâng, vâng, tôi sẽ làm.” Nhưng rồi cậu ta lại im lặng và nhìn xung quanh. Cậu ta khoác một vẻ đáng ngờ như lớp tinh dầu trên mái tóc mỏng của mình. Paul thấy sự khó chịu ngày càng tăng, chưa nói đến nguy hiểm. Max mở ba lô, đưa cho Paul một hồ sơ màu xanh đen. Ngồi lại che nội dung không cho ai nhìn thấy, gã mở nó ra và thấy mình đang nhìn vào nửa tá những tấm ảnh nhăn nhúm. Trong ảnh là một người đàn ông mặc trang phục văn phòng được cắt may khéo, kiểu trang phục của một người tỉ mỉ, chu đáo. Ông ta khoảng tầm năm mươi tuổi, có cái đầu tròn và mái tóc ngắn màu bạc hoặc xám. Trên mắt đeo kính gọng dây.
Paul hỏi, “Đây có đích thực là hắn không? Còn những bản sao thì thế nào?”
“Hắn không dùng bản sao.” Cậu ta nhấp một ngụm cà phê với đôi bàn tay run rẩy, lại nhìn xung quanh nhà hàng.
Paul đã nghiên cứu xong. Gã vừa định bảo Max giữ lại các bức ảnh và hủy chúng đi khi về đến nhà, nhưng cậu ta có vẻ quá căng thẳng. Tay người Mỹ hình dung cậu ta đang hoảng hốt mà vứt chúng lại trên tàu điện. Gã đành bỏ tập hồ sơ vào trong ba lô bên cạnh cuốn sách của Hitler; gã sẽ tiêu hủy chúng sau.
“Còn bây giờ,” Paul nói, cúi người về phía trước. “kể cho tôi nghe về hắn. Mọi thứ cậu biết.”
Max tường thuật lại những gì mình biết về Reinhard Ernst. Viên Đại tá duy trì kỷ luật và phong thái của một quân nhân, cho dù hắn không còn phục vụ trong quân ngũ đã được vài năm. Hắn dậy sớm và làm việc suốt mười mấy tiếng, sáu hoặc bảy ngày một tuần. Hắn tập thể dục đều đặn và là một chuyên gia về bắn súng.
Hắn thường xuyên mang theo người một khẩu súng ngắn tự động nhỏ. Văn phòng của hắn nằm trên phố Wilhelm, trong tòa nhà Thủ tướng. Hắn tự lái xe đến và đi khỏi văn phòng và hiếm khi đi cùng vệ sĩ. Xe của hắn là chiếc Mercedes mui trần.
Paul đang cân nhắc những gì cậu ta nói. “Tòa nhà Thủ tướng? Hắn đến đó mỗi ngày à?”
“Vâng, thường xuyên. Cho dù thỉnh thoảng hắn đi đến xưởng đóng tàu, hoặc gần đây là các công trình của Krupp.”
“Krupp là ai?”
“Các công ty chế tạo đạn dược và vũ trang của hắn.” “Tại Tòa nhà Thủ tướng, hắn sẽ đỗ xe ở đâu?”
“Tôi không biết, thưa ngài. Tôi chưa từng đến đó.”
“Cậu có thể tìm hiểu trong vài ngày tới hắn sẽ đi đâu không? Khi nào thì hắn có thể đến văn phòng?”
“Được, tôi sẽ thử.” Ngừng một lúc. “Tôi không biết liệu...” Giọng Max nhỏ dần.
“Cái gì?” Paul hỏi.
“Tôi biết vài chuyện về cả cuộc sống riêng tư của hắn. Về vợ hắn, con dâu hắn, cháu nội hắn. Anh có muốn biết mặt này trong cuộc đời hắn không? Hay anh thà không biết còn hơn?”
Chạm vào đá…
“Không,” Paul nói trong tiếng thì thầm. “Kể tôi nghe tất cả.”
Họ lái xe xuống phố Rosenthaler nhanh hết mức chịu đựng của động cơ bé xíu, tiến về nhà hàng Khu Vườn Mùa Hạ.
Konrad Janssen hỏi sếp, “Sếp, tôi có một thắc mắc?” “Ừ?”
“Thanh tra Krauss đang hy vọng tìm ra một người nước ngoài là kẻ sát nhân, và chúng ta có bằng chứng nghi phạm là người nước ngoài. Vậy tại sao ông không nói?”
“Bằng chứng cho thấy rằng hắn ta có thể là người đó. Và không vững chắc. Chỉ đơn thuần là hắn ta có thể có trọng âm, và rằng hắn đã huýt sáo gọi taxi.”
“Vâng, thưa sếp. Nhưng chúng ta không nên nói đến à? Chúng ta có thể sử dụng các nguồn tin của Gestapo.”
Kohl nặng nề đang thở hổn hển, mồ hôi túa ra vì nóng. Ông thích mùa hè bởi vì thời điểm đó gia đình ông có thể hưởng thụ vui vẻ tại Tiergaten và Công viên Luna hoặc lái xe xuống Wannsee hay sông Havel để đi dã ngoại. Nhưng còn về khí hậu thì ông thuộc tuýp người yêu thích mùa thu từ trong máu. Đưa tay lên lau trán, ông đáp, “Không, Janssen ạ. Chúng ta không nên đề cập chuyện đó và cũng không nên viện tới sự giúp đỡ của Gestapo. Và đây là lý do. Thứ nhất, kể từ khi được hợp nhất vào tháng trước, Gestapo và SS đang làm tất cả những gì chúng có thể nhằm cướp đi sự độc lập của Cảnh sát. Chúng ta phải duy trì nó càng nhiều càng tốt, tức là chúng ta cần phải tự làm công việc của mình. Thứ hai, và là điều quan trọng rất, rất nhiều: Các “nguồn tin” của Gestapo thường xuyên chỉ đơn giản là bắt giữ bất kỳ ai có vẻ ít tội lỗi nhất - về bất kỳ tội gì. Và đôi khi việc bắt giữ nhằm vào những người rõ ràng vô tội, nhưng việc đó có thể được tiến hành thuận lợi. “
Các trụ sở cảnh sát bao gồm sáu trăm phòng giam giữ, nhằm mục đích cũng giống như đồn cảnh sát tại bất kỳ đâu, giam giữ các tội phạm, những người bị bắt cho đến khi được phóng thích hoặc bị tuyên án. Gần đây những phòng giam này - đã kín đặc người, đến mức quá tải - giam cầm những người bị buộc các tội chính trị rất mơ hồ do lực lượng Xung kích giám sát, những tên búng ra sữa tàn bạo mặc đồng phục nâu, đeo băng tay trắng.
Các phòng giam chỉ đơn thuần là những điểm dừng tạm thời trên đường đến trại tập trung hoặc trụ sở Gestapo trên phố Prince Albrecht. Đôi khi đến thẳng nghĩa địa.
Kohl nói tiếp. “Không đâu, Janssen ạ, chúng ta là những thợ thủ công đang thực hành nghệ thuật công tác cảnh sát tinh tế của mình, chứ không phải là những người nông dân Saxon cầm lưỡi hái đi cắt đầu hàng tá công dân, khi đuổi theo một thằng cha có tội duy nhất.”
“Rõ, thưa sếp.”
“Đừng bao giờ quên điều đó.” Ông lắc đầu. “Chà, làm công việc của mình giữa vũng bùn đạo đức bao quanh này ngày càng khó khăn.” Khi cho xe vào lề, ông liếc nhìn người trợ lý. “Janssen, cậu có thể làm tôi bị bắt, cậu biết đấy, và bị đưa đến Oranienburg trong một năm để nói về việc tôi vừa làm.”
“Tôi sẽ không nói điều gì nữa, thưa sếp.”
Kohl tắt bộ đánh lửa. Họ xuống xe rồi nhanh chóng bước lên vỉa hè rộng đến nhà hàng Khu Vườn Mùa Hạ. Khi họ đến gần hơn, Willi Kohl có thể ngửi thấy mùi hương món bò nhúng dấm được ướp kỹ, món ăn khiến nơi này trở nên nổi tiếng. Dạ dày ông quặn lên.
Janssen đang mang theo một bản sao tạp chí của Chủ nghĩa Phát xít, The People’s Observer, có khắc họa hình ảnh Göring nổi bật trên trang nhất đang đội một chiếc mũ lịch sự không phổ biến tại Berlin. Nghĩ đến những món đồ phụ kiện đặc biệt, Kohl liếc mắt nhìn người trợ lý, khuôn mặt đẹp của tay thanh tra học việc đỏ gay dưới ánh mặt trời tháng Bảy. Phải chăng ngày nay bọn trẻ không hiểu rằng, người ta làm ra cái mũ không phải để chơi?
Khi họ đến gần nhà hàng, Kohl ra hiệu cho Janssen đi chậm lại. Họ dừng chân bên cạnh một cột đèn, nghiên cứu Khu Vườn Mùa Hạ. Vào giờ này không còn nhiều thực khách còn ngồi lại.
Hai viên sĩ quan SS đang thanh toán rồi ra về, mà cũng vừa đúng lúc, bởi vì với những lý do ông vừa giải thích cho Janssen, cậu ta đồng ý không nói gì cả về vụ này nữa. Người duy nhất còn ngồi lại là một người tuổi trung niên mặc quần soóc da truyền thống có dây đeo và một người được hưởng lương hưu.
Kohl để ý những tấm rèm dày ngăn họ không bị dòm ngó từ bên trong. Ông gật đầu với Janssen và họ bước lên tầng trên. Tay thanh tra hỏi từng thực khách xem có ai thấy một người cao lớn, đội mũ nâu vào trong nhà hàng không.
Người lĩnh lương hưu gật đầu. “Một người cao lớn hả? Thực ra là có đấy, Thanh tra. Tôi không nhìn rõ lắm, nhưng tôi tin rằng anh ta đã bước vào đây khoảng hai mươi phút trước.”
“Hắn vẫn còn ở đó chứ?”
“Anh ta chưa bước ra, theo tôi thấy thì chưa.”
Janssen cứng người lại như con chó săn ngửi thấy mùi hương. “Sếp, chúng ta có nên gọi Orpo không?”
Họ là lực lượng Cảnh sát Trật tự mặc đồng phục, thường đóng quân tại các trại lính hiếm khi nghe nói đến tên, có nhiệm vụ giữ trật tự bằng cách sử dụng súng trường, súng tự động và dùi cui. Nhưng Kohl lại nghĩ đến tình trạng lộn xộn có thể xảy ra nếu họ được triệu tập, đặc biệt là khi chống lại một nghi phạm có vũ trang tại một nhà hàng đầy khách quen. “Không, tôi không nghĩ chúng ta nên gọi, Janssen. Mà chúng ta sẽ làm tinh tế hơn nhiều. Cậu đi vòng ra phía sau nhà hàng, đợi ở cửa ra vào. Nếu có bất kỳ ai bước ra, không cần biết có đội mũ hay không, bắt ngay hắn lại. Phải nhớ - nghi phạm của chúng ta có vũ khí. Bây giờ di chuyển kín đáo thôi.”
“Rõ, thưa sếp.”
Tay thanh niên dừng lại ở một con ngõ và bằng một chuyển động cực kỳ lộ liễu, cậu ta rẽ ngoặt ở góc đường rồi biến mất.
Kohl ngẫu nhiên tiến lên phía trước rồi dừng lại như thể nghiên cứu kỹ thực đơn được dán lên. Sau đó, ông di chuyển đến gần hơn, cảm thấy khó chịu, cảm thấy cả sức nặng khẩu súng lục ổ quay trong túi. Cho đến chừng nào Chủ nghĩa Phát xít còn nắm quyền, chỉ một vài thanh tra Cảnh sát được mang vũ khí. Nhưng vài năm trước, khi Bộ trưởng Bộ Nội vụ hồi đó là Göring, đã mở rộng nhiều lực lượng cảnh sát trong nước, hắn ra lệnh từng cảnh sát viên phải mang vũ khí. Và trước sự kinh hoàng của Kohl cùng các đồng nghiệp của ông tại Sở Cảnh sát, hắn cho phép dùng súng một cách tự do. Hắn thực sự còn ban ra cả một sắc lệnh rằng, một cảnh sát sẽ bị khiển trách nếu bắn trượt nghi phạm, nhưng chẳng hề hấn gì nếu bắn một người hoàn toàn vô tội.
Willi Kohl chưa bắn phát súng nào kể từ năm 1918.
Thế nhưng hình dung ra cái sọ vỡ nát của nạn nhân tại ngõ Dresden, lúc này ông thấy vui rằng mình có mang theo súng. Kohl chỉnh lại áo vest để chắc chắn ông có thể chộp lấy súng thật nhanh khi cần và hít một hơi sâu. Ông tiến qua bậu cửa.
Rồi đứng đó lạnh người như tượng, hốt hoảng. Nội thất của Khu Vườn Mùa Hạ hoàn toàn tối om, đôi mắt ông đã quen nhìn ánh mặt trời chói chang bên ngoài, nhất thời ông bị mù. Ngu thật, ông nghĩ, tức giận với chính mình. Lẽ ra ông phải tính tới điều này. Ông đang đứng đây với hai chữ “Cảnh sát” khắc trên trán, một mục tiêu rõ ràng đối với một nghi phạm có vũ khí.
Ông bước sâu hơn vào trong, đóng cửa lại sau lưng. Trong tầm nhìn mờ mờ, mọi người di chuyển khắp nhà hàng. Ông tin rằng vài nam giới đang đứng. Ai đó đang di chuyển về phía ông.
Kohl bước lùi lại, cảnh giác. Bàn tay ông lần đến túi áo có khẩu súng.
“Ngài chọn bàn chưa ạ? Ngài ngồi đâu cũng được ạ.” Ông liếc mắt, tầm nhìn của ông từ từ trở lại.
“Thưa ngài?” tay bồi bàn lặp lại.
“Không,” ông đáp. “Tôi đang tìm người.” Cuối cùng, thanh tra đã có thể nhìn thấy mọi thứ bình thường. Nhà hàng chỉ chứa được mười hai thực khách. Không có ai là người cao lớn đội mũ nâu và vest sáng màu. Ông định bước vào trong bếp.
“Thưa ngài, ngài không thể...” Kohl chìa thẻ về phía tay bồi bàn.
“Vâng, thưa sếp” anh ta ngượng ngập nói.
Kohl bước qua căn bếp nóng đến lạ lùng rồi ra cửa sau. Ông mở cửa ra, “Janssen, thế nào?”
“Không có ai qua cửa này, thưa sếp.”
Tay thanh tra học việc đi vào trong cùng sếp, quay ra phòng ăn.
Kohl ra hiệu gọi tay bồi bàn đến. “Tên cậu là gì?”
“Johann.”
“Được rồi, Johann, cậu có thấy người nào ở đây trong vòng hai mươi phút trước, đội chiếc mũ giống thế này không?” Kohl ra hiệu cho Janssen, cậu ta trưng ra tấm ảnh chụp Göring.
“Tại sao, à tôi có thấy. Anh ta cùng mấy người đi cùng vừa rời khỏi đây lúc nãy. Trông còn đáng ngờ hơn cơ. Họ đi ra bằng cửa bên.”
Cậu ta chỉ tay vào cái bàn trống. Kohl thở dài khó chịu. Đó là một trong hai bàn ngồi cạnh cửa sổ. Đúng là rèm cửa dày nhưng ông để ý một khe hở nhỏ ở bên cạnh. Không nghi ngờ gì nữa, nghi phạm của họ đã thấy họ đang hỏi han các thực khách.
“Đi thôi, Janssen!” Kohl cùng tay thanh tra học việc lao ra khỏi cửa bên qua một khu vườn xanh ngắt, điển hình của hàng nghìn khu vườn trên toàn thành phố. Người Berlin yêu thích trồng hoa và cây cối, nhưng đất trở nên hiếm hoi đến mức họ buộc phải dùng bất kỳ loại đất nào có thể tìm thấy cho khu vườn của mình. Chỉ có một lối ra khỏi khoảnh đất này: nó dẫn ra phố Rosenthaler. Họ chạy nước kiệu ra phố, nhìn lên nhìn xuống con phố đông nghẹt. Không thấy bóng nghi phạm đâu cả.
Kohl tức giận. Giá mà không bị Krauss đánh lạc hướng, có lẽ họ đã có hơn một cơ hội chặn đầu tên đội mũ cao to rồi. Nhưng phần nhiều là ông giận chính mình, vì bất cẩn làm lộ mình trên hàng hiên lúc trước.
“Trong khi hấp tấp,” ông thì thầm với Janssen, “chúng ta đã để lộ bản thân. Nhưng có lẽ chúng ta có thể vớt vát được một chút.” Ông quay người bước vào cửa trước nhà hàng Khu Vườn Mùa Hạ.
Paul, Morgan cùng anh chàng gầy nhẳng, căng thẳng có tên là Max đứng cách phố Rosenthaler khoảng 15 mét, nấp sau khóm nhỏ những cây đoạn.
Họ đang đứng xem người đàn ông mặc vest trắng, cùng tay trợ lý trẻ tuổi trong vườn bên cạnh nhà hàng, đang nhìn khắp con phố rồi quay vào cửa trước.
“Chúng không thể đuổi theo chúng ta,” Morgan nói. “Không thể nào.”
“Chúng đang tìm người,” Paul nói. “Chúng bước ra từ cửa bên chỉ sau chúng ta một phút. Đó không phải là trùng hợp.”
Bằng một giọng run rẩy, Max hỏi, “Anh nghĩ có phải chúng là Gestapo không? Hay Cảnh sát?”
“Cảnh sát gì?” Paul hỏi.
“Cảnh sát hình sự. Những thanh tra mặc thường phục.” “Chúng thuộc dạng cảnh sát nào đó,” Paul tuyên bố. Hẳn nhiên rồi. Gã đã nghi ngờ kể từ lúc trông thấy hai người đến gần Khu Vườn Mùa Hạ. Gã đã cố tình chọn chỗ ngồi gần cửa sổ để theo dõi động tĩnh trên phố, quả y như rằng, gã đã để ý đến họ - một người có vóc dáng nặng nề đội mũ Panama, cùng một thanh niên trẻ trung, gầy còm hơn mặc vest màu xanh dương - hỏi han các thực khách trên hàng hiên. Rồi người trẻ hơn bước ra ngoài - có khả năng là chặn cửa sau - còn tay cảnh sát mặc áo trắng bước đến chỗ menu dán lên tường, lâu hơn hẳn bất kỳ thực khách bình thường nào.
Paul lập tức đứng dậy vứt tiền xuống bàn - chỉ là tiền giấy sẽ không thể tìm được dấu vân tay - rồi ngắt lời, “Chuồn thôi.” Cùng Morgan và Max hốt hoảng theo sau, gã băng qua cửa bên rồi đợi trước một khu vườn nhỏ, cho đến khi cảnh sát đi vào trong nhà hàng rồi bước nhanh ra Phố Rosenthaler.
“Cảnh sát,” Max giờ mới lẩm bẩm, nghe như sắp khóc đến nơi. “Không... không...”
Quá nhiều người truy đuổi mày ở đây... và quá nhiều người theo dõi mày, quá nhiều người rượt đuổi mày.
Tao sẽ làm bất kỳ điều gì vì Người và vì Đảng...
Paul lại nhìn xuống phố rồi nhìn về phía Khu Vườn Mùa Hạ. Không có ai đuổi theo. Tuy nhiên gã vẫn cảm thấy nôn nóng muốn biết thông tin về chỗ ở của Ernst từ Max, và tiếp tục công việc hóa kiếp. Gã quay lại nói, “Tôi cần biết...” Giọng gã tắt lịm.
Max đã biến mất. “Hắn đâu rồi?”
Morgan cũng quay lại. “Mẹ kiếp,” ông lẩm bẩm bằng tiếng Anh.
“Phải hắn phản bội chúng ta không?”
“Tôi không thể tin được hắn sẽ làm thế - cũng có nghĩa là hắn sẽ bị bắt. Nhưng...” Giọng Morgan nhỏ dần khi nhìn qua Paul. “Không!”
Quay phắt lại, Paul thấy Max cách khoảng hai khối nhà. Cậu ta cùng vài người bị hai tên mặc đồng phục đen chặn lại, những người rõ ràng cậu ta chưa từng gặp. “Một chốt an ninh của SS.”
Max căng thẳng nhìn quanh, chờ đến lượt mình bị hai tên lính SS thẩm vấn. Cậu đưa tay lên lau mặt, trông tội lỗi như đứa trẻ vị thành niên.
Paul thì thầm, “Chẳng có gì phải lo cho hắn đâu. Giấy tờ của hắn ổn. Hắn đã trao cho chúng ta các ảnh của Ernst. Chỉ cần hắn không hoảng hốt, hắn sẽ ổn thôi.”
Bình tĩnh nào, Paul im lặng nói với cậu ta. Đừng nhìn xung quanh...
Rồi Max mỉm cười, bước đến gần tên SS. “Hắn sẽ ổn thôi,” Morgan nói.
Không, hắn không ổn đâu, Paul nghĩ. Hắn sẽ làm hỏng việc. Và đúng lúc đó, cậu ta quay người bỏ chạy.
Hai tên lính SS gạt sang bên cặp vợ chồng đang thẩm vấn, và bắt đầu chạy đuổi theo cậu ta. “Đứng lại, tao nói đứng lại!”
“Không!” Morgan thì thầm. “Tại sao hắn làm thế? Tại sao?” Bởi vì hắn là thằng ngu, Paul nghĩ.
Max gầy hơn hai tên lính SS đang mặc đồng phục nặng nề, nên bắt đầu bỏ xa chúng.
Có thể hắn không làm được. Có thể...
Một tiếng súng vang lên, Max ngã xuống mặt đường bê tông, máu loang ra trên lưng cậu ta. Paul nhìn đằng sau lưng cậu. Một tên sĩ quan SS thứ ba chạy sang đường rút ra khẩu súng ngắn và nổ súng. Max vừa định bò đến vỉa hè, thì hai tên cảnh vệ lúc đầu bắt kịp được cậu ta, thở hồng hộc. Một tên rút súng ngắn ra, bắn một phát vào đầu người thanh niên tội nghiệp, rồi tựa vào cột đèn ghìm hơi thở.
“Đi thôi,” Paul thì thầm. “Ngay bây giờ!”
Hai người quay lại phố Rosenthaler rồi đi về phía Bắc cùng với những khách bộ hành khác, bình tĩnh di chuyển tránh xa khỏi hiện trường vụ nổ súng.
“Chúa trên thiên đàng,” Morgan lầm bầm. “Tôi đã mất một tháng nuôi dưỡng hắn, nắm tay hắn khi hắn cung cấp cho tôi thông tin về Ernst. Chúng ta biết làm gì bây giờ?”
“Bất kể chúng ta quyết định cái gì, phải quyết định nhanh lên. Ai đó có thể lần ra được mối liên kết giữa hắn” - liếc nhìn lại cái xác trên phố - “và Ernst.”
Morgan thở dài, suy nghĩ một lúc. “Tôi không biết còn ai đủ thân cận với Ernst nữa... Nhưng tôi có một người làm trong bộ thông tin.”
“Ông có người ở trong đó à? “
“Chủ nghĩa Phát xít bị hoang tưởng, nhưng bù lại chúng mắc một sai lầm: cái tôi của chúng. Chúng có nhiều điệp viên hoạt động tới mức, chúng không bao giờ cho rằng ai đó có thể giả mạo họ. Anh ta chỉ là thư ký nhưng có khả năng tìm ra điều gì đó.”
Họ dừng lại trên một góc phố nhộn nhịp. Paul nói, “Tôi sẽ quay lại làng Olympic lấy đồ đạc của mình, rồi chuyển đến nhà trọ.”
“Tiệm cầm đồ nơi chúng ta lấy khẩu súng trường nằm gần Nhà ga Oranienburger. Tôi sẽ gặp cậu tại Quảng trường tháng Mười Một năm 1923, phía dưới bức tượng Hitler to. Nói cách khác, là phố 43. Cậu có bản đồ không?” “Tôi sẽ tìm được.”
Hai người bắt tay nhau, sau khi liếc nhìn lại đám đông đứng vây quanh xác kẻ xấu số, họ bắt đầu chia nhau ra khi tiếng còi vang khắp các con phố của thành phố sạch sẽ, trật tự ken đặc những con người lịch sự, hay cười - và cũng là địa điểm của hai vụ giết người trong mấy tiếng đồng hồ.
Không, Paul tự nhủ, Max xấu số không phản bội gã. Nhưng gã nhận ra rằng có một gợi ý khác còn rắc rối hơn thế nhiều. Hai tên cảnh sát hoặc Gestapo này đã một mình theo dõi Morgan, hoặc Paul, hoặc cả hai từ ngõ Dresden đến Khu Vườn Mùa Hạ và chúng đến chỉ trong có vài phút để bắt họ. Công tác cảnh sát ở đây còn tốt hơn rất nhiều so với gã biết ở New York. Chúng là bọn quái nào nhỉ? Gã tự hỏi.
“Johann,” Willi Kohl hỏi tay bồi bàn, “chính xác thì người đàn ông đội mũ nâu ăn mặc ra sao?”
“Bộ vest xám nhạt, sơ mi trắng và cà vạt xanh dương, mà tôi thấy hơi lòe loẹt.”
“Hắn có to cao không?”
“Rất to cao, thưa ngài. Nhưng không béo. Có lẽ anh ta là người tập thể hình.”
“Còn đặc trưng nào khác nữa không?” “Theo tôi để ý thì không.”
“Hắn có phải người nước ngoài không?”
“Tôi không biết. Nhưng anh ta nói tiếng Đức rất chuẩn. Có lẽ trọng âm hơi nhẹ.”
“Màu tóc thì sao?”
“Tôi không nhớ. Sẫm hơn thì phải.” “Tuổi tác?”
“Không trẻ, không già.”
Kohl thở dài. “Và cậu có nói là ‘mấy người đi cùng’?” “Vâng, thưa sếp. Anh ta đến trước. Sau đó một người khác đến. Nhỏ nhắn hơn nhiều. Mặc vest xám đen hoặc xám sẫm. Tôi không nhớ cà vạt của ông ta. Rồi lại một người nữa đến, mặc áo liền quần màu nâu, tầm ba mươi tuổi. Có vẻ là một công nhân. Anh ta là người đến sau cùng.”
“Người to lớn có mang theo va li da hay ba lô không?” “Có. Nó màu nâu.”
“Những người đi cùng cũng nói tiếng Đức à?” “Vâng.”
“Cậu có nghe lỏm được họ nói chuyện gì không?” “Không, thưa Thanh tra.”
“Còn khuôn mặt hắn? Người đội mũ?“ Janssen hỏi.
Một thoáng ngập ngừng. “Tôi không nhìn thấy mặt anh ta hay của những người đi cùng.”
“Cậu phục vụ họ mà không thấy mặt họ sao?” Kohl hỏi. “Tôi không hề chú ý. Trong đây tối lắm, như ông có thể thấy. Và trong nghề này... có quá nhiều người. Nhìn nhưng hiếm khi thấy lắm, nếu ông hiểu ý tôi.”
Đúng thật, Kohl cho là vậy. Nhưng ông cũng biết rằng kể từ khi Hitler lên nắm quyền ba năm trước, mù lòa đã trở thành quốc nạn. Dân chúng hoặc đi tố cáo vài người vì những “tội ác” mình không chứng kiến, hoặc giả không thể nhớ lại các chi tiết những tội trạng họ đã thực sự thấy. Biết quá nhiều có thể đồng nghĩa với một chuyến đi đến Alex - trụ sở Cảnh sát - hoặc trụ sở Gestapo trên phố Prince Albretcht xem hàng lố ảnh nghi phạm nổi tiếng đến bất tận. Không ai sẵn sàng đi đến cả hai nơi này, những nhân chứng hôm nay có thể biến thành kẻ bị tình nghi vào ngày mai.
Đôi mắt tay bồi bàn nhìn cắm xuống sàn, lo lắng. Mồ hôi vã ra trên trán. Kohl thấy tiếc cho cậu ta. “Có lẽ liên quan đến mô tả mặt hắn ta, cậu có thể cung cấp cho chúng tôi vài quan sát khác, để cậu khỏi phải đến trụ sở cảnh sát. Nếu cậu vô tình nghĩ ra điều gì đó có ích.”
Cậu ta ngước mắt lên, nhẹ cả người.
“Tôi sẽ cố gắng hỗ trợ cậu,” thanh tra nói. “Hãy cùng bắt đầu với vài chi tiết cụ thể. Hắn ăn gì và uống gì?”
“À, cái này lạ lắm. Ban đầu, anh ta gọi một cốc bia lúa mạch. Chắc anh ta chưa bao giờ uống nó. Anh ta chỉ nhấp một ít rồi gạt sang bên. Nhưng anh ta uống hết cốc bia Pschorr mà người đi cùng gọi cho anh ta.”
“Tốt.” Kohl ban đầu còn chẳng hiểu những chi tiết này về một nghi phạm có thể hé lộ ra điều gì cơ bản. Có lẽ là nói về bang hoặc đất nước nơi hắn ta sống, có lẽ điều gì đó cụ thể hơn. Nhưng cũng đáng để ghi chép lại như Willi Kohl đang làm trong cuốn sổ tay có nhiều trang đã sờn của ông, sau khi liếm đầu bút chì. “Còn đồ ăn của hắn?”
“Một đĩa cải bắp và xúc xích của chúng tôi, với nhiều bánh mỳ và bơ thực vật. Họ ăn giống nhau. Người to lớn ăn hết tất cả, có vẻ anh ta đói ngấu. Người đi cùng chỉ ăn có một nửa.”
“Còn người thứ ba?” “Chỉ uống cà phê.”
“Người cao lớn thì sao - từ bây giờ chúng ta sẽ gọi vậy - cách hắn cầm dĩa như thế nào?” “Dĩa của anh ta?”
“Sau khi hắn cắt xúc xích, hắn ta có đổi tay cầm dĩa từ tay này sang tay kia để ăn miếng xúc xích không? Hay hắn có đưa đồ ăn lên miệng mà không dùng hai tay không?”
“Tôi… tôi không biết, thưa sếp. Tôi nghĩ sẽ có khả năng anh ta có đổi tay. Tôi nói vậy vì có vẻ anh ta luôn luôn bỏ dĩa xuống để uống bia.”
“Tốt lắm, Johann.”
“Tôi rất hạnh phúc hỗ trợ Lãnh tụ của tôi bằng bất kỳ cách nào có thể.”
“Phải, phải,” Kohl mệt mỏi nói.
Đổi tay cầm dĩa. Chuyện phổ biến tại các nước khác, nhưng hiếm hoi ở Đức, giống như huýt sáo gọi taxi. Vậy thì trọng âm có thể thực sự là người nước ngoài.
“Hắn có hút thuốc không?” “Tôi tin là có, thưa sếp.” “Tẩu, xì gà hay thuốc lá?”
“Tôi tin là thuốc lá. Nhưng tôi...”
“Không thấy nhãn hiệu nhà sản xuất à?” “Không thưa sếp. Tôi không thấy.”
Kohl bước qua phòng xem xét bàn của nghi phạm, những chiếc ghế xung quanh. Chẳng giúp được gì cả. Ông nhăn nhó thấy gạt tàn đầy ụ, nhưng không có đầu mẩu thuốc lá nào.
Thêm bằng chứng về sự thông minh của hắn?
Kohl sau đó cúi xuống, chạm vào một que diêm trên sàn dưới gầm bàn.
“A, phải rồi, xem này, Janssen! Vài mảnh đồ da cũng màu nâu như chúng ta đã thấy lúc nãy. Thực sự chính là anh bạn của chúng ta. Và có những dấu vết trong bụi ở đây, cho thấy rằng hắn có đặt ba lô xuống đây.”
“Tôi tự hỏi trong ba lô có gì,” Janssen nói.
“Rằng hắn không quan tâm đến chúng ta,” Kohl nói, cầm lên những mẩu da này nhét vào trong một phong bì. “Vào lúc này thì không đâu. Tầm quan trọng là chính cái túi kìa, mối liên kết nó thiết lập giữa người này với ngõ Dresden.”
Kohl cảm ơn tay bồi bàn và với cái nhìn thèm muốn một đĩa thịt bê chiên, ông bước ra ngoài, Janssen bám theo sau.
“Cùng hỏi hàng xóm xung quanh xem có ai thấy quý ông của chúng ta không. Cậu lo đầu kia con phố nhé, Janssen. Tôi sẽ lo phía những người bán hoa.” Kohl cười buồn. Những người bán hoa Berlin nổi tiếng là thô lỗ.
Janssen lôi ra chiếc khăn tay và lau lông mày. Cậu ta dường như có khẽ thở dài.
“Mệt à. Janssen?”
“Không, thưa sếp. Không mệt chút nào.” Cậu thanh niên ngần ngừ rồi nói thêm. “Chỉ là đôi khi công việc của chúng ta như vô vọng. Bao nhiêu nỗ lực chỉ vì một lão béo đã chết.”
Kohl thọc tay vào sâu trong túi lôi tẩu thuốc ra, nhăn nhó nhét khẩu súng ngắn vào cùng túi này và nó chật ních. Ông cho thuốc vào đầy tẩu, rồi nói, “Phải, Janssen, cậu nói đúng. Nạn nhân là một lão béo tuổi trung niên. Nhưng chúng ta là những thám tử thông minh, phải không? Chúng ta biết có một điều gì khác ở anh ta nữa.”
“Là gì vậy sếp?”
“Rằng anh ta là con trai của người khác.”
“À... dĩ nhiên là thế rồi.”
“Và có lẽ anh ta là anh em của ai đó. Và có thể là chồng hay người tình của ai đó. Và nếu may mắn, anh ta là cha của những đứa con trai và con gái. Tôi cũng sẽ hy vọng rằng những người tình cũ sẽ thi thoảng nghĩ đến anh ta. Và trong tương lai, những người tình khác có thể mong đợi anh ta. Và có ba hoặc bốn đứa trẻ nữa có thể nhờ anh ta mà được chào đời.” Ông quẹt diêm vào bao, để nó cháy âm ỉ trong chiếc tẩu bằng đất sét trắng. “Vì thế, Janssen ạ, khi cậu nhìn vào một biến cố theo cách này, chúng ta không chỉ có đơn thuần là một bí ẩn tò mò về một người béo đã chết. Chúng ta có một bi kịch tương tự như một mạng lưới chằng chịt nhiều mảnh đời khác nhau và nhiều địa điểm khác nhau, trải rộng suốt bao nhiêu năm. Điều đáng buồn là... Cậu có hiểu tại sao công việc của chúng ta quan trọng không?”
“Có, thưa sếp.”
Và Kohl tin rằng cậu thanh niên này thực sự hiểu. “Janssen, cậu phải đội mũ vào đi. Nhưng giờ thì tôi đổi ý rồi. Cậu lo phần có bóng râm trên phố. Dĩ nhiên sẽ có nghĩa là cậu phải thẩm vấn những người bán hoa. Họ sẽ đối xử với cậu bằng ngôn ngữ cậu chưa từng nghe trong trại lính Xung Kích. Cơ mà ít nhất cậu sẽ không quay về bên vợ đêm nay với làn da đen như củ dền thế kia.”