“T
ôi xin lỗi, Thanh tra Kohl, bộ phận bận rồi ạ.” “Bận hết à?”
“Vâng, thưa sếp,” người đàn ông hói đầu, trông nghiêm nghị mặc bộ đồ chật khít, cái nút cao trên ngực đáp. “Vài giờ trước, chúng tôi được lệnh ngưng tất cả các cuộc điều tra, lên danh sách mọi người trong hồ sơ có gốc Nga, hoặc nói tiếng Nga đi trình diện.”
Họ đang ở trong phòng của bộ phận xác định danh tính của Cảnh sát Hình sự, nơi tiến hành phân tích dấu vân tay và nhân trắc học.
“Tất cả mọi người ở Berlin à?” “Vâng. Đang có báo động mà.”
À, lại là vấn đề an ninh, cái vấn đề Krauss cho rằng quan trọng đến mức không thể nói với Cảnh sát.
“Họ tận dụng cả nhân viên khám nghiệm dấu vân tay đi kiểm tra các hồ sơ cá nhân? Kể cả các nhân viên của chúng tôi cũng thế”
“Bỏ hết tất cả,” người đàn ông cài cúc trả lời. “Đó là những mệnh lệnh của tôi. Từ trụ sở Cảnh sát Mật vụ.”
Lại là Himmler, Kohl nghĩ. “Xin ông đấy, Gerhard, đây là những vấn đề thiết yếu.” Ông cho anh ta xem những tấm ảnh và thẻ lưu dấu vân tay.
“Những bức ảnh đẹp lắm.” Gerhard xem xét. “Rất rõ.” “Làm ơn nhờ ba, bốn nhân viên khám nghiệm nó đi. Tôi chỉ cần thế thôi.”
Một tiếng cười the thé nở trên khuôn mặt tay quản lý. “Tôi không thể, Thanh tra. Ba ư? Không thể nào.”
Kohl cảm thấy phẫn nộ. Từ khi là sinh viên du học khoa học hình sự, ông luôn hướng ánh mắt ghen tỵ nhìn sang Mỹ hoặc Anh, nơi nhận dạng pháp y giờ đây chủ yếu được tiến hành bằng phân tích vân tay. Phải, ở đây vân tay được dùng để nhận dạng, nhưng khác với Mỹ, Đức không có hệ thống chính thức phân tích dấu vết, mỗi vùng trong nước một kiểu khác nhau. Một cảnh sát viên tại Westphalia có thể phân tích dấu vết theo cách này, một sĩ quan Cảnh sát tại Berlin lại phân tích theo cách khác. Khi gửi các mẫu đi tới đi lui cũng có thể thu được một nhân dạng, tuy nhiên quá trình này phải mất vài tuần. Kohl từ lâu đã ủng hộ việc chuẩn hóa phân tích dấu vân tay trên toàn quốc, tuy nhiên ông vấp phải sự thờ ơ và phản đối quyết liệt. Ông còn thúc giục cả giám sát của ông nên mua các máy truyền viễn ấn ảnh của Mỹ, những thiết bị tuyệt vời có thể truyền các tấm tranh, ảnh rõ nét, như ảnh chụp vân tay, bằng máy fax qua đường điện thoại chỉ trong vài phút. Tuy nhiên, chúng quá đắt và sếp của ông đã dẹp ngay đề nghị này, thậm chí chẳng buồn xới lại với người đứng đầu các lực lượng cảnh sát.
Cho dù vấn đề nhức nhối đối với Kohl đó là một khi Chủ nghĩa Phát xít lên nắm quyền, dấu vân tay sẽ bị xem là thứ yếu so với hệ thống nhân trắc học của Bertillon đã lỗi thời, áp dụng những số đo cơ thể, đầu và mặt để nhận diện tội phạm. Như hầu hết các thanh tra hiện đại, Kohl phản đối phép phân tích của Bertillon, cho là nó là cồng kềnh, phải, vì cơ cấu cơ thể người ở mỗi người có sự khác biệt rất lớn, nhưng hàng tá số đo chính xác là điều cần thiết để phân loại ai đó. Không như dấu vân tay, tội phạm hiếm khi để lại ấn tượng thể chất tại hiện trường để liên kết cá nhân nào đó với hiện trường tội ác, thông qua việc áp dụng toàn bộ dữ liệu của Bertillon.
Tuy nhiên, các lợi ích của Chủ nghĩa Phát xít trong nhân trắc học không còn nhằm mục đích nhận diện, mà biến thành phương tiện then chốt cho cái gọi là “khoa học” tội phạm học: phân loại tội phạm không dựa trên hành vi, mà chủ yếu dựa vào những đặc trưng thể chất. Hàng trăm mật vụ Gestapo và SS lao động cực khổ trọn thời gian tìm ra mối tương quan giữa kích cỡ mũi hay độ đậm của làn da với khuynh hướng phạm tội. Mục tiêu của Himmler không chỉ là mang tội phạm ra trước công lý, mà còn nhằm loại trừ tội ác trước khi nó xảy ra.
Đối với Kohl, điều này vừa đáng sợ, vừa ngu xuẩn. Nghiêng người nhìn căn phòng to lớn với những chiếc bàn dài, chật kín các cảnh sát nam nữ đang cắm mặt vào tài liệu, giờ thì Kohl hiểu rằng nỗ lực ngoại giao ông đã cân nhắc vận dụng trên suốt chặng đường đến đây đã thành công cốc. Cần phải có chiến thuật khác: dối trá. “Rất tốt. Ông cho tôi cái hẹn lúc nào có thể bắt đầu phân tích được. Tôi có chuyện cần phải nói với Krauss. Anh ta giục tôi suốt mấy giờ liền.”
Ngừng một lúc. “Pietr Krauss của chúng ta à?”
“Krauss của Gestapo, đúng đấy. Tôi sẽ nói với anh ta... tôi biết nói với anh ta cái gì đây, hả Gerhard? Sẽ mất của ông một tuần à, hay mười ngày?”
“Có liên quan đến Gestapo à?”
“Krauss và tôi cùng nhau điều tra hiện trường tội ác.” Ít nhất thì điều này đúng. Không ít thì nhiều.
“Có lẽ vụ này liên quan đến tình hình an ninh,” người đàn ông đáp, lúc này cảm thấy khó chịu.
“Tôi chắc chắn là thế rồi,” Kohl nói. “Có lẽ chính những dấu vân tay đó là của tên người Nga đang được nói đến.”
Người đàn ông kia không nói gì, xem xét các bức ảnh. Dáng người ông ta gầy như thế sao lại mặc bộ vest rộng thế kia?
“Tôi sẽ gửi các dấu vân tay cho một nhân viên khám nghiệm, có kết quả tôi sẽ gọi cho anh.”
“Bất cứ lúc nào anh làm được tôi đều biết ơn mà,” Kohl nói, suy nghĩ: Ái chà, một nhân viên khám nghiệm? Nhiều khả năng nhất là vô dụng, trừ phi hắn vô tình tìm được sự trùng hợp may mắn nào đó.
Kohl cảm ơn tay nhân viên kỹ thuật rồi quay gót xuống cầu thang. Ông bước vào văn phòng cấp trên của mình, Friedrich Horcher, chánh thanh tra tại Berlin-Potsdam.
Người đàn ông vóc dáng gầy còm với mái tóc xám, hàng ria mép được tẩy bằng sáp ong lún phún. Ông ta đã từng là một điều tra viên giỏi trong quá khứ, đương đầu tốt với những sóng gió chính trị tại Đức. Horcher tỏ thái độ nước đôi đối với Đảng, ông từng là đảng viên bí mật trong những ngày Lạm phát kinh hoàng, sau đó rời bỏ hãng ngũ do những quan điểm cực đoan của Hitler. Chỉ gần đây ông mới lại vào Đảng, có lẽ là miễn cưỡng, vô tình bị cuốn vào tiến trình biến đổi của đất nước. Hoặc có lẽ vì ông đích thực là một kẻ dễ thay đổi. Kohl không biết trường hợp nào mới đúng.
“Vụ án tiến triển sao rồi Willi? Vụ ngõ Dresden ấy?”
“Chậm lắm, thưa sếp.” Ông chán nản nói thêm, “Có vẻ như nguồn lực bị trưng dụng hết. Các nguồn lực của chúng ta.” “Phải, đang có chuyện gì đó. Báo động hay đại loại thế.” “Đúng vậy.”
“Tôi tự hỏi cậu có nghe ngóng được gì không?” Horcher hỏi. “Không, chẳng nghe thấy gì.”
“Nhưng chúng ta vẫn đang chịu sức ép. Họ nghĩ rằng thế giới đang theo dõi và một người chết gần Tiergarten có thể làm xấu hình ảnh thành phố chúng ta mãi mãi.” Ở cấp độ của Horcher, mỉa mai là một điều xa xỉ nguy hiểm, Kohl không thể phát hiện điều đó trong giọng nói của ông ta. “Có nghi phạm nào không?”
“Chỉ vài thông tin về vẻ ngoài, vài manh mối nhỏ. Thế thôi.” Horcher vuốt thẳng mấy tờ giấy trên bàn. “Sẽ rất có ích nếu hung thủ là...”
“... một người nước ngoài?” Kohl nói thêm. “Chính xác.”
“Chúng tôi sẽ xem xét... Tôi muốn sếp làm cho tôi một việc. Nạn nhân vẫn chưa được nhận diện. Đây là một người khuyết tật. Tôi muốn đăng ảnh lên các tờ The People’s Observer và Journal, xem có ai nhận ra không.”
Horcher phá lên cười. “Một bức ảnh xác chết đăng báo à?” “Không biết được nạn nhân là ai, sẽ là bất lợi rất lớn trong công tác điều tra.”
“Tôi sẽ đưa vấn đề này lên văn phòng tuyên truyền, xem Bộ trưởng Goebbels phải nói gì. Sẽ phải rõ ràng đối với ông ấy.” “Cảm ơn sếp.” Kohl quay lưng định bước đi, nhưng ông dừng lại. “Một vấn đề nữa, Chánh Thanh tra. Tôi vẫn đang chờ báo cáo của Gatow. Phải mất một tuần đấy. Tôi đang tự hỏi không biết sếp nhận được chưa.”
“Cái gì ở Gatow thế? Một vụ xả súng à?”
“Hai,” Kohl chỉnh lại. “Hai vụ xả súng.”
Vụ thứ nhất, hai gia đình đang đi picnic bên bờ sông Havel, Tây nam Berlin bị bắn chết, bảy người bao gồm ba trẻ em. Hôm sau xảy ra vụ thảm sát thứ hai: tám người lao động đang sống trong các lều bạt gần Gatow và Charlottenburg, khu ngoại ô biệt lập Tây Berlin.
Viên chỉ huy cảnh sát tại Gatow chưa bao giờ xử lý một vụ thế này, nên một trong số các thuộc cấp của ông ta đã nhờ Cảnh sát Hình sự giúp đỡ. Raul, một sĩ quan trẻ nhiệt tình đã nói chuyện với Kohl và gửi các bức ảnh hiện trường tội ác sang Alex. Willi Kohl, vốn đã chai sạn với những cuộc điều tra án mạng, tuy nhiên cũng bị sốc trước hình ảnh các bà mẹ và lũ trẻ bị xả súng. Cảnh sát có thẩm quyền đối với tất cả các tội ác phi chính trị trên toàn nước Đức, nên Kohl mong muốn đưa các vụ này lên mức ưu tiên hàng đầu.
Tuy nhiên, thẩm quyền pháp lý và việc điều động các nguồn lực là hai vấn đề rất khác nhau, đặc biệt trong những tội ác kiểu này, như Raul đã thông báo cho ông, khi các nạn nhân là những người Do Thái và tương ứng là Ba Lan.
“Chúng ta sẽ để cảnh sát Gatow giải quyết chuyện này,” tuần trước Horcher đã nói với ông như thế.
“Các vụ án mạng ở mức độ này sao?” Kohl hỏi, nhưng lòng cảm thấy bối rối và hoài nghi. Các viên cảnh sát ở ngoại ô và nông thôn chỉ đủ tầm điều tra các vụ tai nạn giao thông và bò bị ăn cắp. Cảnh sát trưởng Gastow, Wilhelm Meyerhoff, là một công chức đần độn, lười nhác đến nỗi không thể tìm được lát bánh mỳ nướng cho bữa sáng của hắn đâu nếu không ai giúp.
Thế nên Kohl liên tục nài nỉ Horcher, cho đến khi tối thiểu là được phép xem xét báo cáo hiện trường. Ông gọi cho Raul hướng dẫn anh ta các kỹ thuật điều tra cơ bản, đề nghị anh ta thẩm vấn các nhân chứng. Tay cảnh sát hứa gửi báo cáo lại cho Kohl ngay sau khi được cấp trên phê chuẩn. Kohl đã nhận được ảnh nhưng chỉ có thế thôi.
Lúc này, Horcher nói, “Chưa có tin gì đâu, Willi. Nhưng xin cậu đấy - người Do Thái và Ba Lan à? Chúng ta còn những ưu tiên khác.”
Kohl trầm tư nói. “Dĩ nhiên, sếp, tôi hiểu mà. Tôi chỉ quan tâm tụi Kosis đừng phản công lại bằng bất kỳ trò gì.”
“Tụi Cộng sản à? Chuyện này liên quan gì đến họ?”
“Tôi không nghĩ ra ý tưởng này cho đến khi xem các bức ảnh. Nhưng tôi nhận ra những vụ thảm sát này được thực hiện có tổ chức - và không hề có nỗ lực che đậy. Những vụ giết người rõ mồn một đối với tôi. Gần như là được dàn cảnh vậy.”
Horcher cân nhắc điều này. “Cậu đang nghĩ rằng tụi Cộng sản muốn dàn xếp như thể Gestapo hay SS đứng đằng sau các vụ thảm sát? Phải, thông minh đấy, Willi. Những thằng khốn mặt đỏ chắc chắn sẽ hạ mình làm chuyện đó.”
Kohl nói thêm, “Đặc biệt là với Thế vận hội, có phóng viên nước ngoài đến thành phố. Bọn chúng thật là muốn hủy hoại hình ảnh của chúng ta trong mắt thế giới.”
“Tôi sẽ xem xét báo cáo, Willi. Sẽ gọi mấy cuộc. Một suy nghĩ thông minh đấy.”
“Cảm ơn sếp.”
“Giờ thì đi giải quyết vụ ngõ Dresden đi. Nếu sếp cảnh sát của chúng ta muốn một thành phố sạch, chúng ta sẽ cho ông ta một thành phố sạch.”
Kohl quay về văn phòng, nặng nề buông mình xuống ghế, mát xa bàn chân khi nhìn chằm chằm các bức ảnh hai gia đình bị giết. Những gì ông nói với Horcher chẳng có ý nghĩa gì. Dù có chuyện gì xảy ra tại Gatow, đó không phải là âm mưu của Cộng sản. Nhưng Chủ nghĩa Phát xít thèm khát những âm mưu như lợn thèm nước gạo. Đây là những trò chơi phải chơi. Chà, nền giáo dục ông được hưởng kể từ tháng 01 năm 1933 mới hay ho làm sao.
Ông cất lại các bức ảnh vào cặp hồ sơ dán nhãn Gatow/ Charlottenburg rồi đặt sang một bên. Sau đó, ông bỏ các phong bì màu nâu đựng bằng chứng thu được vào buổi chiều hôm đó vào một cái hộp. Phía trên hộp ông viết Vụ ngõ Dresden. Ông bỏ thêm các bức ảnh chụp dấu vân tay, hiện trường tội ác và nạn nhân vào đó, rồi đặt cái hộp ở vị trí dễ thấy trên bàn làm việc.
Gọi điện cho tay Bác sĩ pháp y, ông muốn hẹn anh ta đi cà phê. Trợ lý bảo rằng một Xác chết Vô Danh Tính A 25-7-36-Q được gửi đến từ ngõ Dresden, nhưng anh ta không biết khi nào nó được khám nghiệm. Có khả năng là ban đêm. Kohl nhăn nhó. Ông đã hy vọng ít nhất thì cái xác đang được xem xét, nếu vẫn chưa xong. Ông gác máy.
Janssen quay lại. “Các bức Điện tín được truyền đến các đồn cảnh sát rồi, thưa sếp. Tôi đã dặn họ là khẩn cấp.”
“Cảm ơn.”
Điện thoại của ông reo vang, ông trả lời cuộc gọi. Lại là Horcher.
“Willi, Bộ trưởng Goebbels nói rằng chúng ta không thể đăng ảnh người chết lên báo. Tôi đã cố thuyết phục ông ấy. Tôi dám nói với anh tôi giỏi thuyết phục nhất. Tôi đã nghĩ mình sẽ làm được. Nhưng cuối cùng thì thất bại rồi.”
“Được rồi, cảm ơn Chánh Thanh tra.” Ông gác máy, chua chát nghĩ: thuyết phục giỏi nhất, hẳn rồi. Ông thậm chí còn nghi ngờ cả cuộc gọi đó.
Kohl bảo tay thanh tra tập sự những gì ông ta đã nói. “Ái chà, sẽ phải vài ngày hoặc vài tuần để pháp y xác định chính xác vân tay chúng ta tìm thấy. Janssen, lấy tấm ảnh chụp nạn nhân... Không, không, tấm kia cơ - tấm nạn nhân ít mang vẻ chết chóc hơn. Mang nó đến phòng in ấn bảo họ in ra năm trăm bản khắc axit. Bảo họ tăng tốc cực đại đi. Nói rằng đó là vấn đề của cả Cảnh sát/Gestapo kết hợp. Chúng ta có thể ít nhất khai thác được Thanh tra Krauss, chính vì hắn mà chúng ta đến Khu Vườn Mùa Hạ muộn. Phải nói rằng, chuyện đó vẫn còn làm tôi bực mình.”
“Rõ, thưa sếp.”
Mười phút sau, đúng lúc Janssen quay về, điện thoại lại reo vang, Kohl nhấc ống nghe. “Vâng, Kohl đây.”
“Georg Jaeger đây. Anh khỏe không?”
“Georg! Tôi khỏe. Đang làm việc cả ngày thứ Bảy khi mà tôi hy vọng được ở Lust-garten bên gia đình. Nhưng đời là thế đấy. Còn anh?”
“Cũng đang làm việc. Luôn là thế.”
Jaeger đã từng làm trợ lý cho Kohl vài năm trước. Anh ta là một thanh tra rất tài năng, sau khi Đảng lên nắm quyền, anh ta được đề nghị gia nhập Gestapo. Nhưng anh ta từ chối. Sự cự tuyệt thẳng thừng này rõ ràng xúc phạm vài vị tai to mặt lớn. Anh ta quay lại với Cảnh sát Trật tự mặc thường phục - một bước lùi đối với một thanh tra Cảnh sát Hình sự. Thế nhưng hóa ra, Jaeger lại tuyệt hảo trong công việc mới, anh ta nhanh chóng nắm quyền phụ trách đồn Cảnh sát Trật tự tại Trung bắc Berlin. Thật mỉa mai, dường như anh ta còn thấy hạnh phúc tại xứ sở bị đày ải ấy hơn là ở Alex, vũng bùn hấp dẫn.
“Tôi gọi với hy vọng có thể giúp anh một chút, Giáo sư.” Kohl bật cười. Ông nhớ lại đây là cách Jaeger gọi Kohl khi hai người còn làm việc cùng nhau. “Là chuyện gì thế?”
“Chúng tôi vừa nhận được bức điện tín, nội dung về nghi phạm trong vụ án anh đang phụ trách.”
“Đúng rồi, đúng rồi, Georg. Anh có tìm thấy cửa hàng súng nào bán một khẩu Star Modelo A của Tây Ban Nha không? Đã tìm được rồi à?”
“Chưa, nhưng tôi có nghe nói vài tên SA khiếu nại bị ai đó tấn công tại cửa hàng sách trên phố Rosenthaler mới đây. Hắn ta khớp với mô tả trong điện tín của anh.”
“Ôi trời, Georg, đúng là hữu ích nhất đấy. Anh có thể bảo chúng gặp tôi tại nơi xảy ra vụ tấn công được không?”
“Chúng sẽ không chịu hợp tác đâu, nhưng tôi sẽ liên hệ với mấy thằng ngu này nếu chúng có mặt tại đồn của tôi. Tôi chắc chắn là chúng sẽ đến. Bao giờ gặp?”
“Bây giờ đi. Ngay lập tức.”
“Nhất định rồi, Giáo sư.” Jaeger cung cấp địa chỉ cửa hàng sách trên phố Rosenthaler, rồi hỏi. “Cuộc sống dạo này ở Alex thế nào?”
“Có lẽ chúng ta sẽ để lúc khác chuyện trò, với rượu snap và bia.”
“Phải, dĩ nhiên rồi,” tay tư lệnh Cảnh sát Trật tự ranh mãnh nói. Anh ta chắc đang nghĩ rằng Kohl thấy miễn cưỡng khi thảo luận các vấn đề nhất định trên điện thoại.
Điều này chắc chắn đúng. Cho dù việc Kohl kết thúc cuộc gọi chẳng gì khác ngoài việc ông cảm thấy cực kỳ nóng ruột đi tìm tên đội mũ giống Göring.
“Chà,” tên Áo Nâu chua chát thì thầm.” một thanh tra Cảnh sát Hình sự đến giúp chúng tôi? Nghe này, các đồng chí, cảnh này hay ho đấy.”
Tên này phải cao hơn hai mét, giống như nhiều tên Xung kích khác, hoàn toàn đáng tin cậy: Từ việc làm theo công nhật trước khi hắn gia nhập SA, và từ việc tuần tra không ngừng nghỉ, không suy nghĩ giờ hắn đang làm. Hắn ngồi trên lề đường, cái mũ màu nâu hình hộp thiếc hắn đang cầm rũ xuống trên mấy ngón tay.
Một tên Áo Nâu khác, lùn hơn nhưng chắc nịch, tựa người vào mặt tiền một cửa hàng tạp phẩm nhỏ. Biển hiệu trên cửa sổ ghi chữ Hôm nay không có bơ và thịt cừu. Kế bên là một cửa hàng sách với ô cửa sổ bị đập vỡ. Thủy tinh và những cuốn sách rách nát vung vãi trên vỉa hè. Tên này mặt nhăn nhó khi ôm lấy khuỷu tay đeo băng của hắn. Tên thứ ba ngồi ủ rũ thành một đống. Máu khô còn dính trên mặt trước áo sơ mi.
“Cơn gió nào mang ngài đến đây thế, Thanh tra?” Tên Áo Nâu thứ nhất nói tiếp. “Không phải vì chúng tôi, chắc luôn. Những tên Cộng sản hẳn sẽ bắn gục chúng tôi giống như Horst Wessel, trong khi ngài vẫn rung đùi uống cà phê, chén bánh ngọt tại Alexander Plaza.”
Janssen cứng người lại trước những lời sỉ nhục, tuy nhiên cái liếc mắt của Kohl đã ngăn cậu lại. Tay thanh tra nhìn bọn chúng thông cảm. Một cảnh sát hay một quan chức Chính phủ ngang cấp với Kohl có thể sỉ nhục những tên Xung Kích cấp thấp mà chẳng chịu hậu quả gì. Nhưng điều ông cần bây giờ là sự hợp tác của chúng. “À, các quý ông tốt bụng của tôi, chẳng có lý do gì nói những lời như thế. Cảnh sát Hình sự quan tâm đến cuộc sống của các cậu như của mọi người khác. Làm ơn cho tôi biết về cuộc phục kích.”
“Chà, ông nói đúng, Thanh tra,” tên to lớn hơn nói, gật đầu với từ ngữ được lựa chọn cẩn thận của Kohl. “Đó là một cuộc phục kích. Hắn xuất hiện từ phía sau, trong khi chúng tôi đang thi hành luật pháp đối với những cuốn sách cấm.”
“Cậu là...?”
“Hugo Felstedt. Tôi chỉ huy các trại lính tại Lâu đài Berlin.” Kohl biết, đó là một nhà kho ủ rượu bia bỏ hoang. Hơn hai chục tên Xung Kích đã tiếp quản nó. “Lâu đài” có thể được hiểu là “quán trọ.”
“Họ là ai?” Kohl hỏi, hất đầu về phía cửa hàng sách. “Một cặp đôi. Có vẻ là vợ chồng.”
Kohl cố gắng giữ ánh mắt quan tâm. Ông nhìn quanh. “Họ cũng thoát rồi à?”
“Đúng vậy.”
Tên Xung Kích thứ ba cuối cùng cũng lên tiếng. Cho dù mất răng, hắn vẫn nói, “Dĩ nhiên, kế hoạch là thế. Hai người đánh lạc hướng chúng tôi, sau đó tên thứ ba đến từ đằng sau. Hắn đánh chúng tôi bằng một cái gậy.”
“Tôi hiểu. Và hắn có đội mũ Stetson không? Giống mũ của Bộ trưởng Göring không? Có đeo cà vạt xanh không?”
“Đúng đấy,” tên to lớn hơn tán thành. “Một cà vạt Do Thái, lòe loẹt.”
“Các cậu có nhìn thấy mặt hắn không?” “Hắn có cái mũi to và hàm dưới toàn thịt.” “Lông mày rậm. Và đôi môi bĩu ra.”
“Hắn ta béo lắm,” Felstedt góp thêm. “Giống trên tờ The Stormer tuần trước ý. Ông có coi không? Trông hắn ta giống hệt tay diễn viên trên trang bìa.”
Đó là tờ tạp chí khiêu dâm, bài Do Thái của Julius Streicher đăng các bài viết thêu dệt về những tội ác người Do Thái phạm phải, những bài viết vô nghĩa về sự thấp kém đặc trưng chủng tộc của họ. Trên các trang bìa là những bức tranh biếm họa thô tục người Do Thái. Làm xấu hổ ngay cả đối với những người theo Chủ nghĩa Phát xít, báo được xuất bản chỉ vì Hitler thích thú với báo cỡ nhỏ.
“Thật buồn là tôi không đọc,” Kohl đáp khô khốc. “Và hắn nói tiếng Đức?”
“Vâng.”
“Hắn nói có trọng âm không?” “Một trọng âm Do Thái.”
“Phải, phải, nhưng có lẽ một trọng âm khác. Trọng âm Bavaria? Westphalia hay Saxon chẳng hạn?”
“Có thể.” Một cái gật đầu của tên to béo. “Vâng, tôi nghĩ vậy. Ông biết đấy, hẳn là hắn sẽ không làm đau chúng tôi được, nếu hắn chiến đấu như một người đàn ông. Chứ không phải hèn nhát...”
Kohl ngắt lời. “Có thể trọng âm của hắn xuất phát từ một nước khác?”
Ba tên nhìn nhau. “Chúng tôi không biết, đúng không. Chúng tôi chưa từng rời khỏi Berlin.”
“Có thể là Palestine,” một tên gợi ý. “Có thể là thế đấy.” “Được rồi, vậy là hắn tấn công các cậu từ đằng sau bằng gậy.” “Và bằng cái này nữa.” Tên thứ ba giơ lên một cặp móc đồng. “Đó là của hắn à?”
“Không, chúng là của tôi. Hắn có mang theo cái của hắn.” “Phải, phải, tôi hiểu. Hắn tấn công cậu từ đằng sau. Nhưng tôi thấy chỉ mũi cậu bị chảy máu.”
“Tôi ngã về phía trước khi hắn đánh tôi.”
“Và chính xác vụ tấn công xảy ra ở đâu?”
“Đằng kia.” Hắn chỉ một mảnh vườn nhỏ lấn ra vỉa hè. “Một trong số các đồng chí của chúng tôi đã đi gọi hỗ trợ. Anh ấy quay lại và tên Do Thái hèn nhát đó co giò chạy như thỏ.”
“Lối nào?”
“Kia. Xuống vài con ngõ về phía Đông. Tôi sẽ chỉ cho ông.” “Đợi chút đã,” Kohl nói. “Hắn có mang ba lô không?” “Có.”
“Và hắn có mang theo khi chạy à?” “Đúng vậy. Hắn giấu gậy trong đó.”
Kohl hất đầu về phía khu vườn, ông cùng Janssen bước đến đó. “Đúng là vô dụng,” tay trợ lý thì thầm với Kohl. “Bị một tên Do Thái to con tấn công bằng móc đồng và gậy. Và có thể 50 tên Được Lựa Chọn đi ngay sau hắn ta.”
“Janssen, tôi cảm thấy được rằng số lượng nhân chứng và nghi phạm này giống như khói. Bản thân các từ ngữ thường xuyên vô nghĩa, nhưng chúng có thể dẫn ta đến đầu mối.”
Họ bước vòng quanh khu vườn, xem xét thận trọng.
“Ở đây, thưa sếp” Janssen phấn khích kêu lên. Cậu ta tìm thấy một cuốn sách nhỏ chỉ đường đến Làng Thế vận hội, viết bằng tiếng Anh.
Kohl rất vui sướng. Thật lạ lùng khi du khách người nước ngoài đến vùng lân cận nhạt nhẽo này, rồi vô tình làm mất cuốn sách nhỏ tại đúng nơi xảy ra đánh lộn. Nhiều trang giấy hơi cứng, không có vết bẩn cho thấy nó mới nằm trên cỏ một thời gian ngắn. Ông cầm nó lên bằng khăn tay (đôi khi có thể tìm ra dấu vân tay trên giấy). Cẩn thận mở ra, ông không tìm thấy chữ viết tay trên các trang giấy, không thấy đầu mối nào để nhận dạng người sở hữu nó. Ông gói cuốn sách nhỏ lại bỏ vào túi. Ông gọi những tên lính Xung Kích, “Làm ơn hãy đến đây.” Ba tên bước đến khu vườn.
“Đứng đó, thành một hàng.” Tay thanh tra chỉ vào một chỗ đất trống.
Chúng xếp thành hàng chính xác, những tên lính Xung Kích đúng là có biệt tài xếp hàng. Kohl xem xét những đôi ủng, so sánh kích cỡ và hình dạng với những vết đế giày trong đất. Ông thấy rằng kẻ tấn công có bàn chân lớn hơn chúng, rằng gót giày của hắn bị ăn mòn nhiều hơn.
“Tốt.” Quay sang Felstedt, ông nói, “Cho chúng tôi xem cậu đuổi hắn ở đâu. Hai người còn lại về được rồi.”
Tên có khuôn mặt chảy máu kêu lên, “Thanh tra, khi nào ông tìm được hắn thì gọi chúng tôi nhé. Ở trại lính chúng tôi có xà lim đấy. Chúng tôi sẽ xử hắn tại đó.”
“Rồi, rồi, việc đó có lẽ thu xếp được. Và tôi sẽ dành cho các cậu nhiều thời gian kiếm thêm ba người nữa xử lý hắn.”
Tên lính Xung Kích ngần ngừ, tự hỏi có phải mình bị giễu không. Hắn nhìn chiếc áo sơ mi thấm máu đỏ ối. “Hãy nhìn này. Chà, khi chúng tôi tóm được hắn, chúng tôi sẽ rút cạn máu hắn. Đi thôi nào, đồng chí.”
Hai tên bước xuống vỉa hè.
“Lối này. Hắn chạy theo lối này.” Felstedt dẫn Kohl cùng Janssen vào hai ngõ tiến ra con phố Gormann đông đúc.
“Chúng tôi chắc chắn hắn đi vào một trong những con ngõ khác. Người của chúng tôi đã bịt kín hết đầu ra tất cả các ngõ, nhưng hắn đã biến mất.”
Kohl thăm dò chúng. Vài con ngõ tỏa ra từ các con phố. Một con ngõ trong số này là ngõ cụt, các ngõ khác đâm ra các con phố khác nhau. “Được rồi, thưa ngài, chúng tôi sẽ lo tiếp từ đây.”
Với việc đồng bọn đi hết rồi, Felstedt có vẻ thật thà hơn. Bằng một giọng thấp, hắn nói, “Hắn là một kẻ nguy hiểm, thưa Thanh tra.”
“Và cậu cảm thấy những mô tả của cậu là chính xác?” Ngập ngừng một lúc, rồi nơi: “Một tên Do Thái. Rõ ràng hắn là một tên Do Thái, đúng vậy. Mái tóc quăn như kiểu người Ethiopia, cái mũi Do Thái, đôi mắt Do Thái.” Tên lính Xung Kích phủi phủi vết dơ trên áo rồi nghênh ngang bước đi.
“Thằng ngu,” Janssen lẩm bẩm, liếc mắt tò mò về phía Kohl, ông nói, “Tôn trọng chút đi.” Viên thanh tra đang nhìn khắp con ngõ, suy tư. “Cho dù bất chấp giọng điệu mù quáng của hắn, tôi tin vào những gì “tên chỉ huy” Felstedt nói với chúng ta. Nghi phạm của chúng ta bị dồn vào chân tường nhưng đã thoát được - thoát khỏi hàng tá lính SA. Chúng ta sẽ xem các thùng rác trong những con ngõ, Janssen.”
“Rõ, thưa sếp. Ông nghĩ hắn vứt lại quần áo hay ba lô để chạy à?”
“Theo logic thì thế.”
Họ cùng kiểm tra từng con ngõ một trong số này, nhìn vào các thùng rác: chẳng có gì ngoài những thùng carton cũ, giấy, hộp thiếc, chai lọ và đồ ăn thối rữa.
Kohl đứng yên một lúc, hai tay đặt lên hông, liếc nhìn xung quanh rồi hỏi, “Ai giặt các áo sơ mi cho cậu, Janssen?”
“Áo sơ mi của tôi?”
“Chúng luôn được giặt là chỉn chu đến hoàn hảo.” “Vợ tôi, dĩ nhiên rồi.”
“Vậy thì tôi xin lỗi, cô ấy phải làm sạch và sửa lại cái áo cậu đang mặc rồi.”
“Tại sao cô ấy phải làm thế?”
“Vì cậu sẽ phải nằm sấp, chui vào rãnh thoát nước kia kìa.” “Nhưng...”
“Phải, phải, tôi biết. Nhưng tôi đã làm thế nhiều lần rồi. Và đến tuổi này, Janssen ạ, thì tôi được miễn đấy. Giờ thì cởi áo vest ra. Lụa đắt tiền lắm. Không cần phải sửa cả nó nữa đâu.”
Cậu thanh niên trao cho Kohl chiếc áo vest màu xanh sẫm. Chiếc áo tuyệt đẹp. Gia đình Janssen khá giả, cậu ta không phải phụ thuộc vào khoản tiền lương thanh tra học việc hàng tháng - đó là điều may mắn xét theo mức đền bù bèo bọt các thanh tra Cảnh sát Hình sự được nhận. Cậu quỳ xuống mặt đường đá cuội, đỡ thân mình bằng một tay, vươn người vào khe hở tối tăm.
Nhưng rốt cuộc, hóa ra chiếc áo sơ mi không bị dơ nhiều lắm. Vì chỉ một lúc sau cậu ta đã gọi với ra. “Ở đây có một thứ, thưa sếp!” Cậu đứng dậy giơ ra một vật thể màu nâu bị vò nhàu. Cái mũ của Göring. Và một phần thưởng: Bên trong là cà vạt, đúng là cà vạt xanh lòe loẹt.
Janssen giải thích rằng chúng đang nằm tựa vào một cái gờ thấp hơn khe cống nửa mét. Cậu khám xét một lần nữa nhưng không tìm thêm được gì.
“Chúng ta có vài câu trả lời rồi, Janssen,” Kohl nói, xem xét bên trong chiếc mũ. Nhãn hiệu của nhà sản xuất có ghi, Stetson Mity-Lite. Một dòng chữ khác được khâu vào bên trong tại cửa hàng. Mũ Nam của Manny, Thành phố New York.
“Bổ sung thêm vào chân dung kẻ sát nhân của chúng ta.” Kohl rút ra chiếc kính một mắt từ trong túi, đeo lên rồi xem xét vài sợi tóc dính trên dải mũ. “Hắn có mái tóc nâu sẫm, chiều dài trung bình, có pha chút sắc đỏ. Không đen hoặc “quăn” chút nào cả. Tóc thẳng. Và không hề có vết kem hoặc tinh dầu tóc.”
Trao cái mũ và cà vạt cho Janssen, Kohl liếm đầu bút chì, ghi những phát hiện mới nhất vào sổ tay rồi đóng lại.
“Giờ đi đâu thưa sếp? Quay về Alex sao?”
“Rồi tôi với cậu làm gì ở đấy? Gặm bánh quy và uống cà phê, như mấy đồng chí Xung Kích nghĩ chúng ta làm thế suốt cả ngày à? Hay xem lũ Gestapo tước hết tài nguyên của chúng ta khi chúng vây từng người Nga trong thành phố? Không, tôi nghĩ chúng ta sẽ đi một vòng. Tôi hy vọng chiếc DKW không quá nóng. Lần trước Heidi và tôi có mang trẻ con về nông thôn, nơi chúng tôi ngồi bên ngoài Falken-hagen suốt hai tiếng, chẳng làm quái gì ngoài ngắm bò.”